CHƯƠNG
22
Chí Hòa không phải là đề lao Gia
Định. Để có nhận xét này, nhiều tù nhân đã sưng mặt, phù mỏ. Kinh nghiệm Chí
Hòa được phổ biến ở phòng mới. Bây giờ, mọi người mới vỡ lẽ, với Cộng sản không
có đòi hỏi, không được phép đòi hỏi. Với Cộng sản, phải giành lại. Muốn giành
lại, phải chiến đấu. Khi chưa đủ sức trực diện chiến đấu, cần biết “xếp tàn y
lại để dành hơi.” Theo Cựu ước, có một thời im lặng và một thời lên tiếng. Đa
số chúng ta không quán triệt cái thời của mình. Nên đã ồn ào lên tiếng vào thời
cần thiết im lặng. Do đó, sự lên tiếng vội vàng đã lạc lõng trong hoang vu của
thế sự. Mà, buồn thay, sự lên tiếng vội vàng thường hụt hơi. Cuối cùng, nó biến
thể thành những gấu ó lẫn nhau vô tích sự, những chụp mũ bôi bẩn lẫn nhau bệ
rạc. Rồi tiếng nói nào dõng dạc cho đúng thời? Tôi sợ rằng sẽ không có tiếng
nói ấy.
A, tôi cần giới thiệu những nhân vật
của phòng tôi. Trước hết là Trần Thành, nhà tài phiệt lừng lẫy Chợ Lớn, một
trong những tài phiệt đã góp phần thao túng nền kinh tế miền Nam. Tất cả tỷ phú
đều keo cú, bần tiện. Điều này là chân lý. Trần Thành thoát khỏi cái chân lý
khốn kiếp. Ông ta hào sảng, cởi mở. Tôi nhớ, có thời gian ngắn sống chung với
các ông Hoàng Kim Quy, Lý Sen, Lâm Huê Hồ, Trương Vĩ Nhiên, Trần Thành ở đề lao
Gia Định, khu C-1, vào dịp đề lao bắt đăng ký tiền mặt, chỉ cho tù nhân giữ lại
30 đồng. Tỷ phú Trần Thành đã phát tiền tặng các tù nhân “con bà phước.” Ông ta
không thèm đăng ký. Ai không nhận tiền, ông ta buồn bã, cố nằn nì được tặng.
Trái lại, “vua kẽm gai” Hoàng Kim Quy khó ai xin nổi ông một điếu thuốc lào Cái
Sắn chính gốc, hút xong là phê lăn kềnh. Tỷ phú Hoàng Kim Quy, nghị sĩ của nước
Việt Nam Cộng Hòa, đã tặng tù nhân đề lao Gia Định, một “giai thoại” bất hủ. Ở
đề lao, tù nhân được gửi tiền mua quà. Bài ca nhại lại nhạc và lời Quê em của
Nguyễn Đức Toàn sau đây, diễn tả sinh hoạt đề lao:
Trong phòng giam khu C
Thường xuyên 40 người
Một tù hai gang chiếu
Trưa chờ cơm cháy
Sáng chờ chia nước sôi
Ngày điểm danh hai lần
Tờ mờ sáng tinh mơ
Anh em chưa thức dậy
Đã thấy hàng đầy sân
Thôi thì rau, thôi thì chuối
Tương chao, bánh mì, thuốc rê, thuốc
lào…
Đủ các mặt hàng, từ dao cạo, cà-phê,
trà, rượu, cán bộ phục vụ can phạm với giá cắt cổ. Đó là hiện tượng, không phải
bản chất. Tỷ phú Hoàng Kim Quy gửi mua một ký cà-chua. Hôm đó, hàng về trễ. Khi
chia, ông bận ngủ trưa. Lúc ông thức dậy, Trưởng phòng bảo ông nhận hàng. Nhà
tỷ phú không nhận, ông bắt chia lại để ông chứng kiến. Cả phòng đành gom
cà-chua một đống, chia lại. Tù nhân Hoàng Kim Quy đòi hỏi công bằng và hợp lý…
chia hàng ở nhà tù, nhưng chưa hề thấy ông đòi hỏi công bằng và hợp lý cho dân
chúng ở nghị trường. Mà sự công bằng ông đòi hỏi ở nhà tù cũng chỉ cho riêng
ông. Ông lại chỉ đòi hỏi với các bạn đồng tù. Bởi vì, ông ta là một khuôn mặt tiêu
biểu của cơ cấu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nên tôi thấy cần thiết nhắc lại
“giai đoạn” bất hủ này. Những “chuyện buồn nhỏ nhặt” xẩy ra ở đề lao thường do
các bậc “đại nhân” gây ra. Chẳng hạn, vị đại khoa bảng họ Vũ, ăn cắp chai
tầu-vị-yểu (chai nhựa) của bạn đồng tù nghèo nàn, cãi nhau vì cơm chia cho mình
có vẻ thiếu cân lạng, bị cai ngục mỉa mai: “Trí thức miền Nam các anh thế đấy
a!” khiến đau lòng… trí thức. Nhưng ta trở lại tỷ phú Trần Thành.
Ông ta tình nguyện chùi rửa cầu tiêu
và lau quét sàn phòng giam không cần các Tổ cắt cử trực sinh. Luôn luôn, trên
môi điếu thuốc lá Ăng-lê, nhà tỷ phú Trần Thành làm công việc “‘đầy tớ” một
cách vui vẻ. Không hề nghe ông ta thở dài, tiếc của, than thân, ông nói: “Còn
sống, còn hy vọng làm lại.” Tinh thần lạc quan của ông ta đã dạy tôi can đảm
chịu đựng. Tôi bỗng quên cay đắng, tủi nhục và nỗi chết. Tôi cũng nhớ nằm lòng
câu nói của cai ngục Quỳnh: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu
chống Cộng sản”. Sự khinh miệt của Cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các
anh” lại sôi sục đáy tim tôi. Mỗi tù nhân hiểu “học tập cải tạo” một ý.
Nhiều người khước từ những bài học
Cộng sản. Riêng tôi, tôi thành thật cám ơn “lời vàng ngọc” của gã cai ngục tầm
thường, có thể, hắn đã cường điệu, hắn đã cương, đã bứt khỏi giáo điều của các
lãnh đạo hắn. Song, quý hóa thay là ngón võ “đem cái đạo của thiên hạ trả lại
thiên hạ.” Tôi nhập tâm câu nói: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn
chiến đấu chống Cộng sản.” Chúng ta đã, đang chiến đấu chống Cộng sản, chỉ tiếc
rằng, trong chúng ta còn khá đông những kẻ tưởng tượng đau khổ mà chiến đấu.
Và, tệ hại hơn, còn khá đông những kẻ nhục mạ nỗi đau khổ chống Cộng của người
khác. Để độc quyền chống Cộng bằng đau khổ tưởng tượng. Chí Hòa là nơi tôi sẽ
học hỏi nhiều hơn.
Nhân vật thứ hai của phòng tôi là
Đào Mậu, Bang trưởng bang Quảng Đông, Saigon. Nhà tỷ phú này già nua, thâm
trầm, ít nói, không có nét “đan thanh” nào cần diễn tả. Nhân vật thứ ba là Tăng
Tài mà Đoàn Kế Tường đã phong chức Tư lệnh hải quân đường sông. Mọi vận chuyển
lúa gạo đường sông miền Nam nằm trong tay ông Ba Tầu bụng phệ không biết viết
cả chữ Tầu lẫn chữ Việt này. Tăng Tài, chắc chắn, thuộc huyết thống Tăng Sâm,
rất có công lao vận chuyển thuốc Tây vào mật khu cho Cộng sản. Thế mà vẫn bị
nhúm. Vì tư sản mại bản. Tư lệnh hải quân đường sông có bệnh thích cầm nhầm,
bệnh “mất áo trắng đòi áo thâm.” Hôm chúng tôi bị khám hành lý, Đặng Hải Sơn
xếp dọn đồ tù bị lục tung thấy lạc cái khăn tắm. Trưởng phòng yêu cầu anh em tự
giác lôi hành lý của mình ra cho Đặng Hải Sơn tìm khăn. Cái khăn của Đặng Hải
Sơn bị “lạc” vào bị của Tăng Tài. Vị tư lệnh hải quân đường sông thản nhiên
nói: “Đây là khăn của tôi, nhưng nếu anh Sơn mất, tôi xé chia đôi”.
Đặng Hải Sơn ngao ngán: “Thôi, ông
giữ mà dùng, giữ nguyên chiếc.” Dĩ nhiên, tỷ phú Tăng Tài cười rất đẹp và không
cần… cám ơn.
Nhân vật thứ tư là Trương Viso. Nhà
tư sản mại bản Việt 90% gốc Hoa 10% này có đức tính thích-hơn-người. Nước đã
chia đều cho tù nhân dùng vào việc cá nhân. Trương Viso vẫn “chôm” nước xối cầu
tiêu của phòng. Đoàn Kế Tường lãnh nhiệm vụ phân phối nước, chửi um lên. Trương
Viso vẫn trơ ra. Anh em tặng Trương Viso hỗn danh Trương thớt me. Tôi hỏi ông
ta:
- Ông không xấu hổ à?
Trương Viso tỉnh bơ:
- Xấu hổ gì? Đứa nào tức giận tôi,
nó sẽ mau chết. Còn tôi, tôi cứ sống lâu.
Cái triết lý sống của Trương Viso sẽ
hay lắm, nếu ông ta đừng xâm phạm vào quyền lợi của người khác. Người Tầu mưu
sinh đất khách đã sống với triết lý đó. Mày cứ chửi ông, cứ coi thường ông đi,
rốt cuộc ông giầu hơn mày, mạnh hơn mày.
Tôi vừa kể những khuôn mặt tư sản
mại bản Chợ Lớn. Bây giờ, điểm mặt tư sản mại bản Saigon, Việt Nam chính gốc.
Nhân vật cự phách hàng đầu vẫn là Phạm Quang Khai, tư lệnh hải quân đường biển.
Ông Khai có những 50 chiếc tầu chở dầu chiến lược. Ông trở thành tỷ phú, được
báo Newsweek của Mỹ xếp vào hạng 1 trong 10 người giầu nhất Việt Nam nhờ chiến
tranh. Ông Khai không làm buồn ai, không làm hại ai cả nhưng vì quá tiếc của,
vợ con lại… di tản từ khuya, ông đâm ra lẩm cẩm. Ông bị kẹt lại là do muốn di
tản hết chổi cùn giế rách.
