Vào buổi sáng
của ngày thứ mười hai, khi kéo tấm rèm không thể đoán nổi từng có màu gì, nhìn
mặt trời ủ lửa bên dưới lớp sóng thớ lợ, Nhị tưởng đã ở đây một trăm lẻ chín
năm rồi.
Chồng, vẫn chưa
ngoi lên thở.
“Lại một ngày
nữa”, Nhị nghĩ, hít một hơi ở gần cuối dãy hành lang, trước khi bước ra gieo
rắc khí hậu tang thương lên quầy lễ tân, gian sảnh, con đường bên lề biển rồi
chúng nhanh chóng lan khắp bãi Côi, qua những người bán rong dọn hàng, những
chiếc ghe câu lác đác trở về. Thấm hút sạch cái thanh lành, vui tươi của buổi
sáng, Nhị thay gió muối sảng khoái bằng thứ gió oặt bất hạnh.
“Chưa thấy gì
đâu. Tụi này mà gặp cậu ta là báo cô hay rồi”, một ngư phủ ẩn mặt sau đụn khói
thuốc, nói luôn ngay khi Nhị trờ tới. Vẻ như không nghe thấy, nó nhón chân nhìn
vô lòng ghe, như chồng đang rúc trốn dưới hầm nước đá đầy vãy cá, hay ém mình
giữa nùi áo xống phía ca bin.
“Gần chục bữa
đâu phải ít, nằm ngoài đó cá cũng rỉa sạch”, tổn thương bởi cái sự không được
tin tưởng, anh ngư phủ xẵng giọng. Hoặc anh ta đã hết chịu nổi mỗi buổi sáng từ
biển trở về, buộc gặp một người đàn bà mà anh không biết nên nói gì cho phải.
Ngoài chửi bậy và phun những chuyện gái trai tục tĩu ra, lưỡi của một gã ăn đầu
sóng không quen uốn mình nói những lời phù phiếm. Mất tích ở biển nhiều ngày,
chỉ có đường chết, vậy thôi.
“Thì cũng phải
thấy đống xương đó mới được chớ”, Nhị nói.
Nó coi cái câu
rằng chồng giờ chỉ còn bó xương sạch bong là lời an ủi nghe được, so với mấy dỗ
dành kiểu “sống chết có số cả”, “trời kêu phải dạ”, mà người bãi Côi đắp lên
Nhị suốt từ buổi sáng chồng biến mất. Trưa ngày thứ hai, một du khách đã níu
Nhị lại, kể chuyện ngoài quê, thằng em họ chị ta cũng mất tích theo bè cá trong
trận bão. Ba năm nước mắt nguội, cỏ lợp trên mộ gió, ba cái giỗ vợ con thằng
nhỏ bần thần kêu hương hồn trôi giạt ấy về ăn. Một bữa coi tin tức trên truyền
hình phát hiện ra thằng đó vẫn sống nhăn răng, ở tuốt miền Giữa, đứng cạnh con
đàn bà mang bụng chửa lặc lè, mặt thiểu não đứng trước máy quay kêu ca năm nay
hạn dài bầy cừu chết ráo.
“Thấy chưa, mất
tích đâu có nghĩa là đã chết”, chị nọ nói, giọng hết sức hài lòng vì đã tưới
tắm cho sinh linh vắt không ra nước mắt này một cơn mưa rào hy vọng.
Một cơn giận vô
cớ bóp nghẹt Nhị, nó muốn vả vô mặt chị ta, cho vỡ lớp son phấn trang trí dày
cộm kia ra. Giờ thì không thể lờ đi cái ý nghĩ lởn vởn quanh nó ngay sau buổi
chồng chơi sóng, rằng anh ta đang trả đũa chuyện nó thù nghịch suốt đường đi,
bởi món nợ không đòi được, bởi anh đã đưa chiếc xe máy già lạc vài chục cây số
chỉ vì “nghe đằng trước tiếng trống múa lân, tưởng gần”, và lúc chồng vuốt cổ
chân rủ thử coi giường khách sạn có êm không, Nhị đã đạp anh văng vào vách
không chút xót.
