Bữa ni 21 tháng Chạp, giỗ Phùng Quán.
Hồi bé nghe ba kể về Phùng Quán, ngồi há mồm nghe như nghe
chuyện ông tiên trên trời, chẳng ngờ có ngày gặp anh. Gặp rồi vẫn thấy anh giống
ông tiên, quần bà ba, áo cánh kiểu H’Mông, chòm râu trắng phơ phất, đi guốc mộc
chậm rãi khoan thai, đôi mắt sáng trưng, nhìn vào ai cũng thấy ấm áp lạ thường.
Phùng Quán trở lại Huế năm 1985, từ bữa anh giải ngũ Vệ
quốc đoàn rời Huế ra Hà Nội, chẵn ba chục năm anh mới quay trở lại. Năm đó
đời sống văn nghệ đã thông thoáng hơn nhiều, nói như anh Tường (Hoàng Phủ Ngọc
Tường) đất nước đang lăm le đổi mới, nhưng mời được anh Quán vào Huế không phải
chuyện đơn giản. Anh Tường, anh Vĩ (Tô Nhuận Vĩ), anh Điềm (Nguyễn Khoa Điềm)
chạy rạc chân, nói gãy lưỡi tỉnh ủy mới chấp thuận Hội Văn nghệ đón chính thức
Phùng Quán.
Sự kiện Phùng Quán vào Huế làm cả Huế xôn xao, riêng đám văn
trẻ đã từng đọc Vượt Côn Đảo, rồi trùm chăn đọc Lời mẹ dặn, Chống
tham ô lãng phí… ngưỡng mộ anh từ thủa cột quần chưa chặt, ai nấy ngây ngất
con cà cưỡng. Mình đeo lấy anh suốt ngày, ba tháng anh ở Huế anh đi đâu mình
lon ton theo đó, mắt tròn mắt dẹt nghe anh kể chuyện đông tây, rồi được ngủ với
anh, được vuốt râu sờ chim anh… đã quá trời, he he.
Năm 1986, anh Vĩ anh Tường cao hứng sáng kiến làm cái hội thảo
Văn xuôi Nguyễn Quang Lập tại Thị trấn Ba Đồn quê mình. Người ta đặt cái
loa to lên cái xe tải chạy vòng quanh Thị trấn, nói a lô a lô… mời bà con đến rạp
hát Ba Đồn dự hội thảo văn xuôi Nguyễn Quang Lập, đứa con của quê hương… a lô a
lô! Dân tình đến chật rạp, tràn ra cả hành lang. Mình sướng củ tỉ.
Hóa ra người ta đến chỉ vì nghe tin trong đoàn văn nghệ tỉnh
có nhà thơ Phùng Quán. Ai gặp mình cũng vồ vập bắt tay bắt chân nhưng chỉ hỏi
Phùng Quán mô?… Phùng Quán mô?… tuyệt không ai hỏi đếm xỉa đến mình, hi hi. Ba
mình và ông bố vợ thích lắm, hai bên hai ông cứ thế kè kè bên Phùng Quán suốt
ngày. Mặt mày hai cụ phỡn lắm, ra cái điều ta đây quen thân Phùng Quán, he he.
Chỉ hai ngày ở Ba Đồn, anh có hai chục cuộc đọc thơ lớn nhỏ,
ba mình và ông bố vợ có mặt không sót một cuộc nào. Phùng Quán đọc thơ thì hết
chê. Không biết bên Nga ông Mai-a đọc thơ thế nào, chứ nước Nam mình ăn giải độc
đắc về đọc thơ, không ai qua mặt được anh. Mắt rực râu dựng ngực rung tay vung
chân bước, từng chữ thơ như vọt trào từ máu. Tuồng như không phải anh đọc thơ,
anh đang hút hồn người khác…
Anh em thân thiết nhau từ lúc nào không biết, nghe anh kể cuộc
trần ai 30 năm rượu chịu cá trộm văn chui… thật hãi quá. Nghĩ bụng mình rơi vào
trường hợp của anh liệu có chịu nổi 3 năm không. Anh chỉ cho mình cái cột nhà
bà bán rượu phủ kín những vạch phấn cao gần 2 mét. Cứ mỗi chai rượu chịu là một
vạch phấn, có đến mấy trăm vạch phấn như vậy. Xong cột này lại xóa đi vạch cột
khác, mười năm ở Nghi Tàm anh ghi nợ cả chục cột, tính ra cả chục thùng phuy rượu,
kinh.
