Phát biểu tại cuộc họp báo đầu tiên sau khi được bầu làm chủ tịch Quốc hội khoá
14 vào ngày 23 tháng 7, bà Nguyễn Thị Kim Ngân, một mặt, ca tụng các thành tựu
của đảng Cộng sản Việt Nam, mặt khác, phê phán các tổ chức xã hội dân sự và
những người thường xuyên phản biện lại các chính sách của đảng và nhà nước. Bà
nói:
“Bảo vệ hòa bình không phải hô hào cho
thật to, kích động thế này thế khác là có được chủ quyền, không có đâu. Một số
tổ chức, cá nhân lên tiếng hô hào thế này thế nọ nhưng những người đó, tổ chức
đó làm gì cho đất nước? Chưa làm gì cả, chỉ có nói, kích động các phần tử để
làm rối tình hình.”
Phát biểu của bà Nguyễn Thị Kim Ngân
rất giống với các luận điệu thường nghe của các dư luận viên của đảng. Trên các
mạng lưới truyền thông xã hội, đặc biệt facebook, để chống chế lại những sự phê
phán đối với các chính sách sai lầm cũng như những việc làm sai trái của giới
lãnh đạo Việt Nam, các dư luận viên cũng thường nói: Các người chỉ biết nói
suông chứ đã thực sự làm được điều gì cho đất nước?
Sự giống nhau trong các lời phát biểu
trên cho thấy hai điều: Một, đó là quan điểm chung của giới lãnh đạo Việt Nam
hiện nay; và hai, quan điểm ấy chỉ là một sự nguỵ biện vừa sai lầm vừa hời hợt.
Sai lầm một cách hời hợt.
Trong một chế độ dân chủ, khi người dân
được quyền tự do phản biện và hành động, người ta có thể khuyên, giống như lời
khuyên của Tổng thống Mỹ John F. Kennedy trước đây, “đừng hỏi đất nước đã làm
gì cho bạn mà hãy tự hỏi bạn đã làm được gì cho đất nước”. Nhưng dưới một chế
độ độc tài thì khác. Ở Việt Nam hiện nay, việc hình thành các tổ chức xã hội
dân sự bị cấm đoán. Một số tổ chức xã hội dân sự được ra đời một cách tự phát
thì bị ngăn chặn mọi hoạt động, ngay cả những hoạt động được thừa nhận trong
hiến pháp: biểu tình, dù là biểu tình với một lý do hoàn toàn chính đáng là
chống lại các việc gây hấn ngang ngược của Trung Quốc. Xuống đường biểu tình:
bị bắt. Thậm chí chỉ lên tiếng phản biện lại chính phủ cũng bị trù dập. Trong
hoàn cảnh như thế, hỏi những người yêu nước đã làm được gì cho đất nước cũng
giống như việc trói chân trói tay một người rồi trách mắng là họ không làm được
điều gì cả.
Trong lúc chính quyền Việt Nam tìm mọi
cách để phủ nhận ý nghĩa của các tổ chức xã hội dân sự, hầu hết các nhà nghiên
cứu về chính trị học trên thế giới đều cho xã hội dân sự là một trong những nền
tảng chính của dân chủ. Với họ, xã hội dân sự còn quan trọng hơn cả thế chế. Có
nhiều nước có thể chế dân chủ, nghĩa là có bầu cử tự do và có tam quyền phân
lập nhưng vẫn không có dân chủ hoặc nếu có, tính chất dân chủ ấy cũng rất bấp
bênh. Kinh nghiệm tại các quốc gia Trung Đông và Bắc Phi sau cuộc cách mạng mùa
xuân Ả Rập vào năm 2011 là ví dụ. Sau khi chế độ độc tài bị lật đổ, dân chúng
được tự do bầu cử, nhưng các chính phủ mới được dựng lên từ các cuộc bầu cử ấy
không hẳn là dân chủ thật. Lý do? Có nhiều, nhưng lý do quan trọng nhất là ở đó
chưa có các tổ chức xã hội dân sự, hoặc có, chỉ có một cách èo uột. Sự khác
nhau trong tiến trình dân chủ hoá tại các quốc gia Đông Âu sau khi chủ nghĩa
cộng sản sụp đổ cũng vậy: ở đâu xã hội dân sự mạnh, ở đó dân chủ được xây dựng
vững chắc, ngược lại, ở đâu xã hội dân sự còn manh nha và rời rạc, ở đó, nguy
cơ quay lại độc tài rất cao.
