tặng độc giả thầm lặng N. Nguyen
Tôi đeo sac à dos sau lưng. Ra đi phải mang ba-lô, quần áo cứ thế chêm vô.
Tôi mua một vé đi métro lắc lư chạy tới bến xe đò, tự hỏi mình về nguồn gốc chữ
ba-lô. Vì sao lại Tây ba-lô nhỉ? Có Việt ba-lô chăng? Lắc lư con tàu đi. Tàu ấy
là tàu hoả, tàu điện hay tàu thuỷ? Trên đất hay dưới nước? Chắc chẳng phải là
tàu bay lượn trên không trồi sụt những mây chập chờn.
Đi về những địa phận khác thì có lắm người sắp hàng, riêng quầy bán vé Québec
thì tôi là người đứng thứ ba, sau một bà già và sát cái va-li to tướng của một
trung niên râu ria xồm xoàm. Khứ hồi hay sao? Người ngồi sau tấm kính hỏi tôi.
Không, vé lẻ. Tôi trả lời và đút ba tờ 20 vào cái vòm cung khoét dưới tấm kính
ngăn chia. Số bạc lẻ mà người mặc đồng phục màu xanh vừa thối cho tôi không
chắc sẽ mua được một ly cà phê. Dầu gì thì chất nước không dùng để giải khát ấy
là thứ mà tôi cần dung nạp. Bạn thấy đó, ở sân ga, ở bến tàu, ở sân xe đò, ở
phi trường, kẻ lữ thứ thường dùng cà phê để đè nén bao bồi hồi, lắm xúc cảm.
Lại phải đối mặt với cô hàng cà phê: Lớn? Trung bình? Nhỏ? Tôi nhìn mặt hoa da
phấn đang được tẩm hương thơm không phải cứt chồn. Trung bình, xin vui lòng. Và
phụ chú thêm: Loại dark, strong. Plus fort possible. Đắt đỏ quá. Cà phê ở bến
xe thường không mấy ngon, nhưng họ có lý do chính đáng để bán giá khác thiên
hạ. Sắp lên đường mà, chín bỏ làm mười đi mà, phân bì kiện tụng đưa ý kiến làm
gì cho ngày mất vui, sir!
Mông-xừ lạ mặt ôm ly cà phê đi ra ngoài trời. Trời nắng, thứ nõn nà của
dương quang vừa thức giấc. Lá cây xanh biếc cũng bừng tỉnh, đêm qua hình như
sương có về. Không gian dựng đặt một hình khối hư ảo, nó khiến tôi nhớ Hàn Mặc
Tử: Sao anh không về chơi thôn Vỹ? Xa xứ lạc bước đến nơi này, tôi vẫn xem
Québec là một thôn Vỹ tưởng tượng dù có thắp đuốc hai hàng cũng chẳng tài nào
ngó ra một ngọn cây cau, một hoa bắp lay bên sông có dáng con đò sẵn lòng chở
ánh trăng về đúng với hẹn thề.
Đây về thôn Vỹ mất hơn ba tiếng, chưa kể dọc đường phải dừng ba nơi để đổ
người xuống đón khách lên. Liên tỉnh lộ thênh thang, hút mắt những cánh đồng
không biên giới ẩn hiện những căn nhà tạo ra từng vệt màu nóng trên bức tranh
thẫm xanh làm trôi bớt sự buồn tẻ điệp trùng. Một đàn bò ơ hờ gặm cỏ, đôi ba
con ngựa chạy loanh quanh. Những chiếc máy cày được phủ bạt và đàn chim đậu
trên dây chùng trông như những nốt nhạc chưa hoàn thiện, khó trỗi nên cung bậc
du dương. Tất cả câm lặng vì xe đò dường như có trang bị hệ thống cách âm. Ngay
cả khi lao thân dềnh dàng đi, tiếng động cơ cũng không việc gì phải gầm rú. Êm
ái, rù rì, dễ làm mắt ríu lại.