Phục anh uống nhiều rượu thì ít, phục bà chủ quán cho anh nợ
rượu thì nhiều. Nợ vài ba chai đã không muốn, nợ năm bảy chai đã khó chịu, nợ đến
mươi lăm chai thì đừng hòng, đằng này bà cho nợ cả thùng phuy. Bà chủ quán rượu
cười he he he, nói mấy ai được Phùng Quán nợ rượu. Tôi mà giàu có tôi thay mặt
đất nước đãi rượu nhà thơ Phùng Quán, khỏi phải nợ nần. Ai đời thủa làm được
bài thơ hộc máu mà một chai rượu không có uống. Phùng Quán rời Nghi Tàm cả chục
năm, hôm lên thăm lại bà vẫn thấy cái cột nợ rượu của anh đầy phấn trắng, hỏi
sao không chùi đi, bà cười he he he, nói tôi giữ làm kỉ niệm, ai đến để khoe, để
đấy mai mốt tôi bán cho bảo tàng trung ương.
Anh Quán ở đâu cũng có người thương, hết lòng giúp đỡ anh,
có lẽ nhờ vậy mà anh đã thoát qua 30 chục năm trường đau khổ, nhiều khi tưởng
có thể chết đói cả nhà. Mình hỏi, ba chục năm ông cậu quí hoá của anh (ý nói Tố
Hữu) không ngó ngàng chi anh cả à? Anh lắc đầu cười, nói đã có đồng bào ngó
ngàng mình rồi. Cái chữ “đồng bào” anh dùng đắc địa không chịu nổi.
Câu trộm cá Hồ Tây, lúc đầu bảo vệ không biết anh là ai đuổi
anh chạy chí chết. Một lần túm được anh, giải lên phường, khi đó mới ngả ngửa
ra anh là nhà thơ Phùng Quán. Những lần sau họ đều lờ đi cho cả. Có lần câu được
con cá trắm to, đang sướng chợt thấy ba ông bảo vệ lăm lăm đi tới. Tưởng họ
cũng chỉ nạt nộ chiếu lệ như mọi lần, không ngờ cả ba ông cứ xồng xộc tới chỗ
anh. Hoảng quá anh thả cá bỏ chạy, ba bảo vệ đuổi theo rất riết. Túm được anh,
các ông cười hỉ hả, nói mời được nhà thơ uống rượu vất vả quá. Tối đó anh được
một bữa no say, lại được một xâu cá mang về.
Từ đó ông trộm cá với mấy ông bảo vệ thân thiết như người
nhà, lâu lâu không thấy anh ra câu cá, bảo vệ còn vào nhà nhắc nhở, nói anh
Quán chê cá Hồ Tây rồi à. Như người khác anh tha hồ vét cá Hồ Tây, có khi làm
giàu được chứ không phải chuyện chơi. Anh thì không, cần một con câu một con,
không cần không câu, thời đói rách anh bỏ qua cái lợi lớn ấy nhẹ tựa lông hồng,
thật phục quá đi mất.
Mọi người nghe chuyện văn chui của anh tưởng đơn giản, thì cứ
bịa ra một cái tên thế là xong. Không phải, cái tên bịa vừa khó in vừa dễ bị
nghi ngờ. Anh phải nhờ những bạn văn có danh nhưng không quá nổi tiếng, nổi tiếng
quá cũng dễ bị săm soi. Văn viết phải hay vừa vừa, không được quá hay, chỉ vừa
đủ để in được thôi, hay quá người ta lôi cổ ông nhà văn anh mượn tên đi hội thảo
đi phỏng vấn thì cũng bỏ mẹ.
Tìm người đứng tên giùm là cả một vấn đề, thời buổi người ta
tránh mấy ông nhân văn như tránh hủi, tìm được người cả gan đứng tên cho đâu phải
chuyện đùa. Người này phải cầm bản thảo đưa đến nhà xuất bản, nếu biên tập có
góp ý cũng phải kiên trì ngồi nghe, cũng phải gật gù, nói đúng quá hay quá,
nghe bác góp ý mà tôi sáng ra bao nhiêu, tuyệt không được trương gân búng má
lên cãi. Đến kì sách ra người này lại phải đến lấy sách, lấy nhuận bút, rồi lại
phải đưa cả phòng biên tập đi nhậu. Rách việc thế nên cậy được người đứng tên
giùm thật mừng hơn bố chết sống lại.