Chồng sửa soạn
cho cuộc biến mất ấy ngay trước mặt Nhị, với vẻ hớn hở thường ngày. Chơi sóng
một lúc, chồng trườn lên bãi uống cạn ly nước mía trong tay Nhị, nói muốn lặn
đua với gã nào đó đằng kia, “so với phổi cá của anh thì thằng đó là đồ bỏ”. Rồi
anh hụp khỏi lớp sóng khảm bạc, một tay bịt mũi, như thể bằng cách đó anh có
thể nhịn thở lâu hơn. Ngay trước mặt Nhị. Không quẫy đạp, vùng vẫy. Chuồi vào
đáy biển như đứa trẻ tuôn vào lòng mẹ, như lá rơi về đất. Sóng trải lên chỗ
chồng vừa biến mất không có xoáy hay vết nứt gãy nào. Cả khi không thấy chồng
trồi lên lắc bờm rũ bước, Nhị chẳng chút gợn lo, trong lúc lặn chắc thằng chả
đã di chuyển sang chỗ khác, và lẫn vào đâu đó trong bầy người đang ngụp lặn
trong biển cuối hè.
Sau này đội cứu
nạn bãi biển cứ dằn vặt Nhị, thấy người không trồi lên mà cô tỉnh queo, cả buổi
rồi mới báo. “Sóng gió như vầy cái xác đâu có nằm một chỗ mà chờ”, họ nói, khi
cho tàu kéo lưới quây bãi. Nhị im lặng, ghì lấy mạn tàu nhìn mũi dãi cùng những
thứ trào ngược từ dạ dày tuôn vào biển.
Chồng không
theo dấu.
Ngày xám thứ
ba, Nhị trèo lên dốc núi chia cắt bãi Côi với thị trấn phía bên kia. Nó nhìn
lại dãy hàng quán được chằng néo tạm bợ trước bầy ngựa gió điên dại phi từ biển
vào, mấy cái nhà vệ sinh công cộng bị mất cửa, những cây dương mọc không hàng
lối thân xăm chằng chéo những lời thề ước lẫn chửi bới nhau, miệng cống tuôn
bọt trắng lên rảnh cát sẫm màu. Chồng đang núp ở đâu đó, đắc ý ngó Nhị mắc kẹt
trong vũng lửa cuối hè, ý nghĩ đó làm nó tức điên. Với sự đồng lõa của biển,
quá dễ để đào thoát khỏi Nhị, khỏi cái vườn sầu riêng bịnh, khoản nợ nhà băng.
Lặn xuống và
biến mất.
Lần biến mất
gần nhất, chồng nhảy xe theo một đoàn xiếc thú ngang qua. một tuần sau chiếc xe
vẽ một con trăn lớn cuộn quanh một con voi buồn thiu rũ vòi mửa chồng xuống đầu
dốc. Đói lả. Nhị nhìn gã đàn ông và cơm hối hả, ngờ rằng anh không phải nhớ
mình mà về, như anh giả lả khi vào đến cửa. Nó cay đắng nhận ra không thể giữ
chân chồng bằng thứ tiểu xảo kiểu như giấu tiền, giấy tờ tùy thân. Không có mấy
thứ ấy anh ta vẫn trốn đi chơi như thường.
“Thấy chưa, đã
nói rồi mà”, mẹ Nhị hả hê. Bà đã không làm gì để ngăn chặn Nhị lấy một đứa trẻ
lâu năm làm chồng, giống như không làm gì khi Nhị bị đánh đòn, ngoài cái câu
‘thấy chưa, đã nói rồi mà”. Quên cách hạnh phúc khi nhìn con cái hạnh phúc,
nhưng có một câu mẹ Nhị không quên, khi một bữa nó sẽ ưng một anh lêu lổng
trong xóm,
“Có sao đâu,
miễn là thoát khỏi cái nhà này”
Lúc đó Nhị chưa
biết đứa trẻ kia lớn xác từ những tùy hứng, bốc đồng. Mỗi buổi sáng anh xách
dao ra làm cỏ vườn, Nhị không chắc anh sẽ trở vô vào bữa cơm trưa. Dao cắm lên
gò mối, người thì không biết được đang chổng mông vô trận đá gà, hay vào thị
trấn theo một đám sơn đông, hay đi xa hơn qua bên kia trại Bù Mắc coi đua ngựa.
Và đói lả, lúc về.
Để coi lần này
thằng chả chịu được bao lâu, Nhị nghĩ, lúc nhìn mặt trời thỏa mãn chìm xuống
sau một ngày hết mình nung đốt.