Tôi đứng lên với tay moi bọc hành lý để nhặt ra cuốn sách nhàu cũ mang tựa
“L’ile d’espérance”. Một kỷ niệm vàng úa Diane trao tay trước hôm từ giã
Québec. Diane là cô giáo dạy Pháp văn ở ngôi trường COFI, cánh cổng học đường
đầu tiên dành cho bọn di dân đa chủng tộc trọ trẹ ú ớ tấp vào. Cô tận tuỵ, chí
tình chỉ bày và hơn bốn năm chia lìa tôi chưa ngốn xong cuốn tiểu thuyết của
Erich Maria Remarque. Tôi đọc nhát gừng, chắp vá với cuốn từ điển Pháp-Việt tuy
vậy vẫn cảm được cái không khí tan vỡ, đố kỵ, lạc lõng, mất niềm tin mà tác giả
bày ra qua nhân vật Ernst Grâber, người lính trẻ được về phép từ mặt trận bên
Nga. Diane đã rào đầu tuy cùng một tác giả nhưng cuốn “A l’Ouest rien de
nouveau” hay hơn. Tôi thưa, hình như hồi còn ở quê hương, bậc trung học tôi đã
từng xem qua, dưới tựa “Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh”. Và tôi đã chết mê chết
mệt. Ở xứ tôi chiến tranh liên miên, ác liệt, gà cùng một mẹ đá nhau chết bỏ
nhưng chưa có ai đủ nội công để vẽ nên một cảnh sắc bạc tình vô lý đớn đau kèm
chút thơ mộng tựa Remarque. Xe đò mỗi lúc một thu ngắn dặm trường, Québec miền
Tây Bắc biết có yên tĩnh như ngày xưa?
Tôi không là một quân nhân Đức được hai tuần phép về lại thành phố tan hoang
bom đạn, tôi chỉ là một di dân mà Québec ngày đó đã mở ra cánh cửa đầu tiên,
rộng lòng đón nhận, dạy dỗ nuôi nấng. Cho cơm ăn, cho áo mặc và cho tấm lòng
vàng son của Diane thiết thân chia sẻ. Khác biệt không gian thời gian hoàn
cảnh, khác tất. Nhưng lạ lùng là tôi đang mang tâm trạng gần giống như Grâber,
hoài nghi chen lẫn bồi hồi. Nhân vật ấy về căn nhà cũ bị đánh sập, tìm bố mẹ
thất lạc ở trung tâm tiếp cư, ở nhà thương, ở trường học, thậm chí chạy ra
ngoài nghĩa trang để nhìn mặt từng tử thi. Còn tôi tự lục soạn trong đầu ra
từng địa chỉ, bốn năm hẳn đủ dài để Diane thay đổi số phận trên chính quê hương
mình? Tóc nâu luôn bối lên, cái ót nhiều lông măng, sợi dây chuyền đánh rất
nhuyễn để đeo một mặt ngọc xanh hình thể như một giọt nước. Nước rơi lưng chừng
giữa đường khe chia lìa đôi vú không mấy lớn, áo nịt ngực mang số A-34. Tiếng
Pháp mang nặng thổ âm, luôn nói chậm rãi cho các “trò” bắt kịp, thông hiểu. Tôi
mê đắm lời thơ Jacques Prévert khi Diane cất tiếng giảng về một bài học nằm
ngoài giờ. Alicante:
Une orange sur la table
Ta robe sur le tapis
Et toi dans mon lit
Doux présent de la présent
Fraicheur de la nuit
Chaleur de ma vie.
Bến xe đò ở Québec có nới rộng, sửa sang, nâng cấp. Một khách sạn 3 sao nằm
kề còn mới màu vôi, cờ tỉnh bang màu xanh nước biển in hình 4 bông huệ trắng
phập phồng ở đỉnh cột vắng gió. Việt ba-lô đứng với thân chao khi cảnh cũ ập
tới mang nhiều đổi thay. Từ đây về trung tâm thành phố nếu không dùng taxi thì
băng qua bên kia đường, vào lồng kiếng đợi chuyến buýt mang số 11 ghé ngang, và
tội gì phải gọi taxi. Xe buýt sẽ chạy vòng vo lắc léo ở các con đường, mất thời
gian một cách vô lối, phí phạm để đánh đổi một lộ trình bình thường chẳng quá
bốn lăm phút. Nhưng đã có hành khách là tôi đang mềm lòng hoài niệm, tôi muốn
nhìn lại đủ mọi góc cạnh về nơi chốn tôi dầm mình trong hơn hai năm. Dịu dàng
tươi mát trong đêm và cuộc sống tôi từng đón nhận sự ấm áp không diễn tả được
bằng lời.