Chúa tầu mà không đi lọt, âu cũng là
thiên định. Và còn là nguồn an ủi của những ai phải ở lại với Cộng sản. Ông tư
lệnh hải quân đường biển Phạm Quang Khai có thú vui vá quần xà-lỏn. Hai cái
quần của ông mỗi ngày một dầy, liệng xuống sông là chìm nghỉm. Đã thế, ông còn
chơi râu. Tù nhân trên 50 tuổi, Đảng cho phép chơi râu, tuy Đảng rất thèm râu
dành độc quyền cho Bác Hồ chơi. Ông Khai chơi râu, cai ngục khó chịu lắm. Hồi
sống chung với ông Khai ở 1C-1 đề lao Gia Định, tắm sau ông là đợi dài. Ông…
gội râu đã mất hai mươi phút, giặt quần xà-lỏn đụp hai mươi phút. Ông đeo kính
lão cả giờ ngủ. Mỗi ngày, ông nằm “đạp xích-lô” ba lần, mỗi lần ông đếm dủ 3000
vòng. Để chữa bệnh trĩ, ông nói thế. Ông cũng đọc kinh, bấm đốt tay thay vì lần
tràng hạt, mỗi ngày ba lần. Bốn giờ ông đã dậy đọc kinh, “đạp xích-lô”. Lúc ông
đọc kinh, quan sát ông, tôi suýt phì cuời. Tay trái là tràng hạt, tay phải cầm
quạt quạt phành phạch, miệng bập bập liên hồi. Tuy đọc kinh có vẻ tập trung tư
tưởng lắm, nhưng đôi mắt ốc nhồi của ông vẫn ngó ra phía cửa xem cai ngục có đi
tuần “đột xuất”. Hễ nghe bước chân cai ngục là ông Khai “phanh” miệng cái rốp.
Sau khi đọc kinh, ông cung kính vái lậy tường tù và… tù nhân. Cai ngục nực ông
vô cùng. Thằng Phách đã xỏ ông: “Anh Khai, anh đừng dỡ trò nhà có của đóng cửa
đi ăn mày nhé! Cách mạng chưa tịch thu quần đùi của anh đâu. Anh bêu riếu cách
mạng vừa vừa thôi.” Vậỵ là ông Khai liệng quần xà-lỏn đụp tại Chí Hòa. Ông đã
giải phóng quần xà-lỏn, giải phóng công nhân xà-lỏn, không nỡ bóc lột thêm. Thú
vui nặng tính chất “tỷ phú” của ông là làm cô-lếch-sông gói giấy đựng mì. Ăn mì
xong, ông giữ lại cái bao, vuốt ve phẳng phiu, xếp ngay ngắn, cất vào bị. Anh
em xin, làm đóm hút thuốc lào, ông không cho. Bị khám hành lý, cô-lếch-sông bao
mì của ông bị cai ngục tịch thu, ông nằn nì xin lại vài cái. Cứ vậy, dài dài.
Ông lẩm cẩm hay máu tỷ phú nó thế. Đồ thăm nuôi của ông, ông không tiêu thụ
hết, nhất định để mốc vất thùng rác chứ chẳng dại cho các “con bà phước”. Đấy,
nhà tỷ phú Phạm Quang Khai, ngang cơ tỷ phú Hoàng Kim Quy. Vua tầu dầu và vua
kẽm gai giống hệt nhau.
Ông vua thứ ba, vua hóa chất Nguyễn
Công Kha hỗn danh Kha muối 1, không đến nỗi keo cú và ích kỷ như hai vua tầu
dầu, vua kẽm gai, nhưng có tính lo xa. Nghĩ rằng chỉ sợ hết thức ăn sớm, không
chịu nổi canh bí rợ nấu muối. Ngày thăm nuôi, gia đình gửi vào ba miếng thịt bò
bíp-tếch, một con gà rô-ti… Thay vì đã có sườn kho theo kiểu ‘’chả chìa”, thịt
chà bông, thịt kho ăn dài hạn, bíp-tếch, gà rô-ti thưởng thức ngay cho sướng miệng.
Không, người lo xa Nguyễn Công Kha ăn một miếng bíp-tếch bò thôi. Hai miếng kia
rắc đầy muối, bỏ vô hũ, để dành tuần sau! Còn chú gà rô-ti, hôm sau đã có chất
nhờn trên da, vua hóa chất nhờ bạn tù nghèo lột da, xé thịt rồí… ướp muối.
Xương và da nhờn tặng “con bà phước”. Mất cả tỷ bạc mà vẫn ướp muối bò bíp-tếch
thì… lạc quan thật. Ông Kha có hai niềm vui. Một: Khom lưng cúng Phật. Ông là
người thân cận của hòa thượng Thích Tâm Châu. Một hôm, đang say mê cúng Phật,
ông quên cai ngục Phách đứng ngoài hành lang theo rõi ông.
- Anh kia!
Vua hóa chất giật mình:
- Làm gì thế?
- Tôi tập thể dục, cán bộ ạ!
- Thành khẩn đi, anh lễ lạy ai?
- Dạ, tôi lễ Phật.
- Anh mất tự do rồi, cấm chỉ anh lễ
Phật.
- Nhà nước chủ trương tự do tín
ngưỡng.
- Trong tù không có tự do, hiểu
chưa?
- Hiểu.
Ông Kha mất niềm vui cúng Phật. Hai:
hàn những lọ nhựa, keo nhựa, xô nhựa bị thủng. Ông hàn giúp bất cứ ai nhờ ông.
Để thay thế niềm vui cúng Phật, lợi dụng xuống tắm, ông lượm sợi giây điện lớn,
cục đá nhỏ đem lên phòng chế kim khâu, ông Kha tỉ mỉ đục cái lỗ xuyên chỉ thì
tuyệt. Vua hoá chất cung cấp kim may túi, may quần xà-lỏn, vá áo cho Đặng Hải
Sơn, Mai Đức Khôi…
Nhân vật tư sản mại bản tôi sắp kể
chưa lên hàng vua là Bùi Kim Bảng 2, con trai của giáo sư Bùi Hữu Sủng. Ông ta,
chủ một viện Bào Chế Âu Dược, tròn như hột mít. Chỉ có một điều đáng nói về ông
Bùi Kim Bảng. Các phòng giam tại Chí Hòa, cầu tiêu xây ở góc phòng, sát sàn
nước. Phải leo lên cái tam cấp mới đại, tiểu tiện được. Do đó, tù nhân gọi công
việc đại tiện là lên sân khấu. Ông Bùi Kim Bảng có thói quen lên sân khấu vào
đúng bữa cơm trưa. Ác nghiệt thay, ông “diễn trò” giữa lúc anh em ăn dở dang.
Trò của ông “thối” vô cùng, ông lại “chơi ra-phan”, chấp tất mọi la lối, chửi
thề. Đó là mẫu trí thức chỉ biết mình và thói quen của mình. Khác hẳn người tự
trọng Khai Trí Nguyễn Văn Trương, chờ khuya mới “lên sân khấu” vì mắc bệnh trĩ,
không muốn phiền ai đợi mình lâu.
Ngoài mấy nhân vật tư sản mại bản,
trừ Trần Thành, mà sống chung với họ mòn đời, chắc chắn, tôi không học được ở
họ một điều gì hữu ích. Họ chỉ than van, oán trách rồi mơ ước Cộng sản thua. Để
họ được trả lại những gì Cộng sản đã tước đoạt của họ. Nhân sinh quan của họ
không thay đổi, dẫu họ đã bị xoáy tròn trong cơn lốc tháng 4 năm 1975 và đã tận
mắt chứng kiến sự khốn cùng của dân tộc họ mà chính họ chịu trách nhiệm lớn. Có
những kẻ sinh ra chỉ biết làm giầu và chẳng thèm biết đến ai. Những kẻ ấy, ở
bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn chẳng thèm biết đến ai. Bất hạnh cho dân tộc ta là có
khá nhiều hạng người ấy.
Tôi kể sang những nhân vật chính trị
của một chính phủ… buồn cười: Chính phủ liên bang Đông Dương. Câu chuyện như
thế này:
Cụ Đỗ Văn Lựu, cựu đại tá Ngự Lâm
Quân, thời đeo lon trung úy đã đồn trú tại tô giới Thượng Hải, bố vợ của tướng
Phạm Văn Phú. Cụ Lựu vốn là bạn thân của ông Bùi Ngọc Phương. Ông Phương, hẳn
mọi người còn nhớ rằng, đã bị chính phủ Ngô Đình Diệm bỏ tù về tội Công ty dầu
lửa chi đó. Cụ Lựu có một đệ tử tên là Nguyễn Văn Cương mà Đằng Giao tặng biệt
đanh Cốc Chính Cương. Cốc Chính Cương, kỹ sư canh nông còn trẻ, được chế độ mới
lưu dụng và xử dụng vào công tác đắp đập Ông Nhiêu làm thủy lợi. Đập Ông Nhiêu
thất bại. Cốc Chính Cương bị phê bình phá hoại. Vừa lo sợ, vừa phẫn nộ, Cốc
Chính Cương gặp cụ Lựu, phịa chuyện có 7000 tinh binh, sẵn sàng điều động. Cụ
Lựu dậy hồn trẻ, muốn báo đáp non nước tấm thân già tin Cốc Chính Cương và nhập
cuộc. Cụ rủ Bùi Ngọc Phương, con rể của tác giả Mồ Cô Phượng. Ông Phương mê cầu
cơ và nhiều thủ đoạn, lại có máu lãnh tụ. Để chính thức được nhận là Tổng thống
chính phủ Liên bang Đông Dương, ông Phương mời cụ Lựu và vài vị tổng trưởng về
thánh thất Cao Đài. Ông thuê đồng tử, trinh nữ nhập cơ nói những điều ông đã
dặn. Cơ lên, chỉ đúng ông Bùi Ngọc Phương mà phán “Chân mạng đế vương”. Cụ Lựu
tin, nhiều tổng trưởng tin. Ngô Khởi dạy: Khi xuất quân, không tin cái thế tất
thắng ở mình thì chỉ còn cách bói mu rùa. Thời gian sau 1975, con người bối
rối, nôn nóng cứu nước đến mê muội, tin cơ là chuyện thường. Và Bùi Ngọc Phương
hiểu tâm lý con người quá xá. Nhưng, những Lê Khải Trạch, Nguyễn Cao Thanh, Vũ
Đăng Dung không tin cơ đâu. Họ tin 7000 tinh binh của Cốc Chính Cương mà họ
tưởng là của tướng tuẫn tiết Phạm Văn Phú, vì cụ Đỗ Văn Lựu nói. Rốt cuộc tổng
thống Bùi Ngọc Phương, phó thủ tướng Đỗ văn Lựu, các tổng trưởng vào tù. Cốc
Chính Cương vào tù luôn. Phòng tôi có cụ Lựu, ông Phương, chàng Cương. Họ nhìn
nhau cười trừ. Những chiến sĩ chống Cộng bằng… cầu cơ còn tiếu lâm hơn cả ông
Đinh Xuân Cầu chống Cộng với Mỹ của Trương Phiên. Tôi bỗng thấy mình ngu dại.
Có ai nguyền rủa kẻ sắp chết đuối bạ cái gì cũng níu không nhỉ?
Nhân nói về chính phủ Liên Bang Đông
Dương… cầu cơ, tôi kể một câu chuyện xẩy ra tại Đề Lao Gia Định. Một tù nhân
tâm sự với tôi rất thành khẩn:
- Ông tin tôi đi, Mỹ đã đổ quân lên
Trường Sa, chờ ngày giải phóng Saigon. Nó viện trợ 2 tỷ đô la. Mấy trăm ngàn xe
hơi Mazda đã có sẵn ở Trường Sa rồi.