Cũng có đôi ba người nhận lời giúp, đến kì sách ra thì cứ thản
nhiên đến lấy nhuận bút không đưa cho anh một xu, anh cũng phải ngậm bồ hòn làm
ngọt, nhưng hầu hết đều giúp anh rất vô tư. Nhiều người vì giúp anh đã rơi vào
tấn bi hài nửa cười nửa mếu. Năm 1969- 1970 gì đó, anh đọc báo Phụ nữ Liên Xô
thấy có loan tin thi viết về Lê Nin, anh viết cái truyện Như con cò vàng
trong cổ tích, hy vọng kiếm cái giải khuyến khích lấy cái đồng hồ báo thức
cho con Quyên đi học đúng giờ, nhiều lần nó ngủ quên trễ học bị cô trách mắng tội
quá. Anh lấy tên ông anh họ là công nhân lâm trường ở Nghệ An, thời này người
ta khuyến khích công nông binh viết văn, lấy tên đó dễ được ăn giải. Chẳng ngờ
được giải nhất.
Một anh công nhân lâm trường viết văn được Liên Xô trao giải
nhất là chuyện có một không hai. Ông anh họ được Lâm trường lôi lên hội nghị
khen ngợi hết đợt này sang đợt khác. Lại huyện gọi lên khen, tỉnh gọi lên khen,
phóng viên đài báo được dịp khua bút ầm ĩ. Ông anh họ cuống lên, lâu lâu lại gọi
điện ra, nói ôi Quán ơi Quán ơi… nhọc lắm nhọc lắm. Mi mần răng chớ anh sắp đoạ
rồi, hi hi.
Giải nhất được một cái xe đạp, hồi đó là cả một gia tài, nếu
ông anh họ khai một phát thì chẳng những cái gia tài ấy mất tiêu mà cả Phùng
Quán lẫn ông anh họ sẽ lâm vào trọng tội. Vợ chồng anh Quán lạy lục phúc bái
nói anh ơi anh ơi kiên quyết không khai nha anh. Khuân được chiếc xe đạp ra khỏi
đại sứ quán, lại phải đem về Nghệ An đi lại trước mắt mọi người chừng vài tháng
rồi mới nại cớ “bán” cho Phùng Quán. Hôm giao xe đạp, ông anh họ xá Phùng Quán
mấy xá, nói thôi thôi anh lạy mi, từ ni mi nhờ chi tau thì nhờ, đừng có nhờ nổi
tiếng, nhọc lắm. Anh Quán cười trêu anh, nói được nổi tiếng cả năm, sướng rứa
còn kêu. Ông anh họ cười hậc một tiếng, nói è he… tau biết nổi tiếng là chi rồi,
từ ni tau ẻ vô nổi tiếng.
Chuyện anh Quán có lẽ phải viết một cuốn sách mới thỏa. Mình
nhiều lần giục anh viết hồi kí đi, anh à à ừ ừ, lần lữa mãi không viết, đến khi
biết sắp chết mới viết cố được vài mươi trang, thật tiếc quá đi mất.
Nghe tin anh bị bạo bệnh, mình và thằng Nguyên (Phạm Xuân
Nguyên) đến thăm. Anh bị xơ gan, bụng đã to lắm, nhưng vẫn cười nói như không,
không hiểu sao anh toàn nhắc chuyện thời đánh Pháp. Anh nói cả đời uống rượu tạp
mới bị thế này đây, giờ sắp chết rồi có chai rượu ngon lại không uống được.
Nhìn xuống đầu giường thấy chai rượu John đen bốn lít to đùng, ông Việt kiều
nào không biết anh ốm vừa mang đến tặng. Mười bảy năm uống rượu với anh toàn uống
rượu trắng không thôi, hầu như cả đời anh không được một chén rượu tây. Nghĩ bụng
đằng nào anh cũng chết cứ để anh uống một vài chén rượu cuối đời, mình chạy ra
khất khổ xin chị Trâm, chị ứa nước mắt, nói thôi em ơi, để anh sống với chị
ngày nào hay ngày đó. Chỉ có vậy thôi mà mỗi lần nhớ anh, nghĩ đến chuyện đó lại
trào nước mắt.
Nguyễn Quang Lập