Ngôi trường đã đổi thay bảng hiệu, Mái ngói bạc màu như ngân sách tỉnh bang
hết hào phóng nuôi dạy bọn người tứ xứ. Tốn kém cả trăm điều, bạn nên hiểu cho.
Hỏi về một cô giáo tên Diane, tầm 40 tuổi, cao 1m 70 nặng 52 ký là chuyện bất
khả. Chúng tôi không phải cảnh sát và nếu là police thì họ đề nghị bạn nên mang
theo một tấm ảnh, mất chừng non tháng, hy vọng thế, chúng tôi sẽ tìm ra một
bóng chim tăm cá. Cây xăng nằm ở góc đường vẫn chưa di dời. Tiệm tạp hoá gần
bên cũng mang diện mạo loè loẹt như cũ. Một nhà giữ trẻ đối mặt với “kẻ thù”
muôn đời có sức thu hút những đứa đầu xanh vô tội: McDonald’s. Tôi từng được nhận
vào đó làm người phục vụ đồ ăn nhanh có mặc đồng phục tươm tất. Chỉ đúng một
tuần vì trình độ giao tiếp với khách hàng của tôi quá thấp. Đang học tiếng Pháp
và tiếng Anh thì đi đong kể từ hôm người bạn đồng minh nhẫn tâm tháo chạy. Nghe
tôi bị đuổi, Diane an ủi theo cách của cô: Toi bị từ khước tới 10 lần thì đến
lúc đó mới có cảm nhận đúng đắn về một cuộc sống xa lạ. Đừng nản, niềm tin là
thứ chúng ta không thể để vuột trôi. Yêu một người cũng thế. Đam mê hoặc niềm
tin đôi khi là hai chân phải trái mỗi ngày bạn cất bước xuống đường. Dọ dẫm rồi
sẽ có lúc vững chải.
Tôi chẳng thích quan điểm của Diane, tôi không trang bị niềm tin nào cả. Cái
tôi cần là một công việc và được trả lương mỗi thứ năm hàng tuần. Ba ngày sau
tôi vào xin việc ở quán ăn có tên gọi lạ thường: “Con Mèo Bị Cảm”. Chủ quán
người Ý, đã ba đời cắm dùi mưu sinh ở đây. Ông nheo mắt ngắm tôi: Ông nội tao
khởi nghiệp bằng nghề rửa chén lúc 19 tuổi, 25 thì phụ bếp. 32 thành bếp trưởng
và 45 tuổi ổng mở ra cái nhà hàng này. Mày tin không? Rửa chén thời buổi này
sướng thấy mồ, có máy phụ đỡ một tay…Tuần lương đầu tiên tôi nhận được trong
đôi tay bắt đầu biến dạng. Hai bàn tay đã tự nó đoạn tuyệt với giấy bút. Nước
nóng, dầu mỡ, xà phòng, thuốc khử trùng, bùi nhùi, lọ nồi mãi bày binh bố trận
để tôi ngập đầu vật lộn trong ma mị. Tôi bắt đầu quen miệng chửi thề, những từ
ngữ mà chính Diane cũng không thông hiểu về nghĩa đen, nghĩa bóng. Tabarnak,
chữ ấy làm gì có trong tự điển Larousse. Và dường như nó dễ phát âm hơn chữ Je
t’aime.
Chân mỏi dừng đứng ở một ngả tư, lòng đang phân vân tôi chợt ngó ra một tấm
bảng hiệu. Tấm bảng thật xấu, từ màu sắc cho đến cách đặt để những con chữ lộn
xộn. Nhưng vì xấu, nó phô bày một sự gợi mời. “Quán Đồng Hương. Đặt Biệc PHỠ”.