Trở về phòng,
Nhị nằm lên cái hõm nệm trải giường, nơi chồng từng nằm, hãy còn hơi ấm. Thứ
hơi ấm khiến Nhị bất an, hàng mấy chục tiếng đồng hồ trôi qua rồi, sao nó vẫn
chưa chịu nguội. Nó bật dậy mở toang tủ áo, ngó vào gầm giường, ngờ mình sẽ
xông vào bóp chết chồng nếu bắt gặp anh trong đó, ngó nó cười toe với bộ răng
vàng khói thuốc, nói hay quá ta, trốn vậy mà cũng tìm ra. Nhưng ở gầm giường
chỉ vài cái bao cao su đã dùng rồi, mớ lăng quăng mang sứ mệnh nhân giống nòi
đã chết khô, và phía trên nóc tủ là cái chổi lông gà phủ bụi.
Đội cứu nạn bờ
biển thông báo ngừng tìm kiếm chồng Nhị vào ngày thứ năm. Nó dọn qua phòng rẻ
nhất, tận áp mái. Ở đó chỉ có thể ngó ra biển, một thứ xa lạ với Nhị. Nhìn sóng
lao mình điên cuồng vào mõm núi bên kia, khác với vẻ thớ lợ khi liếm vào bờ
cát, Nhị hình dung dưới chân miếu Nam Hải, sẽ thấy xác sóng nằm phơi trắng.
Những cái xác hãy còn tươi, ướt, sùi bọt.
Nghe lạnh chỗ
dái tai, nơi đôi bông vừa bị gỡ ra gởi lại một tiệm vàng. Ở đó giờ chỉ còn một
đốm trăng xanh tái bằng đầu ngón út, chung quanh cháy rám cả. Vết lõm trên
chiếc nệm cao su rốt cuộc không phải của chồng để lại, nó là dấu vết của bao
nhiêu người đã thuê căn phòng đó, và mặt trời mùa hè rọi qua cửa chớp làm ra
thứ hơi ấm gây hoang mang. Phát hiện đó vẫn không làm Nhị chấp nhận chuyện
chồng giờ đã lạc vào một hải lưu nào.
“Chồng tôi đâu
chết dễ vậy”, Nhị nói. Dân bãi Côi chẳng nhận ra mỉa mai trong ấy, cảm thấy sự
tự ru ngủ, huyễn hoặc mình, khi người ta không thể ngay lập tức đối diện hiện
thực.
Nhưng Nhị mộng
du ở bãi Côi lâu hơn họ tưởng. “Cô ghi số điện thoại lại đây, tụi tôi sẽ gọi
nếu có tin gì mới”, người của đội cứu nạn gần cạn sạch kiên nhẫn, khi mỗi cuối
chiều Nhị tì tay lên bệ cửa sổ nhìn vào văn phòng của họ, chờ đợi như một chủ
nợ.
Sự hiện diện
của một con đàn bà tiều tụy làm cho bãi biển đánh mất vẻ tự nhiên vốn có, cô ta
nhắc nhớ một kẻ bất hạnh bị biển mang đi, và ai đó nói chuyện tiếu lâm và cười
lớn, nô giỡn với con chó, hay áp tay vào rốn người tình đều tự thấy mình có vấn
đề về đạo đức. Cả những du khách mới tới cũng bị cướp đi niềm vui khi biết
ngoài kia có một kẻ đang ướt lạnh nổi trôi, và chẳng có gì bảo đảm anh ta không
kéo thêm người xuống đáy chơi cho đỡ chán.
Có thể cảm nhận
được mùa hè bãi Côi đang bị vữa thiu vì mình, Nhị vẫn không từ bỏ. Hiện hình
vào mỗi buổi sáng, nó gầy rộc, hệt như những kẻ bị biển cướp người thân, nhưng
trong Nhị chỉ có cảm giác bị qua mặt. Không phải mất mát.
Đôi lần nó phải
chỉnh vẻ mặt mình, sao cho thật sự giống kẻ mất chồng. Nhưng sẽ không
tránh được xao lãng, như đi qua chỗ người ta trưng hải sản tươi sống trong bể
kiếng, Nhị nghĩ tụi này đắt phải biết, và việc nhận ra một vài con số thay đổi
trong thực đơn quán ăn đã kéo Nhị ra khỏi sự tập trung vào cú biến mất của chồng,
“Nay cuối tuần,
hèn chi họ mài máy chém”, không nén nổi, Nhị thở hắt ra.