- Dựa vào đâu mà ông bảo tôi tin?
- Cứ tin đi!
- Ai nóí?
- Thì cơ nói chứ ai nói!
Hơn một nghìn ông thầy bói đã bị đi
học tập cải tạo mấy tháng chỉ vì dám đoán cái thế tất thua của Cộng sản và sự
thành công vượt biên. Tôi mà chỉ sống chung với tỷ phú và tổng thống, tổng
trưởng, ngày tháng tù sẽ dài vô tận. May mắn chừng nào, cái vũ trụ Chí Hòa của
tôi còn có sát nhân, tướng cướp, án tích du đãng cũ, bộ đội đào ngũ, cán bộ mất
phẩm chất cách mạng. Và Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Đặng
Hải Sơn, Khai Trí, Nguyễn Mạnh Côn, Phan Thành Trường, Mai Đức Khôi, Cốc Chính
Cương… Phan Thành Trường, kỹ sư cầu cống, tốt nghiệp tại Pháp, con trai bà hiệu
trưởng Trưng Vương. Anh về nước phục vụ, dạy học ở Trường Kỹ thuật Phú Thọ.
Không chấp nhận chế độ Cộng sản, anh gia nhập tổ chức chống Cộng của những
người lính nhẩy dù.
o O o
Vài nét về vài nhân vật của phòng
mới của tôi do Phạm Quang Khai “lãnh đạo”. Những nhân vật đề lao mà tôi đã sống
với họ như Phan Bá Thúc, Hà Năng Đắc… thì miễn kể. Niên trưởng phòng tôi là cụ
Ngao Song, người Nùng, 80 tuổi, cựu đại úy Biệt khu Hải Yến. Nhi đồng phòng tôi
là Nguyễn Ngọc Phước, 8 tuổi, móc túi ở bến xe đò. Đã có một tờ báo dành cho
độc giả từ 7 đến 77 tuổi, phải có một nhà tù dành cho tù nhân từ 8 đến 80 tuổi.
Trẻ không tha, già không thương là nhà tù Cộng sản.
Lần đầu tiên, kể từ ngày bị bắt, tôi
mới có dịp sống chung phòng với anh Nguyễn Mạnh Côn. Cơn nghiện đã tha anh,
không hành hạ anh nữa. Thuốc phiện hút chất nước trong cơ thể con người. Thiếu
thuốc phiện, anh Côn “mập” ra, thứ mập thê thảm. Trông anh như bị phù. Mắt anh
lờ đờ và tất cả tinh anh của anh biến mất.
Tính ra, tôi đã sang Chí Hòa hơn một
tuần. Đoàn Kế Tường vẫn nằm cachot rùng rợn của khu FG. Đằng Giao đã chia cơm
nước cho cachot FG kể rằng, các “lãnh tụ” Vinh Sơn nằm ở cachot, chưa bị xử tử.
Cha Nghị, “tướng” Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đủ mặt. Cha Nghị đã mù vì tuổi già
mà cachot tối om, tanh tưởi, nhầy nhụa. Tôi chờ Đoàn Kế Tường về tả tỉ mỉ bên
trong cachot FG.
Không có Giáng Sinh tại Chí Hòa. Sau
khi đã ổn định các phòng mới, tù nhân được mua giấy, phong bì, tem, bút viết
thư báo tin cho gia đình biết trại mới và thể thức thăm nuôi. Bút viết xong
phải nộp cai ngục. Gọi là thăm nuôi chứ chỉ nhận quà thôi. Lệ Chí Hòa lạ lắm.
Có án mới được gặp vợ con, thân nhân. Chúng tôi là tù nhân không án tích, không
xét xử. Khác với đề lao Gia Định, mỗi tháng, Chí Hòa cho nhận quà một lần. Gia
đình không nhận thư là kể như đợi tháng sau. Thư tù thay thế giấy thông hành
qua cửa khám. Vụ mua hàng dẹp bỏ. Chúng tôi phải chờ gần Tết mới nhận quà mừng
xuân. Sinh hoạt của Chí Hòa, chúng tôi đã quen. Kẻng báo thức: Dậy, đánh răng,
rửa mặt, chuẩn bị điểm danh. Điểm danh xong, xuống hồ xách nước. Màn xách nước
sôi nổi nhất. Anh em tình nguyện lao động, cãi vã, giành giật phục vụ tập thể.
Xách nước có lợi lớn. Thứ nhất, được múc một thùng xối từ đầu xuống chân làm
một “quả” tắm chớp nhoáng. Thứ hai đem theo cái bình bốn lít lấy đầy nước xối
cầu ưu tiên. Nếu bồ ruột đi xách nước, ta xung phong trần truồng, cầm bàn chải
chà cầu, bồ của ta sẽ tặng ta trận tắm ngoạn mục trên “sân khấu”. Chúng tôi, 60
tù nhân, một ngày được cung cấp 20 thùng nước. Phòng có một cái phuy nên xô
nhựa lớn nhỏ của tù nhân bị trưng dụng chứa nước. Phòng nhờ một tù nhân bảo
quản nước. Năm ca nước cho mỗi người một ngày dùng vào các dịch vụ đánh răng,
rửa mặt, rửa chén, rửa đít. Đi cầu chỉ xử dụng hai ca nước công dội cầu. Đi
tiểu, một ca thôi. Ai xử dụng nước phải hỏi quản lý và bị giám sát. Bồ bịch thì
du di. Quản lý nước thường lời cả xô. Chàng tắm thoải mái buổi tối nhưng chàng
phải bỏ ngủ trưa để canh gác nước. Nước qúy nên có màn bán nước. Bốn ca một cục
đường. Một ca một điếu thuốc lào thật phê. Những kẻ bán nước là “con bà phước”,
không cần đánh răng vì không bàn chải và kem đánh răng, không cần rửa mặt và
không cần rửa chén.
Người ta đã cho chúng tôi tắm đúng
hạn kỳ. Tuần lễ hai lần tắm, mỗi lần 8 phút. Tắm không dám sát xà phòng. Đã tắm
là khỏi giặt quần áo. Mà giặt quần áo là khỏi tắm. Bởi vậy, nhiều tù nhân chậm
chạp chơi trò mặc quần áo vừa tắm vừa giặt. Tỷ phú Phạm Quang Khai hết thú gội
râu. Đang tắm, chưa xối sạch xà phòng, nghe tu hít thổi, phải ra xếp hàng, điểm
danh rồi lên phòng. Bệnh ghẻ ở Chí Hòa tái phát, leo thang vun vút.
Sau mục xách nước tới mục lau sàn
phòng, chia nước sôi… âm ấm. Rồi pha bột, ngâm mì. Rồi cờ tướng, đô-mi-nô. Rồi
thuốc lào vặt, tán láo. Rồi chờ cơm trưa. Kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng.
Không ngủ thì ngồi dựa tường, ngồi bó gối, nằm nhớ nhà, nhớ đời…
Trưa ở Chí Hòa hiu hắt vô cùng. Tôi
chưa biết âm ty, hẳn nhiên, vì tôi chưa chết. Dẫu tôi chết, tôi khó phục sinh
để diễn tả những gì tôi thấy dưới âm ty. Nhưng mà, trong nỗi hoang vu của trưa
Chí Hòa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, tôi đã nghe rõ những âm thanh
quái đản từ phòng dưới. Làm sao tôi viết chính xác những âm thanh một đời chỉ
có một lần được nghe nhờ ngụp lặn giữa dòng bất hạnh? Cảm giác của tôi, lúc ấy,
là rờn rợn, nổi da gà. Tôi đã hình tượng hàng tỷ con ròi lúc nhúc trên lớp phân
đang ồn ào đòi hỏi một thứ quyền sống. Tôi cũng còn hình tượng một đại hội âm
ty báo cáo thành quả tội ác của qủy sứ. Và liên hoan… Bây giờ, ngồi viết hồi ký
Nhà tù, tôi thèm được, một lần nữa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong
nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe lại những âm thanh quái đản mà tôi nghĩ đã
trở thành điệu ru tuyệt đời của tôi. Chí Hòa, tôi đã mô tả thật kỹ ở tiểu
thuyết Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang. Tôi mô tả theo sự tường thuật của
các tù nhân Chí Hòa. Đúng đấy nhưng chưa thực. Hôm nay mới thực, bất cứ một chi
tiết nào của Chí Hòa, của Chí Hòa sau cái người ta gọi là cách mạng, giải
phóng. Để có cái thực, tôi phải nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi
hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe những âm thanh quái đản. Thỉnh thoảng, ở cái sa
mạc loài người đó, giọng nói nhọn hoắt của một nữ tù phóng ra: “Báo cáo cán bộ,
cachot A-4 có người bệnh nặng’’. Giọng nói nhọn hoắt chìm vào im lặng cố tình.
Ngay con chim sẻ đậu trên sợi kẽm gai của cửa gió phòng giam cũng buồn bã nín
thinh. Nhân loại bên ngoài càng nín thinh. Và đồng loại nín thinh kỹ hơn. Đôi
khi, đồng loại bên ngoài ầm ỹ chát chúa để khỏa lấp những vô tình chủ mưu. Khi
đó, bên trong, giọng nói đã hụt hơi, rời rã: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người
sắp chết”! Nhiều nhà văn triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất hay dạy triết lý
giáo khoa thư lớp đệ nhất của chúng ta, hằng đề cập tới tiếng thét của cô đơn.
Ở đâu chúng ta nghe rõ tiếng thét của cô đơn? Ở chấp vá, vay mượn tư tưởng của
các triết gia thế giới rồi nhập nhằng nhận là sáng tạo của mình? Hoặc ở sự
tưởng tượng sau cuộc vui chóng tàn? Hoặc ở cung cách làm dáng tư tưởng trong
văn chương? Riêng tôi, tôi thấy tiếng thét của cô đơn ở những buổi trưa, những
ban đêm tù ngục; tiếng thét của cô đơn ở ngay quê hương tôi, ở nơi tôi sinh ra,
khôn lớn, đau khổ, chịu đựng và hy vọng. Nếu sự chịu đựng đau khổ để tạo dựng
ngày mai hạnh phúc thì, tôi khẳng định rằng, ngày mai hạnh phúc của dân tộc tôi
phải do người quê hương tôi tạo dựng ngay trên quê hương tôi. Hạnh phúc của dân
tộc tôi không bao giờ ở Mỹ châu, Âu châu hay Úc châu, không bao giờ là những
đồng đô-la lạc quyên mập mờ, không bao giờ là những chiến khu thuê rừng đất
khách, không bao giờ là vo ve của bọn nhặng đấu thầu nỗi khổ, rao bán nghẹn
ngào của dân tộc. Trước hết và sau hết, bọn giả vờ yêu nước chưa đủ kiến thức
nghe và hiểu nỗi cô đơn của dân tộc họ. Cả Cộng sản lẫn quốc gia. Bổn phận của
nhà văn là lay động cái bóng tối u mê phủ kín những tham vọng đê tiện làm què
quặt dân tộc, làm u ám quê hương. Người ta đã khước từ cái sứ mạng cầm bút đó.