Một thương hiệu lạc loài, nó chẳng màng lỗi chính tả. Miễn bà con cô bác hiểu
điều chúng tôi muốn nhắn nhe là vui rồi. Tôi vui chân băng qua đường. Dạo tôi
còn ở đây, thành phố chỉ có duy một cái chợ thực phẩm Á Châu nhỏ xíu, điều này
gây khó khăn không ít cho ai kia nuôi mộng mở quán ăn đậm đà bản sắc dân tộc.
Phỡ này chẳng biết có giống món Phở đặc thù của người Việt? Không cứ là ban
đêm, đôi lúc ban ngày nhà ngói cũng giống như nhà tranh vậy! Và bạn tin không,
vàng thiệt gặp lửa cũng phải sợ. Thứ gì mà chẳng ngán bà hoả. Ba má tôi mất sau
75, ông bà nói: Thà mà bị cháy nhà cho cam! Chiến tranh ròng rã mấy chục năm
không sứt mẻ, đợi hoà bình tới mấy ổng ngang nhiên vào soán đoạt căn nhà dấu
yêu kia. Khi không mà mình trở thành kẻ đầu đường xó chợ, và quy luật khách
quan đã diễn ra, song thân tôi chết không nhắm mắt dưới tấm khẩu hiệu “độc lập,
tự do, hạnh phúc”. Tôi hằng tin những kẻ “Việt ba-lô” như tôi sống tản mác ở
bốn phương trời cũng do 6 chữ vàng ấy xua đuổi đi (một đêm không trăng sao).
Quán không có thực khách, có hai cô gái ngồi cuốn chả giò, vừa làm việc họ
vừa trao đổi về một cơn lụt lịch sử đang tác hại ở quê nhà. Giọng họ thật thản
nhiên khi nói tới sự tổn thất quá lớn, nhân mạng, trâu bò gà vịt, mùa màng cũng
như nhà cửa bị nhấn chìm trong mưa lũ. Tôi hiểu điều gì đã khiến lòng họ nguội
lạnh khi nhắc về chốn xưa. Họ sẽ giỏi tiếng Pháp hơn tiếng mẹ đẻ, họ sẽ “merde”
nếu tôi bảo chữ phở nên là dấu hỏi hơn dấu ngã. Lớp người họ thuộc loại thịt ba
rọi. Đành vậy, nửa nạc nửa mỡ.
Ai đã đan tâm lấy đi một nửa thịt nạc của họ vậy? Và tôi, xương thịt này
cũng là một thứ tái nạm gầu đó thôi.
Mấy người ạ? Một cô đứng lên khi thấy tôi bước vào. Chao ơi, phải mà tìm ra
cô Diane nhỉ? Hai người. Chưa khi nào tôi nói được chữ đó. Tôi đã đánh rơi lời
thề, rằng có ngày sẽ tự mình nấu cho cô ăn món bún bò. Tôi không trông mong
đâu. Diane nói, rửa chén ở đó thì bất quá bạn chỉ nấu được món spaghetti là
cùng. Dạ, chú thích ngồi ở đâu cũng được ạ. Tôi nhìn quanh và tôi đến ngồi dưới
một bức tranh vẽ cảnh đò trôi trên sông với bóng chiều tà. Một bức tranh thuộc
dạng “bờ hồ”, có nghĩa là chẳng mang chút nghệ thuật nào ở đấy cả. Vẽ là vẽ vậy
thôi, bất biết những điều cơ bản cần có khi gia công. Mặt bàn có vuông kính
dày, tấm thực đơn được ép mình bên dưới. Chú ăn gì ạ? Tấm màn sáo ngăn chia
được vén mở, một người đàn bà từ sau bếp hiện ra ở đó, có lẽ vì nghe tiếng chào
hỏi khách. Tôi nhìn bà ấy, mường tượng chính bà là người chèo đò trên giòng
sông trôi xuôi về hoàng hôn. Đò chưa tấp bờ đã vội xắn quần leo vào triền cỏ.
Cỏ lưa thưa, mọc cao thấp chút nhớ chút quên. Chút hoài nghi chút xác tín. Tôi
đang tự giận mình khi nghĩ mãi vẫn chưa nhớ được một danh xưng. Soan, đúng là
Soan, S chứ không phải X. Hoa Soan chớ không là hoa Xoan. Học chung lớp với tôi
và theo như cách đánh giá của Diane: Một học trò kém!