Những thời khắc
kiểu vậy làm Nhị hơi hổ thẹn, chồng vẫn chưa tìm thấy, mình đang đứng trước cái
tang lớn của đời, sao có thể để đầu óc vào chuyện không đâu. Một lần, Nhị đã co
chân sút trái banh đang lăn về phía mình trả về phía tụi nhỏ đang chơi. Rồi hoảng
hốt nhìn quanh sợ ai đó bắt gặp hành động không phù hợp với hiện thực vấn khăn
xô này.
Người bãi Côi
xui hãy thắp nhang khấn vái cho linh hồn kia sống khôn thác thiêng dẫn thân xác
tìm về, rốt cuộc khói không tới nơi. Hoặc vì lúc cắm những chân nhang lên cát,
Nhị mỉa mai nghĩ thứ này với người sống thì có tác dụng gì.
Phải không,
buổi tối đó chồng đòi đi biển chơi cho bằng được, chỉ là bốc đồng ? Chồng chắc
lưỡi nói biển gần vậy mà không ra tắm cho đã, không phải quá uổng sao. Lúc đó
họ ở gần ngã ba Bù Mắc, rẽ trái là con đèo dẫn về nhà, biển ở bên phải cách đó
non ba mươi cây số. Mọi thứ đang đứng về phía ham muốn bất chợt của chồng, dãy
núi tối thẫm với con đèo không cao nhưng nhiều cua tay áo, vài chiếc miếu lạnh
cất bên miệng vực chỗ những chiếc xe trôi mang theo vài chục mạng người, đá ứa
ra thứ sương đục như sữa, đèn xe chập chờn lúc sáng lúc tắt ngóm không theo một
chu kỳ nào.
“Bởi cái thứ ăn
hại anh, phải đừng đi lạc thì đã tới nhà mấy kiếp”, Nhị rít lên cho dịu bớt cơn
thèm nện thứ gì đó vào gáy chồng. Nhưng Nhị chỉ có bó đậu đũa trong tay. Thứ
duy nhất Nhị lấy được từ nhà con nợ, sau chặng đường đi non trăm cây số. Biết
được mục đích của chuyến thăm, họ đã bày ra một màn kịch nheo nhóc. Đứa trẻ nhỏ
nhất treo bên vú tóp khô của mẹ, mỗi lần vuột mất lại khóc ngằn ngặt, hai đứa
lớn hơn đánh nhau giành nắm mì tôm sống, và gã đàn ông từng nhận xấp tiền từ
tay chồng Nhị thì nằm sốt, răng va vào lạch cạch vào răng.
Gói tiền đó bọc
trong tờ lịch nhét vào một cái bì thư, bên ngoài gói thêm tờ giấy báo, Nhị đưa
chồng đi đáo hạn ngân hàng. Anh ghé ngang quán nước, nghe gã thợ hồ than vợ đẻ
dưới quê mà không về được, phải chi kiếm được chút vốn mở tiệm tạp hóa lây lất
qua ngày, thoát cảnh chồng đông vợ tây, chồng vỗ đùi kêu cho mượn, tiền sẵn đây
rồi. Chiều đó Nhị nổi điên, anh không thấy có lỗi còn dậm chân bỏ ra vườn, nói
“cô coi trọng tiền hơn tôi”.
Phải không, từ
lúc đó anh đã lên kế hoạch một cuộc biến mất theo phương cách độc địa nhất,
khiến Nhị có khóc ra nước mắt thì cũng không thể phân biệt nổi đó là nước mắt
gì ?
Khuya của ngày
thứ bảy, Nhị thức giấc sờ mặt thấy ướt, tưởng mình đã khóc được trong lúc ngủ.
Nhưng chỉ là trần nhà nứt, dột ngay mặt Nhị. Mưa đêm.