Rốt cuộc, mặt trận mà Cộng sản sợ hãi nhất là Mặt trận Văn hoá thì hoàn toàn im
lặng, thụ động. Thụ động buồn tênh trong cái thế tư tưởng quốc gia đối kháng tư
tưởng mác xít, chủ nghĩa nhân bản đối kháng chủ nghĩa phi nhân. Đôi khi, tôi
rất tội nghiệp tôi. Trải dài đời mình chịu đựng mọi oan khiên, nhục nhã để cống
hiến đời sống, ít ra, những trang sách về tù ngục Cộng sản chính xác nhất,
chẳng những vô tích sự mà còn bị căng thây lãnh hàng trăm mũi tên bẩn. Tôi dứt
khoát tuyên bố, sau khi ký tên hoàn tất hồi ký Nhà tù và Trại tập trung, tác
phẩm của tôi sẽ không còn hai tiếng Cộng sản nữa. Tôi không chống Cộng nữa. Tôi
noi gương các tiên chỉ, lý tưởng văn nghệ hải ngoại, cúi gầm mặt trước bạo lực,
thản nhiên trước những rên siết, quằn quại của tổ quốc, dân tộc, nói chuyện
tình yêu, viết chuyện ăn uống. Để được tiếng đứng đắn, không công kích ai. Để
được lòng cả quốc gia lẫn Cộng sản. Để được cả Cộng sản và quốc gia khen ngợi.
Và được cả những đứa bần tiện nhất trên đời ngưỡng mộ. Tôi đã chọn lựa một thái
độ. Tôi không ngu đi chống Cộng một mình, nhịn đói chống Cộng. Để bị quốc gia
bêu nhục. Để bị Cộng sản nguyền rủa. Có lẽ, tôi nên trở về Chí Hòa của tôi.
Kẻng trưa báo thức: Dậy, chờ nước
sôi. Phải nói nước đun sôi. Tôi chưa thấy nước sôi ở Chí Hòa bốc khói khi gánh
lên phòng. Sinh hoạt phòng giam ồn ào. Lại cờ tướng, đô-mi-nô ăn đấm lưng, hút
thuốc lào vặt, tán gẫu và ngồi thẫn thờ nhớ vợ, thương con. Láng giềng của tôi,
phòng bên trái là tù hình sự, có Nguyễn Đăng Viên, anh ruột của nhà văn Mai
Thảo; phòng bên phải là tù phản động gồm toàn con cháu các sĩ quan quân lực
Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ đi tắm ngang qua phòng nhau, chúng tôi nhận ra nhau dễ
dàng. Người ta bảo các ông Ngô Khắc Tinh, Hồ Văn Âm bị giam ở Chí Hòa. Tôi chưa
gặp mặt họ. Tôi ước ao chuyển phòng khắp 4 khu Chí Hòa. BC là khu tôi thích
đến, vì trong truyện ngắn Ánh lửa đêm tù tôi đã tả một phòng giam BC do Nguyễn
Thụy Long kể. Có một sự kiện buồn cười giữa Nguyễn Thụy Long và tôi. Tác giả
Loan mắt nhung mới là du đãng thứ thiệt, tay giang hồ hạng nặng, từng nằm quân
lao Gò Vấp, khám Chí Hòa. Nguyễn Thụy Long khoái tôi, ưa tâm sự với tôi về cuộc
đời ngang dọc của anh. Long thật hiền. Anh em tặng biệt danh Trâu Nước Quách
Tỉnh. Mê quãng ngày hành hiệp của Long, tôi viết Điệu ru nước mắt. Thấy tiểu
thuyết du đãng thành công, Nguyễn Thụy Long bèn sáng tác Loan mắt nhung. Rồi
hàng loạt tiểu thuyết bụi đời. Được nhờ giới thiệu Loan mắt nhung sau bìa sách,
tôi đã cho Trần Đại lu mờ trong vùng trời giang hồ. Đến khi Nguyễn Đình Thiều
viết loại truyện này, tôi để một Nguyễn Thụy Long tung hoành, khai thác đề tài
mới. Tôi thích đến khu BC, bởi vậy. Nhân vật Quân của Ánh lửa đêm tù là hình
ảnh Nguyễn Thụy Long.
Kỷ luật ở Chí Hòa “sắt thép” hơn đề
lao Gia Định. Qua đây, kể như hồ sơ của chúng tôi đã khép lại, hết còn bị hành
hạ tự khai. Thay vào sự hành hạ tinh thần, Chí Hòa khủng bố tinh thần, đày đọa
thể xác và thường xuyên đe dọa tù nhân bằng những quyết định tự chế của từng
cai ngục. Tư Long, tôi nhắc lại, là tên Cộng sản nằm vùng, bán vé và xếp chuyến
xe đò Minh Trung lộ trình Saigon – Đà Lạt. Sau 30-4-75, hắn đeo quân hàm đại úy
công an, nắm chức vụ Trưởng trại đề lao Gia Định. Bây giờ, Tư Long bị hạ tầng
công tác, xuống chức Trưởng khu FG. Chắc chắn, vì lờ đờ bị hạ tầng công tác nên
Tư Long đã hung hăng ở Chí Hòa. Cai ngục và đám trật tự thuộc hạ cai ngục đều
hắc ám và thường xuyên rình mò phòng tôi. Có điều lạ là qua Chí Hòa, chúng tôi
ăn cơm hai bữa với canh bắp cải hầm xương heo. Ăn no nê. Đằng Giao giải thích:
Bếp do sĩ quan cảnh sát khu ED phụ trách và Bộ Nội Vụ cung cấp thực phẩm. Nhưng
tuần trăng mật cơm canh chẳng kéo dài, Sở Công An tiếp thu bếp, tù nhân phải ăn
cơm với bí rợ nấu muối. Và đội cấp dưỡng gồm lũ công an can tội hiếp dâm, ăn
cướp… Ở Chí Hòa, người ta không phát chén, ca, muỗng, chiếu. Các “con bà phước”
phải xin những cái bình nhựa đựng nước tương, nước mắm của tù nhân thừa bình,
cắt bỏ phần trên, lấy phần dưới đựng canh. Cơm thì chia vào túi ny-lông. Bốc
cơm, húp canh. Chúng tôi cắt bị cói may chiếu. Đặng Hải Sơn và Mai Đức Khôi đã
trở thành tay thợ may tài tình. Mép chiếu viền vải đàng hoàng. Nhét tiền vào
viền vải, chắc ăn nhất, cai ngục đâu ngờ mà lục xét.
Vài hàng về Mai Đức Khôi, hỗn danh
Độc thủ phản động. Khôi, sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chiến đấu
cụt một cánh tay, chủ trương một hãng thông tấn tư. Can tội phản động. Dáng dấp
thư sinh, bướng vô tả, ăn thua đủ với cai ngục nhưng nhường nhịn bạn bè, nhất
là những người ít tuổi. Chỉ một tay thôi, Độc thủ phản động có thể cắt quần
xà-lỏn, sửa sơ-mi bằng dao nắp lon sữa bò mài sắc và kim giây đồng do Nguyễn
Công Kha chế tạo. Tất cả ba-lô may bằng túi đựng phân bón và chiếu may bằng bị
cói phá ra của phòng đều đo Khôi cụt và Đặng Hải Sơn đảm trách. Thoạt đầu, “con
bà phước” nằm sàn xi-măng. Qua vài kỳ thăm nuôi, ai cũng có chiếu made by Khôi
cụt.
Đoàn Kế Tường đã ra cachot. Tường
nói:
- Gần Tết rồi, nhớ anh em quá, đành
làm kiểm điểm nhận lỗi và hứa không tái phạm. Với lại cachot Chí Hoà châm quá,
không chịu đựng thêm nổi. Em đã cố gồng thử sức, rốt cục xìu.
Có Đoàn Kế Tường, không khí phòng
sinh động hẳn. Tường, dân Quảng Trị, giọng nói nặng nề khó nghe mà ham nói
nhiều, nói lớn. Tính nóng nẩy, ưa dính vào chuyện bất bình của kẻ khác, không
nể nang chi già trẻ, nếu già trẻ sai trái. Bản chất tốt nhưng đầy mặc cảm xuất
thân bần hàn. Nằm cachot FG ngót bốn tuần, có lẽ, Đoàn Kế Tường đã truy nã kỹ
lưỡng thân phận mình nên dáng điệu buồn bã, mệt mỏi. Tự nhiên, trong những tâm
sự riêng tư, Tường bầy tỏ sự thù hận Uyên Thao và khai hết mọi lầm lẫn thuở
cộng tác với nhật báo Sóng Thần. Tường hối hận đã gián tiếp dính vào vụ ám sát
Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm Đông Phương. Có cuộc trần tình giữa Đoàn Kế Tường với
Đằng Giao về chuyện hất Chu Tử khỏi Sóng Thần. Hoàng Mạnh Hùng và tôi ngồi nghe.
Nội bộ Sóng Thần được mổ xẻ ở nhà tù Chí Hòa. Tôi đâm ra ớn. May mà tôi đã giã
từ làng báo từ năm 1970. Và tôi không ngạc nhiên khi hay tin ký giả Đạm Phong
bị bắn chết ở Hoa Kỳ.
- Nó cho cậu viết thư chưa?
- Rồi, ngay sau ký tên dưới bản kiểm
điểm. Nó hứa đưa thư đến tận nhà.
- Nhà ai?
- Chị em.
- Còn vợ con?
- Thôi, các anh ạ, quên chuyên ấy
đi.
Tôi thấy Đoàn Kế Tường rơm rớm nước
mắt. Tường kể trận đòn hội chợ, kể những ngày cachot thê lương, kể những lần
đối thoại trong bóng tối với cha Nghị, với Ali Hùng và với một nữ tù nhân. Cuộc
đời Đoàn Kế Tường là một cuốn tiểu thuyết đầy tình tiết lâm ly. Thông minh, có
chí song gặp đàn anh tồi. Rồi cứ nằm gọn trong móng vuốt của đàn anh phù thủy
và làm âm binh mê muội đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Từ nhập thế, Đoàn Kế
Tường chỉ có một lần làm đúng và làm theo ý mình. Là chống Cộng sản tự nguyện.