Soan trông có già đi, bằng chứng là gương mặt ấy đã nương nhờ vào lắm mỹ
phẩm, hoặc thời mới sang chưa có tiền để “nâng cấp” mặt mày? Soan đang vận dụng
bộ nhớ, một học trò kém không hẳn là kẻ luôn nhớ trước quên sau. Cách Soan biểu
lộ sự ngạc nhiên khiến hai cô gái phải sớn sác chú mục tới vị khách không mời.
Săm soi, dọ hỏi, hoài nghi. Tôi ngồi ở cái bàn có hai ghế, một ghế tôi đặt đít
và ghế đối diện chễm chệ cái ba-lô. “Ra đi không mang ba-lô, quần áo cứ thế cắp
nách”, đó là ngày tháng cũ của một thằng người vượt biên, thậm chí nó chẳng có
gì để cắp nách ngoài một nỗi sợ hãi về canh bạc cầm chắc sự thua lỗ, từ chết
tới bị thương đếm không xuể, canh cánh bên lòng. Đến được bờ bãi tự do, chí ít
hắn phải nên sắm một cái ba-lô để đi đây đi đó (ở nhà với mẹ biết ngày nào
khôn!). Muốn ngồi chung bàn với tôi Soan phải kéo lê một chiếc ghế lại gần. Ôi,
lâu ngày quá! Bấy chầy phiêu bạt nơi đâu? Đã lập nên công trạng gì chưa?
Tôi nhìn Soan, thầm nghĩ là mình yêu cái tên ấy quá. Tôi cũng yêu khuôn mặt
trái soan của Diane. Chẳng biết hoa soan có đẹp không? Và hương mùi nó mang có
đằm thắm?
Tôi vui lòng trả lời tất cả những vấn an của Soan, để đáp lại tấm thịnh tình
tôi chỉ hỏi duy một câu: Có phải bà là chủ nhân quán này không? Giọng cười của
Soan vỡ ra, phải nhiều nội lực mới tạo được một chất lượng tựa thế. Giọng cười
quyền uy của một bà chủ. Gọi thức ăn chưa? Uống bia nhé? Mình đón mừng cuộc hội
ngộ. Tôi ngắm người thiếu phụ học chung khoá Pháp văn kéo dài trong bốn tháng.
Chỉ cần quen biết trong ngần ấy tháng ngày, tình cờ khi gặp lại, người đó sẵn
lòng khao đãi bạn và gọi “đón mừng cuộc hội ngộ”. Tôi cảm động: Hồi nào quán
cần người rửa chén đổ rác nhặt rau thì nhớ gọi tôi nhé. Tôi giàu kinh nghiệm
việc ấy, nhớ không?
Soan đánh vào vai tôi: Mình không biết đùa, ghi số điện thoại trước rồi sẽ
ưu tiên giải quyết cho. Quán đang cần sự góp tay của đàn ông.
Tôi đùa, được làm việc ở đây thì xem như lập được công trạng rồi, “đi đâu
loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Nhạc trong quán vừa trỗi bài hát ấy và tôi bè
theo. Soan sửa thế ngồi: Tin được mấy phần? Lặn lội về đây có mục đích chi
không? Tôi nắm lấy chai bia ướp lạnh mà cô tiếp viên vừa mang ra: Uống nước nhớ
nguồn, tôi về thăm trường cũ, thăm cô Diane. Họ tốt với mình quá. Soan vẫy tay
làm hiệu, người con gái đang cuốn chả giò ngưng công việc để tiến lại gần. Ngồi
tiếp chuyện với chú này đi, tao lui sau lo ninh nồi phở cái đã. Con Trúc này là
học sinh sau cùng của ngôi trường vắn số ấy.