Được hiểu là một tập hợp tự nguyện của
một số công dân nhắm đến việc phục vụ cho một lý tưởng chung, xã hội dân sự có
tác dụng củng cố ba đặc điểm vốn được xem là nền tảng của mọi tiến trình dân
chủ hoá: ý thức về quyền của mỗi cá nhân; ý thức về trách nhiệm của cá nhân đối
với tập thể; và ý thức về sự hợp tác giữa các cá nhân với nhau vì một mục đích
chung của cả tập thể. Không thể có dân chủ nếu không có ba loại ý thức ấy.
May, mặc dù bị chính phủ cấm đoán, các
tổ chức xã hội dân sự đang dần dần hình thành tại Việt Nam. Họ đã tổ chức nhiều
cuộc biểu tình với những mục tiêu khác nhau tại Việt Nam, từ việc chống Trung
Quốc đến việc bảo vệ cây xanh tại Hà Nội cũng như việc yêu cầu sự minh bạch
trong vấn đề môi trường ở miền Trung. Tuy nhiên, việc làm đáng kể nhất của họ,
cho đến nay, là lên tiếng phản biện lại các chính sách của nhà cầm quyền. Trên
các mạng lưới truyền thông xã hội, nhiều người trong họ không ngừng phát hiện
những sai trái trong phát biểu cũng như hành động của chính phủ.
Những sự phản biện của họ có hiệu quả
hay không?
Tôi nghĩ là có.
Trước đây, mỗi lần nhắc đến hiện tượng
ngư dân Việt Nam bị các tàu hải giám của Trung Quốc đâm chìm hay cướp bóc,
truyền thông Việt Nam chỉ dám dùng chữ “tàu lạ”. Chữ “tàu lạ” ấy bị mỉa mai và
phê phán gay gắt chủ yếu trên các mạng lưới truyền thông xã hội vốn được xem là
thuộc “lề trái”. Sự mỉa mai và phê phán ấy khiến nhà cầm quyền chột dạ. Gần
đây, mỗi lần nhắc đến các sự cố tương tự, báo chí chính thống đều nhất loạt gọi
đích danh Trung Quốc. Sự thay đổi ấy sẽ không thể có nếu không có sự đóng góp
của những người phản biện.
Mới đây, vào ngày 8 tháng 8, Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc và đoàn tuỳ tùng ghé thăm khu Phố cổ Hội An. Chuyến viếng thăm
sẽ không có điều gì đáng nói nếu đoàn xe hơi của phái đoàn do ông dẫn đầu không
chạy vào con đường đi bộ dành cho du khách. Không có tờ báo chính thống nào ở Việt
Nam đề cập đến chi tiết ấy. Nhưng nó không thoát khỏi mắt của dân chúng. Nhiều
người chụp hình đoàn xe và đưa lên facebook. Các bức hình ấy được phát tán
nhanh chóng và thu hút sự chú ý của quần chúng, làm rộ lên những sự phê phán
gay gắt đối với việc lộng quyền của thủ tướng. Cuối cùng, chưa tới mười ngày
sau, trong cuộc hội nghị về công tác cải cách hành chính, ông Nguyễn Xuân Phúc
công khai xin lỗi; sau đó, chính quyền tỉnh Quảng Nam cũng công khai xin lỗi về
việc để đoàn xe của thủ tướng đi vào khu phố cổ.
Những lời xin lỗi ấy không thể có nếu
không có những sự phê phán của quần chúng trên các phương tiện truyền thông xã
hội.
Nhìn từ góc độ ấy, những người “chỉ
biết nói”, theo lời của bà Nguyễn Thị Kim Ngân, đã có đóng góp, dù nhỏ, vào
tiến trình dân chủ hoá cũng như việc xây dựng đất nước. Chính họ, chứ không
phải ai khác, là những kẻ gieo mầm dân chủ cho Việt Nam.
Nguyễn
Hưng Quốc