Sau 30-4-1975, Tường thất chí, bỏ bê vợ con, sống lang thang ở các vỉa hè với
chiếc xích lô đứng tên mình. Đạp xích lô để đủ tiền hút Lucky! Chán nghề đạp
xích lô, Tường bán xe, tậu chiếc ba gác. Chán đạp xe ba gác,Tường tìm Dương Đức
Dũng kiếm đường vào mật khu. Không có mật khu, hai chàng thành lập một tổ chức
phản động, kết nạp toàn sinh viên, học sinh. Họ mời cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Tài
chính do nhà quảng cáo Thái Sơn và Phó giám đốc khách sạn Palace bảo trợ. Hai
chàng tuổi trẻ đều là ký giả nên hăng say xuất bản báo lậu. Bất hạnh cho cả hai
và tổ chức là tên công an Đỗ Hữu Cảnh (luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng,
nằm vùng) lọt vào tổ chức. Tất cả dính lưới Mai Chí Thọ. Muốn diệt trọn ổ, Mai
Chí Thọ dùng Đoàn Kế Tường làm cò mồi. Những ngày đầu vừa bị bắt, công an ngụy
trang thường dân dẫn Tường tới Caféterie Palace, bảo Tường ngồi riêng một bàn.
Bất cứ ai quen biết Tường, sà lại chào hỏi Tường là bị nhúm. Phó giám đốc khách
sạn Palace bị nhúm tại đây.
- Em ngồi đọc kinh thầm cầu nguyện
đừng có ai quen biết vô đây. Em đã gặp anh Hoàng Anh Tuấn dắt xe đạp xì bánh
ngang qua, em chỉ sợ anh ấy ngó thấy em.
Đoàn Kế Tường bị bắt cuối năm 1975.
- Anh ạ, cái màn này đã làm em
choáng váng. Khối người kết tội em chỉ điểm bắt “đồng chí”.
Chuyện này, cả Tường lẫn Dũng và
Thái Sơn đã kể cho tôi nghe ở đề lao Gia Định. Tôi càng yêu mến người bạn tuổi
nhỏ của tôi. Trong Bầy sư tử lãng mạn, tôi có viết về Tường và Dũng để tỏ lòng ngưỡng
mộ. Chúng tôi lại gặp nhau ở Chí Hòa. Dũng ăn đòn toét môi, nằm cachot FG một
đêm. Tường ăn đòn oằn thân thể, nằm cachot FG ngót nghét một tháng. Sẽ chẳng có
một dòng chữ nào viết về Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và sư tử lãng mạn chống
Cộng sản cô đơn và tuyệt vời ngay trên đất quê hương. Người ta đã truy điệu, đã
suy tôn những liệt sĩ tưởng tượng hy sinh trong những cuộc chiến đấu chiêm bao.
Nhưng mà đó không phải là chuyện của tôi. Chuyện của tôi chỉ là những anh em
đang thoi thóp ở các miền tù ngục quê mẹ ngàn đời đòi đoạn.
--------------------------------
1 Hiện đã có mặt tại Huê Kỳ.
2 Hiện đã có mặt tại Pháp.
CHƯƠNG
23
Trước Tết năm 1978 ba ngày, chúng
tôi nhận được quà thăm nuôi của gia đình. Trừ các tù nhân “con bà phước”, thư
từ của chúng tôi đã về tận nhà. Mỗi khu một ngày thăm nuôi. Không khí Chí Hòa
rộn ràng những ngày cuối năm. Sự nhận quà ở Chí Hòa khác hẳn đề lao Gia Định.
Có vẻ… dân chủ một tí. Tù nhân được gọi xuống phòng thăm nuôi nhận những túi bị
đề tên mình. Trật tự viên khám đồ, không cần sự giám sát của cai ngục. Giả vờ
vất hai gói thuốc lá xa túi quà của mình thì sự kiểm soát dính theo trạng từ
qualoarement. Quên giả vờ hay tiếc của thì sự kiểm soát tỉ mỉ và bị hạch hỏi
lung tung. Cái màn đổ thịt kho ra thau, dùng đũa khoắng tứ tung không có ở Chí
Hòa. Được cái dễ này, mất cái dễ kia. Ở đề lao Gia Định, quà cáp vào, tù nhân
loay hoay rỡ ra bỏ vào bị vào keo. Bánh kẹo, đường thẻ, mì vụn, sữa bột ưu tiên
cất trước. Rồi mới đến nước mắm, mỡ phi hành, xì dầu, thịt kho, tôm kho… Những
món cần tiêu thụ ngay như bánh cuốn, bún chả, phở xào để riêng ra. Thời gian
dành cho dịch vụ “thăm nuôi” mất cả tiếng. Sau đó, mồ hôi toát đầm đìa, mỡ màng
nhớp nhúa đầy tay. Làm một phát tắm gội thoải mái rồi enjoy là nhất. Ở Chí Hòa,
chỉ có một ca nước rửa tay. Thưởng thức quà cáp của vợ con cũng kém phần hứng
thú. Chẳng ai đặt ra, nhưng đã thành lệ: Tù có thăm nuôi mời “con bà phước”
chung vui một bữa đầu tháng. Ở Chí Hòa đông anh em quen biết còn vui hơn. Ta
chơi góp quà ăn liền enjoy tập thể. Đủ các thứ, đủ các món. Tết Chí Hòa, chúng
tôi có dưa hấu, bánh chưng, giò chả… Tư Long cho phép “liên hoan” ba ngày Tết,
tính từ đêm 30. Trong ba ngày này, miễn điểm đanh, miễn báo cáo và miễn… tắm.
Lợi dụng “liên hoan”, chúng tôi xào mì, xào hủ tíu, nấu chè bột xả láng.
Đêm 30 Chí Hòa năm 1978 là đêm rộn
rã nhất trong đời tù của tôi. Phòng bên phải loan tin:
- Đàn anh đón nghe nhé, chúng em ca
nhạc trắng đêm.
- Đêm không ngủ hả?
- Dạ. Đêm chờ quân ta về.
- Có sân khấu không?
- Nhạc cụ, trống phách đàng hoàng.
Đoàn Kế Tường khoái lắm. Bản tính
của Tường sống động. Tường đại diện phòng tôi liên hệ với phòng phản động trẻ.
- Đàn anh có thăm nuôi không?
- Có.
- Tưởng không có, đàn em thẩy sang.
- Thiếu cà-phê thôi.
- Cái đó chịu à. Này đàn anh, ô dưới
các em gái hậu phương hứa hẹn hát chào mừng các anh trai tiền tuyến đấy.
Những phòng ô của FG dành riêng nhốt
đàn bà, con gái và con nít có mẹ đi tù! Con nít theo mẹ đi tù, mẹ lại mang bầu
và cha lao động cải tạo rừng già là một điểm sáng chói của chủ nghĩa Mác Lê
bách chiến, bách thắng. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, còn có người mẹ mang
bầu dắt con vào tù về tội mua bán xăng nhớt của bộ đội nhân dân! Các nữ tù ở
phòng ô được hưởng đặc ân, đặc lợi. Đặc lợi: hồ nước ngay trong phòng, nước
tràn trề ngày đêm. Đặc ân: Hàng ngày ra dạo vườn hai tiếng, phơi quần áo, co
quần áo. Nhiều em trẻ và mướt lắm, diện đáo để. Chúng tôi thường đứng sát
tường, ngắm các em nhởn nhơ qua song sắt nhà tù. Khu FG là khu lẫy lừng, tù
nhân phải lẫy lừng. Vậy đa số các em dưới ô FG, theo Đằng Giao, đều đã dính vào
những vụ tán tỉnh yêu đương quý vị cán ngáo có Honda 90, Vespa Sprint dại gái,
lùa quý vị này vào đường tình sử để bồ tèo lột Honda, Vespa và đôi khi, thủ
tiêu luôn quý vị ấy. Đoàn Kế Tường nhiều sáng kiến. Tường chỉ chúng tôi từng em
và đặt tên nhân vật nữ Kim Dung cho mỗi em.
Ngay chập tối, phòng phản động trẻ
đã phóng tín hiệu xuống dưới ô:
- Trên văn nghệ trước, dưới văn nghệ
sau nhé!
Dưới ô, một em trả lời.
- Ô-kê!
Các nhà tư sản mại bản sợ văn nghệ
phiền phức, bèn đi ngủ sớm. Như thế, khỏi tham gia văn nghệ và có lý do chính
đáng “làm việc” với cai ngục, nếu bị gọi ra.
- Đàn anh!
Đoàn Kế Tường đáp.
- Rõ.
- Tụi em chơi bạo đấy. “Thà một phút
huy hoàng rồi sụp tối”…
- Chơi đi.
- Chơi chứ. Đàn anh yên chí, tụi em
vừa tuyên thệ sống chết có nhau, trung thành với tổ quốc. Chỉ FG chơi thôi. Các
khu khác vượt biên, hình sự lem nhem, bộ đội đào ngũ sẽ vểnh tai nghe.
- Bạo lắm.
Chúng tôi chờ đợi vài phút. Bỗng
trỗi dậy một tiếng hô dõng dạc mà tôi nghĩ toàn thể tù nhân Chí Hòa đều nghe
rõ.
- Nghiêm! Quốc kỳ chào!
Tôi vốn chán cái trò “chào cờ, mặc
niệm, suy tôn tổng thống” từ ngày khôn lớn. Mười tuổi, tôi say mê chào cờ đỏ
sao vàng, suy tôn Hồ Chủ Tịch. Vào đời, sự say mê nguội lạnh nhưng bị cưỡng bức
chào cờ vàng ba sọc đỏ, suy tôn Ngô tổng thống ở ngoài đường, trong rạp xi-nê.
Thì đành đứng nghiêm mà lòng ấm ức. Một lần, chỉ một lần thôi, tôi rưng rưng
nước mắt thấy lá cờ quốc gia quen thuộc không còn nữa vào buổi sáng 1-5-1975.
Tôi xuống phố. "Tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên nền
cờ đỏ". Mưa rơi ngập mắt tôi. Bây giờ, nghe bạn tuổi nhỏ hô “nghiêm”, tự
nhiên, tôi đứng nghiêm, lòng chứa chan hoài cảm và hồn phất phơ lá cờ tổ quốc.
Cả phòng tôi đứng nghiêm, trừ những nhà tư sản mại bản và mấy tên bộ đội đào
ngũ. Chúng tôi hướng mắt sang phòng bên cạnh, hình tưởng quốc kỳ, bàn thờ tổ
quốc hương trầm nghi ngút. Bản quốc ca vang lên, hùng tráng. Bản quốc ca vang
lên từ nhà tù Chí Hòa. Lâu đài âm thanh muốn rạn gẫy song sắt, xiềng gông.
Chúng tôi hát theo. Rồi các khu khác hát theo. Cai ngục không có phản ứng. Họ
cố tình “thả giàn” ba ngày Tết. Và họ sẽ bất lực đàn áp cả nhà tù. Sự nguội
lạnh và rửng rưng chào cờ của tôi được hâm nóng và tha thiết đêm trừ tịch năm
ấy. Từ đó, cờ tổ quốc trong tim tôi. Một đời chỉ cần chào cờ một lần thật xúc
động. Tôi đã chào cờ một lần. Tôi ước ao được chào cờ thêm lần nữa, trên quê
hương tôi. Ngoài ra, tôi sẽ khước từ chào cờ ở bất cứ nơi nào. Nó phù phiếm,
giả tạo và chẳng cưu mang một ý nghĩa nào. Anh sẽ phản đối tôi, dĩ nhiên. Vì
anh chưa hề hưởng hạnh phúc chào cờ, hát quốc ca trong khám Chí Hòa. Nếu anh có
hạnh phúc ấy, anh sẽ phải suy nghĩ lại lòng yêu nước của anh. Người đau khổ sẵn
sàng tin nghe người sung sướng. Nhưng người sung sướng khó mà tin nghe người
đau khổ. Do đó, giữa anh và tôi đã có một biên giới, một đoạn tuyệt về ý niệm
đời sống.