Soan đứng lên Trúc ngồi xuống. Tóc che nửa mặt khi Trúc chùi những ngón vào
cái tạp dề ca-rô xanh trắng. Tôi hỏi: Trúc có học với cô Diane không? Không,
khi cháu vào học thì cô ấy vừa thôi dạy. Trường có tổ chức một buổi tiệc nhỏ
với sự đóng góp của các học viên, tự mang lại, giới thiệu những món ăn đặc sản
của quốc gia mình chung vui làm bữa tiễn đưa cô Diane. Trúc có biết lý do cô ấy
nghỉ dạy? Nghe nói cô bị bệnh nặng, cô muốn về sống gần gia đình. Là rời khỏi
Québec? Dạ, ba má cô ở phía cực bắc. Họ mang hai giòng máu, một nửa của thổ dân
giống như người Esquimau vậy. Bộ chú không biết sao?
Tôi uống hết chai bia, hèn gì gương mặt Diane luôn thu giữ một nỗi buồn trầm
lắng, lôi cuốn. Chút hoang dại cọng với niềm u ẩn ta thường nhìn thấy đọng
chiếu trong những cặp mắt của những người không thích hoà mình vào văn minh
thành phố. Họ khép kín, họ sẽ hân hoan chừng nào họ bắt gặp một khoảng trời
rộng cho dầu trắng toát bạt ngàn giá băng. Tôi hiểu do đâu Diane luôn rộng lòng
với những người di dân, những kẻ tị nạn như tôi. Cô hạnh phúc khi còn có chốn
quay về, cô thương tôi vì tôi từng là đứa vô tổ quốc. Hắn đang ngồi trong quán
Phỡ sai lạc dấu và hắn biết đã thực sự vuột mất cô. Hắn chưa đọc xong cuốn “Một
thời để yêu một thời để chết” mà cô trao tặng nhưng hắn ngầm hiểu cái kết thúc
bi thảm buộc phải tới của tác phẩm đó.
Không ăn phở vì nghĩ là món ấy dở, tôi gọi dĩa cơm sườn bì chả do đích thân
Soan động dao động thớt. Tôi thương những giọt mồ hôi rịn ướt ở chân tóc Soan
khi cô mang ra cái đĩa lớn một cách cực đoan. Tôi đùa: Món Sà Bì Chưởng của
Soan thâm hậu quá, ăn tới mai vẫn không vơi bớt sáu phần hoả hầu. Cho mình gửi
tiền. Tầm bậy. Soan nạt. Biết có còn nhìn thấy nhau bận sau mà vẽ vời. Chúng
tôi ôm nhau một lát như ngày cuối kết trúc khoá học để mỗi người một hướng lìa
xa. Ngày ấy Soan có hôn bên má tôi nhưng hôm nay thì không. Cô hỏi: Bây giờ vác
ba-lô đi đâu? Phía Bắc mênh mông chi xứ biết đâu mà tìm. Thôi cứ thu cất một kỷ
niệm đẹp, gặp lại người xưa thêm buồn vì người xưa đang thập tử nhất sinh. Tôi
đánh liều hôn vào môi Soan, chỉ để ngăn Soan đừng nói. Soan xô tôi ra: Bậy bạ
quá! Hồi nào hết đường đi thì trở lại đây, chắc chắn là không cần người rửa
chén đâu.
Tôi cúi đầu. Thấy cái ba-lô không dưng nặng quá. Tôi sẽ trở lại một ngày xấu
trời nào đó, việc đầu tiên tôi sẽ bắt thang lên nhúng cọ vào lon sơn để viết
lại chữ Đặc Biệt Phở kẻo chúng bạn cười, khi dễ Việt ba-lô. Tôi sẽ lùng sục vào
internet, đăng tải một lời cầu mong: Muốn gặp lại cô Diane bất kể cô ở ngàn
trùng cách biệt. Quý vị nào hay tin xin chỉ bày, thành thật cảm ơn.
Tôi ra bến xa đò. Đi Montréal. Một vé lẻ. Xin vui lòng. Tôi mua một cốc cà
phê. Hoàng hôn đổ xuống trên Québec nhiều bóng tối. Tôi sẽ về tới chốn tôi
nương náu lúc nửa khuya. Mùa hè vẫn có từng cơn gió lạnh chạy vụt qua. Qua
nhanh hơn cả mộng mị. Nhức buốt. Québec, Je me souviens.
Hồ Đình Nghiêm