Chỉ cơn nước
trời tráng mỏng, sáng ra nắng nóng vẫn đặc quánh, cả gió cũng im. Mưa như là
cơn chiêm bao của mùa hè, tỉnh dậy chẳng dấu vết nào ngoài cơn váng vất. Lũ
ruồi kéo tới đông hơn, Nhị đi tới đâu khuấy cơn lốc đen tới đó, đôi khi nó còn
chọc vào đống vỏ tôm du khách bỏ lại trên cát, như chồng đang núp trong ấy. Cái
vệt thương cảm sau lưng nó giờ đã tàn, chỉ mỗi bà già bán vòng chuỗi hạt ngọc
trai còn chắc lưỡi thở dài, ‘tội nghiệp, hồi tới đây có đôi mà giờ còn lại mỗi
mình”. Buổi tối hôm bọn Nhị tới, chóng mặt bởi rừng khách sạn chong đèn, đã ghé
hỏi bà già ở chỗ nào thì rẻ.
“Cái thằng
thiệt cao ráo, vậy mới uổng chớ”, bà già xác nhận mỗi khi có ai hỏi về người
mất tích. Đó là người thứ hai chứng thực là chồng Nhị từng tới đây, ngoài lễ
tân khách sạn. Không thì cái thân xác nặng sáu mươi tư ký đó trở nên vô hình,
chưa từng tồn tại. Anh đội phó đội cứu nạn, sau những ngày vớt bọt nước, có lần
ngó Nhị với ánh nhìn một con bịnh hoang tưởng,
“Có chắc là
chồng cô đã tắm ở bãi này không ?”, anh hỏi, “Nhiều người nói thấy cô chỉ có
một mình, sáng đó”
Nhị không xuống
tắm. Nó lót dép ngồi trên bãi cát vừa qua cơn co thắt bởi thủy triều, ôm bộ đồ
tây của chồng trong lòng, sợ ngấm ướt. Nắng hè nhễ nhại trên những cơ thể trơn
mịn treo hờ hững hai mảnh vải nhắc Nhị nhớ vết sẹo bỏng chảy từ vai xuống giữa
lưng hồi mười tuổi, và vô số vết hằn của roi mây, vắt ngang thân suốt từ lưng
đến tận đùi. Dù chồng nói sẹo roi là Nhị ảo giác thôi, chúng không ở đó. Rồi
anh nảy ra cách chữa thương càn dở là liếm cho liền những vết vô hình. Lưỡi
chồng nhiều gai, ướt mềm, Nhị chừng như quên.
Nhưng biển nhắc
nó nhớ những lằn roi. Giống như biển nhắc mấy người đàn bà đang ngồi xa xa ngó
chồng con đi giỡn nước rằng họ thảm hại quá chừng với làn da cháy cóc cáy,
những chỗ nứt rạn sau sinh, những thân hình hoặc phị mỡ hoặc lép xẹp, những sẹo
vết không đếm hết. Dè bĩu mấy cô gái ngang qua mặc đồ tắm chi mà nhỏ xíu, “chủ
yếu để khoe thân”, họ còn không nhận ra cơn thèm muốn được hóa hình vào dãi
thân thể nuột nà kia, uốn lượn giữa biển xanh với hàng trăm con mắt ngó.
“Tắm biển hơn
tắm ao ở bộ đồ hai mảnh đó”, chồng lim dim nói lúc ăn bữa sáng. Anh đã
bắt chuyện với một cô gái khi Nhị qua đường mua bánh mì. Nhìn theo dãi thịt da
nâu bóng vừa kịp bắt sáng đã tan dần trong sóng, giọng chồng rành rẽ, “Sắp bốn
mươi rồi đó, chồng bỏ, cổ buồn tình đi biển chơi”
Nhị nghe như
không, cố nuốt mẫu bánh mì chẹn ngang họng, tan nát bởi viễn cảnh chút nữa đây
trở về nhà tay không, món nợ vẫn xa vời và những cuộc điện thoại từ ngân hàng
gọi tới. Và sầu riêng sau vườn vẫn rụng ngay khi chưa đầy múi, rụng miệt mài,
đêm ngày, suốt hai mùa nay, đến chiêm bao Nhị cũng thấy sầu riêng rụng, và mẹ
nó hả hê, “thấy chưa, đã nói rồi mà”.
Buổi tối lại
sau khi chồng biến mất, nhận ra lúc mình chạy đi tới văn phòng cứu nạn, quần áo
chồng đã biến mất, Nhị mới tự hỏi sao trong khoảng thời gian chóng vánh vậy,
chồng nói về người phụ nữ kia thao thao như quen biết lâu ngày. Phải không, đó
là lần đầu tiên họ gặp nhau ?
Những câu hỏi
tựa sóng, cao lút đầu, vỗ mãi vào người Nhị.
Nguyễn Tư