- Chú ý, phút mặc niệm các chiến sĩ
hy sinh vì tổ quốc, các chiến sĩ bị Cộng sản sát hại bắt đầu…
Điệu sáo ai oán não nùng của Tiêu Sử
phản động vụt bay khỏi phòng giam, lãng đãng trong vùng trời Chí Hòa. Im lặng
tuyệt đối. Tiếng sáo buồn “mặc niệm” đã khiến chúng tôi rơm rớm lệ. Anh đã hiểu
tại sao những tiểu thuyết của tôi sáng tác ở Pháp chỉ nhằm mục đích vinh tôn
tuổi trẻ chiến đấu ở quê nhà. Bởi rằng tôi đã nhìn thấy họ chiến đấu, nhìn thấy
họ sa cơ, nhìn thấy họ tin tưởng, nhìn thấy họ bất khuất. Tôi đã nhìn thấy họ
can đảm cả trong lúc sa cơ thất thế. Nhân danh họ, nhân danh lòng son sắt và sự
chịu đựng thống khổ của họ, tôi có quyền khinh bỉ những kẻ mộng du chiến đấu,
những kẻ giả hình chiến đấu dẫn dắt những tâm hồn đích thực chiến đấu vào chiêm
bao. Tiếng sáo ngừng lại. Phút mặc niệm chấm dứt. Không có suy tôn lãnh tụ.
Lãnh tụ nào đáng suy tôn? Lãnh tụ đáng suy tôn là tuổi trẻ Việt Nam anh dũng,
là sư tử lãng mạn của dân tộc. Họ vừa mới làm lễ chào cờ, mặc niệm. Họ vừa mới
hát quốc ca trong tù. Họ thách đố bạo lực và quyền uy Cộng sản.
- Bây giờ sang phần văn nghệ, đàn
anh ạ!
- Vẫn lắng tai nghe đây.
- Mở đầu chương trình, DzũngThị Nghè
trình bày ca khúc Vết thù trên lưng ngựa hoang của Phạm Duy tặng anh Duyên Anh.
Dzũng Thị Nghè chắc phải mê Dzũng
Đakao lắm. Chú nào đó đã mánh mung dấu được cây Harmonica nhỏ. Chú thổi nhạc
dạo. Sáo hòa theo. Giọng hát Dzũng Thị Nghè đầm ấm. Giàn trống là mấy cái xô
nhựa và thau nhôm. Tôi thấy “văn nghệ khám” sáng giá quá. Tôi rất cảm động được
hát tặng bài hát mở đầu, bài hát Phạm Duy lấy ý một đoạn trong Vết thù hằn trên
lưng con ngựa hoang làm lời. Tôi không ngờ, lưu lạc bất cứ một trại giam nào,
một phòng tù nào cũng gặp khá đông độc giả của mình. Mà độc giả tuổi trẻ yêu
mến tôi nhất. Họ đến với tôi, an ủi tôi, giúp đỡ tôi, săn sóc tôi. Và đó chính
là tai họa. Tai họa tới từ hai phía 1. Tôi chăm chú nghe Dzũng Thị Nghè. Bài
hát dứt, chúng tôi vỗ tay. Phòng phản động trẻ vỗ tay quyết liệt. Dưới ô, các
em gái “bis bis” loạn xì ngầu. Tiếng hát Dzũng Thị Nghè, tiếng hát của tuổi trẻ
hiên ngang như tiếng nhạc Thạch Sanh. Tiếng hát xuyên qua tường xi-măng cốt
sắt, luồn qua trần phòng, sàn phòng, lách ngang chấn song tù, lan tỏa khắp
không gian. Tiếng hát tin tưởng một niềm vui lệch đất, nghiêng trời.
- Sau đây Hiền lừa hát tặng anh Đoàn
Kế Tường và các anh bản Ra khơi của Phạm Duy.
Hiền lừa hẳn đá bóng ngang cơ Bồn
lừa. Chú nhỏ hát thật tốt. Đến đoạn cuối, hợp ca bốn bè. Đoàn Kế Tường, Dương
Đức Dũng cảm khái hát theo. Văn nghệ do phòng phản động trẻ đảm trách kéo dài
khoảng hai tiếng đồng hò thì được kết thúc bằng bài Quê em của Nguyễn Đức Toàn.
Cả phòng hát. Khi tới câu: “Bao là gươm, bao là súng, dựng lưỡi lê lên đi lấy
lại làng xưa. Bao lòng dân, bao chờ mong, quân ta sẽ về, quân ta sắp về”.., các
bạn trẻ reo hò:
- Quân ta sắp về rồi!
- Quân ta về giải phóng Saigon tới
nơi rồi…
- Quân ta phải về, anh em vững niềm
tin.
Vỗ tay tưng bừng. Cứ như pháo mừng
thắng trận. Bỗng nhiên, bên phòng hình sự rầm rầm la lối. Đoàn Kế Tường hỏi
vọng sang:
- Chuyện gì thế?
- À, có thằng khốn nó hát “quân ta
đếch về”, tụi này sửa nó cho bõ ghét.
- Thôi bỏ qua đi, nó cũng mong quân
ta về nhưng quân ta chưa về, nó nản nó than “quân ta đếch về” đấy.
- Ô-kê, nghe anh.
Bây giờ, các em tù nữ chơi văn nghệ.
Các em hát toàn nhạc sến. Vậy mà nghe cũng thấm thía. Lâu lâu nghe nhạc sến
triết lý “hai với hai là bốn, thực tế thế mà khôn” hay “con Thúy con Hồng nhìn
em khẽ nói, Tao biết rồi mày đang đón người yêu”… thú vị ra phết. Tôi chỉ đủ
can đảm lắng tai nghe hai ca khúc sến. Bèn đi nằm. Văn nghệ dưới ô thiếu hấp
dẫn nên nó tàn mau. Nửa khuya, có lẽ cảm khái văn nghệ phòng tập thể, một giọng
hát tuyệt vời từ cachot bung ra. Ali Hùng. Đích thị người nhái Ali Hùng. Chàng
diễn tả ca khúc Tôi ru em ngủ của Trịnh Công Sơn. Chúng tôi đang nằm, ngồi hết
dậy nghe người tử tù gửi một thông điệp cuối cùng cho đời sống. Đã nhiều đêm, ở
đề lao Gia Định tôi nghe tiếng sáo gió của Ali Hùng. Đêm nay, tôi nghe chàng
hát. Cachot FG Chí Hòa xoáy mòn thân phận của tử tù trước ngày nó trở về cát
bụi. Tôi chưa thấy, ở một chế độ nào, tù nhân bị tuyên án xử tử và Chủ tịch Nhà
Nước khước từ sự khoan hồng mà vẫn phải kéo dài tháng ngày đợi chết trong quan
tài xi-măng. Đúng vậy, cachot FG Chí Hòa là thứ quan tài xi-măng. Tôi đã biết
những cachots FG xây sát cầu thang mỗi lần xuống sân tắm. Tận mắt, tôi nhìn
nước ở sàn cachot rỉ ra nhễu giọt liên tục. Thì tôi đoán nổi sự ẩm ướt thường
xuyên. Không có ánh sáng vào cachot FG.
Người ta đã kiểm soát được ánh sáng.
Có lẽ, khoa học kỹ thuật Cộng sản đang nghiên cứu phương pháp kiểm soát không
khí. Và Nội quy của nhà tù Cộng sản sẽ có điều cấm tù nhân thở tự do.
Một chút về cachot FG Chí Hòa: Chiều
dài của cachot 1 thước 50 phân. Chiều ngang, 70 phân. Chiều cao, 1 thước 80
phân. Tường bê-tông cốt sắt. Cửa sắt dày, ba ổ khoá. Một ô cửa nhỏ giữa cửa lớn
đúng tầm mắt tù nhân đứng để cho cai ngục rọi đèn vô xem tù nhân còn sống hay
đã chết và để đưa cơm nước cho tù nhân. Cachot FG Chí Hòa trên lầu chót, hai
dẫy đối diện, cách nhau một hành lang hẹp không đèn, dù đèn vàng hiu hắt. Do
đó, cachot ngàn năm tối tăm. Dưỡng khí lùa vào hành lang. Tù nhân hít thở qua 6
cửa nhỏ, gọi là “cửa gió”. Bên trong cachot có cái xô. Tù nhân tiểu tiện, đại
tiện vô đó. Không có giấy chùi đít. Tù nhân sẽ noi gương súc vật nếu không muốn
xé quần áo làm giẻ chùi hay nếu không muốn nhịn uống dùng nước rửa đít. Mỗi
ngày, tù nhân được phát hai ca nước đun sôi. Không có chiếu. Tù nhân nằm, ngồi
trên sàn xi-măng đã đóng lớp phân tiểu khô quánh của các tù nhân bị nhốt ở
cachot qua nhiều chế độ. Con người đã được chủ nghĩa Cộng sản ưu việt bảo vệ
với đầy đủ phẩm cách làm người. Nó hít thở nhiều uế khí, nhiều thán khí và rất
ít dưỡng khí. Nó chỉ được mặc một bộ quần áo. Hàng tuần, chủ nghĩa ưu ái cho nó
đi tắm một lần. Nó xách xô phân tiểu theo. Trước hết, nó đổ phân tiểu xuống
cống, rửa sạch xô. Rồi nó tắm gội, giặt quần áo. Chủ nghĩa giám sát nó trần
truồng tắm gội. Vì chủ nghĩa quản lý con người. Không tìm ra sự trắc ẩn trong
danh từ quản lý nên chủ nghĩa mặc kệ sự ghẻ lở của con người tắm thiếu xà
phòng. Con người tắm xong, giặt quần áo xong, vắt khô quần áo rồi mặc và xách
xô lên cachot đợi lần tắm giặt, đổ phân tiểu kế tiếp. Nó sẽ phơi quần áo trên
giây thân thể trong bóng tối mịt mù cho đến khi khô. Ấy đó, cachot FG Chí Hòa,
nơi các tử tù Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đã sống chờ chết, nơi
Đoàn Kế Tường đã sống và đã phát biểu: “Với cachot FG, mọi thứ cachot trên đời
đều vô nghĩa”, nơi báo chí Mỹ không bao giờ sủa ăng ẳng đòi “cải thiện chế độ
lao tù”. Có cơ may nào dẫn họ vào cachot FG Chí Hòa? Những kẻ từng gang họng
lên án “Chuồng Cọp Côn Sơn" sẽ xấu hổ lắm khi họ được phép “tham quan” –
tham quan thôi – một cachot thứ yếu của khu FG khám Chí Hòa dưới chế độ quang
vinh Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lê Thanh Minh, đại úy trốn trình diện
học tập, người đã từng coi tù Cộng sản ở Côn Sơn, nói với tôi hồi chúng tôi
sống ở phòng 6C-1 đề lao Gia Định: “Chuồng cọp thấm mẹ gì! Nó chỉ là thứ cũi
sắt nhốt những thằng vi phạm kỷ luật, những thằng sách động tù nhân. Nó rực rỡ
ánh sáng và tràn đầy dưỡng khí”. Đại úy Lê Thanh Minh mới chỉ so sánh Chuồng
Cọp với cachot khu A đề lao Gia Định mà anh đã bị nhốt. Trên tất cả những điều
tôi muốn nói, tôi muốn hỏi báo chí Mỹ đã từng ủng ẳng đòi Việt Nam Cộng Hòa
“cải thiện chế độ lao tù” là họ nghĩ gì về những tử tội phải kéo dài tháng ngày
đợi chết ở cachot FG Chí Hòa. Có nên phất ngọn cờ Quyền Chết của con người bên
cạnh Quyền Sống của con người? Và tôi cũng muốn hỏi qúy vị tự xưng mình là Đại
Diện cho tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng ở Việt Nam, đòi hỏi Cộng sản – có
vị còn hách dịch bắt Cộng sản Việt Nam – thả hết tù nhân ra khỏi các nhà tù, có
vị nào đã nằm tù Cộng sản? Tôi biết đích xác những vị to mồm nhất đều là những
vị đã phè phỡn, ít nhất, 20 năm ở ngoại quốc. Hôm nay, quý vị ấy đấu thầu tù
nhân bằng nước bọt, quý vị ấy dùng tù nhân làm thang để leo lên sự nghiệp ái
quốc, ái quần. Quý vị ấy tưởng tượng nỗi khổ của tù nhân, mở đồ hộp cho chó ăn
mà liên tưởng cảnh đói của tù nhân quê hương. Nếu quý vị còn liêm sỉ nên câm
họng lại. Bởi vì, có đến 99 phần 100 tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng, tù
nhân của lương tâm đã, đang nằm trong các nhà tù Cộng sản Việt Nam, bị đày đọa
quằn quại thì có, bị hành hạ khốn đốn thì có, nhưng rên siết thì không. Và,
chắc chắn, ai cũng muốn phỉ nhổ vào mặt những kẻ đấu thầu nỗi khổ của mình. Tôi
dám nói điều này: Tất cả những lên tiếng của bất cứ một cá nhân, một hội đoàn
nào yêu cầu Cộng sản thả tù nhân đều vô tích sự và chỉ làm phiền tù nhân. Cái
tích sự, nếu có – bắt buộc phải có, đi buôn cần kiếm lời – là ồn ào quảng cáo
tên tuổi mình. Người Việt Nam quốc gia hải ngoại chỉ có mỗi cách can thiệp hữu
hiệu nhất cho tù nhân là đầy đủ lực lượng quân sự giải phóng dân tộc, xóa bỏ
mọi nhà tù, trại tập trung Cộng sản. Cách thứ hai, kém hữu hiệu, nhưng làm tăng
sự can đảm để tù nhân sống mà hy vọng ngày được giải phóng là âm thầm vận động
Amnesty international, âm thầm vận động các Tổ chức quốc tế có thế lực, âm thầm
vận động với chính phủ các nước viện trợ nhân đạo cho Cộng sản Việt Nam để họ
làm áp lực, để họ can thiệp cho tù nhân đỡ bị hành hạ điêu đứng và cho những tù
nhân già cả, bệnh hoạn được tha. Cách thứ ba thiết thực nhưng khó thực hiện, là
đóng góp tiền bạc, mua thuốc, gửi tiền tặng vợ con tù nhân để vợ con họ vững
lòng nuôi chồng đợi ngày đoàn tụ gia đình. Cách này khó thực hiện vì sẽ chẳng
vị đại diện nào chịu bỏ tiền mà quyên tiền thì tiền cứ muốn chạy vào túi riêng!
Trên mọi địa hạt, hai kẻ đối nghịch không nhường nhau một bước. Cộng sản không
thể bảo quốc gia đừng chống nó. Quốc gia không thể “ra lệnh” cho Cộng sản thả
tù vô điều kiện. Tranh đấu là tốt, nhưng chớ quên lô-gích. Những kẻ thích đại
diện hư ảo, thích nhân danh hư không (ai cho phép đại diện, ai cho phép nhân
danh) thường giả vờ quên lô-gích, biết chuyện phù phiếm, vẫn rêu rao lấy danh.
Nghĩ mà đau cho tù nhân. Họ chẳng biết cachot FG, chẳng được chào cờ, mặc niệm
ở khám Chí Hòa, đã đành, họ còn chẳng biết 20 năm chiến tranh, dân tộc họ ra
sao; họ ngậm miệng hôm qua, họ to mồm hôm nay và to mồm hơn cả tù nhân đã kinh
qua ngục tù Cộng sản! Bọn đấu thầu nỗi khổ sao hiểu nổi cái hào sảng của tù
nhân, hiểu sao nổi cung cách sống chờ chết mòn của tù nhân. Cái hào sảng của
Ali Hùng, chẳng hạn, sống đợi chết, vẫn Tôi ru em ngủ.
Giọng Ali Hùng bồng bềnh lãng mạn,
chan chứa cảm xúc. Hòa âm cho bản nhạc chàng hát là nỗi hiu quanh ngục tù. Nơi
tiếng hát bay ra, cachot FG, như nơi tiếng đàn Thạch Sanh thoát lên. Đã cổ tích
dưới hang lấp kín đá. Sẽ cổ tích Chí Hòa mai sau. Người ta sẽ kể cachot của Ali
Hùng lớp phân dầy mấy phân, thấm nước mắt của tù nhân oan khiên, thấm máu của
tù nhân tự sát, qua các triều đại, qua những cách mạng. Người ta sẽ ngợi ca
đoạn kết cổ tích Chí Hòa y hệt đoạn kết cổ tích Thạch Sanh. Không có con người
trả thù con người. Lý Thông trở về đời sống hèn mọn của nó. Con người Thạch
Sanh không nỡ giết nó. Nhưng trời không tha nó, Trời bắt nó chết thảm. Những
đứa gian ác sẽ hoá thành bọ hung hết. Thạch Sanh ở mãi với lòng người, ngự trị
mãi hồn đời. Ali Hùng và những ai làm tốt, làm đẹp cho quê hương sẽ ở mãi lòng
người, ngự trị mãi hồn đời. Chàng biết uống giọt sống cuối cùng, dám uống giọt
sống cuối cùng. Những người tử tù kéo dài thời gian đợi chết ấy không cần ai
đại diện họ xin kẻ thù họ cả. Bọn đại diện, bọn cai thầu tù ngục đã vấy nhơ lên
sự thản nhiên sống chểt của họ. Ali Hùng đó, chàng đã làm xong bổn phận của
chàng với dân tộc chàng. Chàng thơ thới đợi ngày về đất. Trước khi nhập cõi,
cái chết gần kề, trong bóng tối mông lung của thời đại, Ali Hùng vẫn lên tiếng.
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa
Con đường thật buồn
Một ngày cuối đông
Con đường mịt mù
Một ngày cuối thu
Em vào mùa hạ
Nắng thắp trên cao
Và mùa xuân nào
Ngẩn ngơ tình mới
Đi nhẹ vào đời
Thầm thì gót chân
Em gọi nụ hồng
Vừa tàn cuối sân
Nghe tình chợt buồn
Trong lá xôn xao
Để mùa xuân sau
Mua riêng tình sầu
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa xuân
Em hôn một nụ hồng
Hỏi thăm về giọt nắng
Tôi ru em ngủ
Hạ cũng vừa sang
Em hôn lên tay mình
Để chua xót tình trần
Chàng kết thúc ca khúc chàng diễn tả
bằng cái “fade out”: Em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần… em hôn lên tay
mình, để chua xót tình trần… Rồi bốn bề im lặng. Em hôn lên tay em và em chua
xót cuộc đời, chua xót tình người. Còn anh không chua xót gì cả, anh không cần
em đại diện anh xin kẻ thù của anh tha anh, em hiểu chưa? Chúng tôi ngồi hút
thuốc rê, thuốc lào chờ Ali Hùng hát thêm bài mới hay thổi sáo gió. Thiên hạ đã
ngủ hết. Và Ali Hùng cũng bặt tiếng. Tôi hiểu Ali Hùng đuối sức rồi. Cachot FG
đã xử tử anh từng phút. Những phát súng găm thân thể anh, hôm nào đó, khi anh
dựa lưng cột sân bắn, sẽ là những phát súng ân huệ. Người ta sẽ ban ân huệ chết
cho anh ra sao, Ali Hùng? Trước hết, người ta bắt anh há rộng miệng, tống kín họng
anh một trái chanh để anh hết đòi hỏi một ân huệ cuối cùng dành cho tử tù. Rồi,
người ta bịt mắt anh. Không có linh mục rửa tội giùm anh đâu. Anh bị âm thầm
dẫn đến một huyệt mộ đào sẵn. Chắc chắn, vào đêm khuya. Người ta kê súng vô
thái dương anh, bóp cò. Anh rơi luôn xuống huyệt. Người ta lấp đất và san
phẳng. Chẳng có bia mộ đâu. Những cái chết đích thực của anh hùng quốc gia,
quốc gia chân chính, đừng hòng người quốc gia biết để làm lễ truy điệu, đừng
hòng người quốc gia biết ngày chết để làm giỗ chạp. “Chinh phu tử sĩ mấy người,
nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”. Ai đã gọi hồn Ali Hùng nhỉ?
Chúng tôi trải qua ba ngày Tết ở Chí
Hòa. Theo… truyền thống nhà tù Cộng sản, ba ngày Tết tù nhân được ăn cơm với
thịt. Cộng cả ba ngày, mỗi tù nhân hưởng một lạng thịt. Văn nghệ rộn ràng trọn
ba ngày. Với tôi, văn nghệ chấm dứt sau bài ca của Ali Hùng. Sinh hoạt Chí Hoà
trở lại bình thường. Tỷ phú Trần Thành đổi phòng và được giữ chức nuôi lợn.
Hàng ngày, ông xách cái xô đến các phòng xin cơm thừa. Làm gì còn cơm thừa? Ông
Tư Nhì có cái ghe đánh cá bên Chánh Hưng. Vì không chịu gia nhập Hợp tác xã,
muốn làm ăn cá thể, ông bị vào tù và ghe của ông bị tiếp quản. Nhân vật Tư Nhì
to con, cao lớn, bụng phệ như ông ve dầu Nhị Thiên Đường, hàm răng vàng chóe,
vui tính, tốt dạ. Vì ông Tư Nhì khoẻ, phòng đề cử ông nhiệm vụ chia cơm. Chức
quản lý nước đã giao lại cho Đoàn Kế Tường, lý do: Tường không ngủ trưa. Được
một tuần yên lành sau Tết thì phòng phản động trẻ bị chuyển khu nguyên vẹn. Đó
là phản ứng muộn màng của Chí Hòa đối với đêm văn nghệ trừ tịch. Lãnh đạo đã
họp và quyết định phân tán mỏng phòng phản động trẻ. Sẽ khối chú vào cachot.
Cai ngục Phách bắt đầu có thái độ với phòng của chúng tôi.
Một sáng điểm danh như thường lệ,
Trưởng phòng Phạm Quang Khai mặc quần xà lỏn, áo sơ mi, đứng nghiêm:
- Báo cáo cán bộ, phòng 60 người,
hiện diện đủ.
Chúng tôi ngồi xếp hàng 5, mỗi hàng
10 người. Mọi hôm, ông Khai báo cáo thế là xong. Nhưng cai ngục Phách dở chứng:
- Ai dạy anh báo cáo thế?
- Tôi vẫn báo cáo.
- Anh thuộc Nội quy không, đọc điều
1 xem nào!
Ông Khai quíu lưỡi. Chẳng có thằng
tù nào thèm thuộc Nội quy cả, vì không thèm học.
- Anh phải học Nội quy, cả phòng
phải học Nội quy Chí Hòa. Riêng anh, làm đến chức Trướng phòng thì nên biết
cách báo cáo. Anh phải đọc sơ yếu lý lịch rồi mới báo cáo. Rõ chưa?
- Rõ.
- Báo cáo lại.
Ông Khai đứng nghiêm:
- Tôi, Phạm Quang Khai, sinh năm 19…
tại..,, hộ khẩu thường trú số… đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, thành phố Hồ Chí Minh,
can tội tư sản mại bản, bị bắt ngày… tháng… năm 1975, Trưởng phòng báo cáo cán
bộ phòng có 60 can phạm, hiện diện đủ.
Cai ngục Phách, thằng oắt tì, gật
gù:
- Được.
Buổi chiều, hắn tới đưa cho ông Khai
4 trang Nội quy đánh máy gồm 44 điều. Nội quy đề lao Gia Định có 11 điều thôi.
Sáng hôm sau, vẫn cai ngục Phách điểm danh. Ông Khai báo cáo xong, hắn “giáo
dục”:
- Anh Khai đọc Nội quy, cả phòng
lắng nghe học thuộc. Tôi sẽ bắt đọc, anh nào không thuộc Nội quy sẽ bị cấm tắm,
cấm nhận quà… Rõ chưa?
- Rõ.
Trưởng phòng Phạm Quang Khai đau khổ
đọc 4 trang Nội quy và chúng tôi đau khổ ngồi bó gối nghe.
- Anh Khai!
- Dạ.
- Sao anh đọc như ăn cướp vậy, mắt
liến la liến láu? Mai đọc thật chậm.
- Dạ.
Cai ngục Phách nhận chỉ thị hành
phòng tôi. Phòng hình sự bên cạnh đâu phải đọc Nội quy. Nhờ tiết mục học thuộc
Nội quy, Đoàn Kế Tường chế ra trò giải trí. Tường cầm Nội quy, phổ nhạc vào
những điều khoản, thứ nhạc hát xong thì quên mình đã hát gì. Chúng tôi nghe
Tường hát, ôm bụng cười. Tường bảo học kiểu này chóng thuộc. Trong cảnh khốn
cùng, kẻ nào làm cho người khác cười vui, kẻ ấy là Bồ Tát. Đoàn Kế Tường đã là
Bồ Tát. Giữa không khí sôi nổi học Nội quy, phòng chúng tôi tiếp nhận linh mục
Nguyễn Văn Tự Do và anh Đình (tôi không nhớ rõ họ, hình như Võ Xuân Đình). Linh
mục Nguyễn Văn Tự Do, tên căn cước là Nguyễn Văn Tự, người giảng Phúc Âm trên
Đài Phát Thanh Saigon. Ông bị bắt về vụ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Vụ này hơi ly
kỳ và được thần thoại hoá ở đề lao Gia Định năm 1977.
Tù nóng kể cho tù nguội 2: Đức Mẹ
hiện ra ở nhà thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Thiên hạ hay tin, ào ào kéo về hành
hương, cầu nguyện. Hoa dâng lễ ngập cả nhà thờ, Cộng sản không ngăn cấm nổi. Có
một người tê liệt ngồi trên xe lăn, sai vợ con chở tới và đẩy xe vào nhà thờ
cầu khẩn ân huệ. Anh ta đứng dậy, chạy nhẩy bình thường. Cộng sản sợ hãi, bắt
anh ta đem đi đâu chẳng rõ. Đồng thời, một số linh mục cũng bị bắt, trong số đó
có linh mục Nguyễn Văn Tự Do và linh mục Hoài Linh 3. Ngoài các linh mục còn
thêm một nhân vật “kỳ bí” Hồ Ngọc Anh. Nhân vật này bị Cộng sản chọc mù mắt ở
cachot, Đức Mẹ vẫn ban ân nhìn đời sống rõ như ban ngày, bị Cộng sản bỏ đói,
Đức Mẹ vẫn nuôi nấng… Vân vân. Hồ Ngọc Anh nằm cachot khu A đề lao Gia Định.
Tôi không tin. Gặp linh mục Nguyễn Văn Tự Do, ông không chịu giải thích. Nhưng
ông thích bàn luận chuyện chính trị. Và ông bị kết tội phản động. Anh Đình nói
là anh cộng tác với nhật báo Chính Luận, rất thân Đặng Văn Sung. Tổng số tù
nhân phòng tôi nâng lên 62 người. Có linh mục Tự Do, các tù nhân Thiên Chúa
giáo mừng ra mặt. Chúa đã gửi linh mục Tự Do đến phòng của chúng tôi.
Trưởng phòng Phạm Quang Khai bị đọc
Nội quy hai tuần liền mệt đừ. Ông ta chưa thuộc hết và chúng tôi, mỗi người mới
thuộc vài điều đề phòng bị cai ngục Phách truy bài. Hắn chưa truy bài “học
tập’" thì bị đổi sang khu khác cùng với cai ngục Quỳnh. Cai ngục mới điểm
đanh. Trưởng phòng Khai báo cáo kiểu cai ngục Phách, bị hạch hỏi:
- Sao anh râu ria thế?
Ông Khai ngẩn tò te:
- Tôi già rồi, được phép để râu.
- Râu ria là dài dòng chứ không phải
râu của anh. Râu của anh ai thèm quan tâm. Báo cáo vắn tắt.
Vậy là ông Khai thoát nạn kể sơ yếu
lý lịch đọc Nội quy 44 điều. Làm Trưởng phòng khổ vô cùng. Thế mà ông Khai
khoái. Ông ôm luôn chức Thư ký phòng, ông chủ tọa các phiên họp cuối tuần rồi
ông gò lưng tôm nắn nót biên bản. Dường như, những người đã có địa vị chức tước
xã hội thì ở nơi chốn nào, hoàn cảnh nào vẫn thích chức tước, địa vị.
Hai hung thần Quỳnh, Phách cút, Đoàn
Kế Tường hát cho cả phòng nghe bài Em đến nuôi anh một chiều mưa, nhạc Tô Vũ,
lời Đoàn Kế Tường.
Em đến nuôi anh một chiều mưa
Em đến nuôi anh một chiều đông
Nuôi lần này ở ngay khám Chí Hòa
Em đến nuôi anh lầm than quá
Cầm cái phong bì
bước qua cổng khám
là đến phòng nuôi
Em đến nuôi anh trình xong giấy
Em đến nuôi anh bàn cu Phách
gần bên thằng Quỳnh
Mặt nhìn mặt hồi lâu Tư Long mới
phán một câu
“Hiện thời còn đây
Ngày mai nuôi đâu
thư sẽ gửi sau
Nếu hên xuống Long Thành
Nếu xui tới Lao Bảo
Và xa hơn, ngoài Bắc
Nếu không gắng học tập
Sẽ chui ấp Hoả Lò
Cải tạo thêm mười năm
Chắc mai mốt anh về
Sẽ lê giống anh Quang què
hay là cuộc đời buồn như Ngao Song
như Nguyễn Mạnh Côn
Lòng nhủ thầm lần sau nuôi anh
một túi đầy hơn
Em ước mơ kỳ thăm nuôi tới
Em đến nuôi anh còn khu F
Và chưa chầu trời…
Quang què tức là đại úy nhẩy dù
Quang (tôi không nhớ họ anh ta), ông Đô trưởng của 3C-1 mà tôi đã giới thiệu sơ
sơ ở phần thứ hai Nhà tù, hiện đang sống chung phòng với chúng tôi. Sống chung
với chúng tôi nên kể ông Phường trưởng Phạm văn Diện, bạn đồng nằm vùng của Vũ
Hạnh. Nhờ nằm vùng, Diện được chỉ định làm Phường trưởng một Phường thuộc quận
3. Rồi bị kết án “mất phẩm chất cách mạng”. Và vô tù. Diện vẫn nuôi hy vọng
cách mạng sẽ soi sáng nỗi oan cho mình. Anh ta có vẻ nguy hiểm nhưng nể nang
Đoàn Kế Tường. Tường ngông nghênh, chấp hết, ăn nói mạnh bạo, phản động quyết
liệt. Có tài nhại nhạc, nhại thơ. Đoàn Kế Tường đã nhại bài Đi chơi chùa Hương
của Nguyễn Nhược Pháp. Rất tiếc, tôi nhớ có vài câu, xin ghi ra đây gọi là nhớ
người bạn tù:
Hôm nay ngày thăm nuôi
Xe cộ chạy ngược xuôi
Tay em xách cái giỏ
Tay kia cầm gói xôi…
Được anh em tán thưởng Em đến nuôi
anh một chiều mưa, Đoàn Kế Tường chế tạo thêm Kỷ vật cho em đưa tên các bô lão
râu dài, bệnh tật của phòng vào lời:
Em hỏi anh
Em hỏi anh: Bao giờ trở lại
Xin trả lời đến Tết mới về.
Anh trở về thành cụ Ngao Song
hay ít ra cũng bằng cụ Hà Năng Đắc
Anh trở về già như cụ Lựu
Anh trở về tóc trắng Nguyễn Mạnh Côn
Anh trở về
Đem bệnh trĩ của Nguyễn Văn Trương
hay bệnh lao của Bùi Kim Bảng
Anh trở về
điếc lòi Phan Bá Thúc…
Cứ thế, ngày trôi nhanh. Nhờ Bồ Tát
Đoàn Kế Tường. Tù đầy không hứa hẹn chi cả. Chúng tôi luôn luôn ở tư thế chuẩn
bị đổi phòng, chuyển trại, luôn luôn nghĩ rằng tương lai nghẹn ngào hơn hiện
tại.
--------------------------------
1 Sẽ viết rõ ở Trại tập trung.
2 Tù nóng: Tù vừa mới bị bắt. Tù
nguội: Tù đã nằm đề lao lâu.
3 Cũng làm nhạc nhưng không phải
nhạc sĩ Hoài Linh.
(còn tiếp)
Duyên Anh