Từ trái: Trương Văn Dân và Trần Hữu Hội (1955-2018)
(Nhà văn Trạch-An Trần Hữu Hội vừa vĩnh biệt trần gian ngày 7/5/2018 tại
Sài Gòn.)
Tôi gặp Trần Hữu Hội lần đầu là trong một buổi tối thật buồn: một bạn văn của
chúng tôi, nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh vừa nằm xuống và đêm đó anh em Quán Văn
đang tổ chức một buổi tưởng niệm đọc thơ văn để sáng hôm đưa tiễn anh về nơi an
nghỉ cuối cùng.
Khi tôi và Elena thắp nhang trước linh cửu và bước ra cửa thì thấy một người
đàn ông gầy gò, chống nạng đứng hút thuốc, khép nép sát bức tường. Tôi nhìn anh
mỉm cười, hỏi anh là bạn hay là người thân của anh CTNM. Anh đáp “bạn, mà như
em!”. Giọng anh thật khẽ khàng, không biết có phải còn e dè với người lạ hay
không muốn kinh động cái không gian nhuốm màu tiếc thương của người vừa rời cõi
tạm. Nói xong anh rít một hơi thuốc thật sảng khoái và tôi nhìn anh, cười lần
nữa, và lúc này tôi mới thấy người đàn này có khuôn mặt phúc hậu và nụ cười
thật hiền. Và tự nhiên trong tôi phát sinh một thiện cảm đặc biệt.
Trò chuyện một lát, biết anh cũng làm thơ và viết văn, câu chuyện của chúng tôi
trở nên thân mật và cởi mở. Đúng là văn chương xóa mờ ranh giới và giúp con
người vượt qua các rào cản.
Đang nói chuyện với Hội thì thấy ở góc phía bên trái cửa ra vào xao động. Có
mấy người đứng lên và di chuyển. Tôi nhìn ra thì thấy Lê Hữu Khóa, mồ hôi nhễ
nhại và khuôn mặt mệt mỏi đang từ taxi bước đến. Khóa là giảng viên trường Đại
học Charles-de-Gaules – Lille 3 ở Paris, là người mà một năm trước đó cùng
người bạn thân của tôi là bs Thiện đã đứng ra mời và xin visa cho đoàn Quán Văn
“cõng văn chương qua đất Pháp”. Khóa vừa tham dự các buổi tọa đàm khoa học ở
các trường đại học trong thành phố và tranh thủ đến thắp nhang cho bạn vì sáng
hôm sau còn có một cuộc họp rồi trưa là bay về Paris. Tôi đến chào Khóa và cùng
các bạn QV trong đoàn trao đổi một lát, vì sau đó là anh phải vội đi.
Nghi lễ và tưởng niệm cho anh CTNM xong thì tôi quay lại chỗ Hội. Nói chuyện
một lát thì tôi mời anh đến tham dự các buổi ra mắt Quán Văn tổ chức hàng
tháng. Anh vui vẻ nhận lời và khi từ giã anh có tặng tôi 2 bài thơ “anh về đọc
cho vui!”.
Sau đó tôi và Hội thường gặp nhau ở các buổi ra mắt Quán Văn. Tuy không phải
lần nào Hội cũng tham dự được vì anh đi lại khó khăn, có những lần sức khỏe
không cho phép nên anh đành ngồi nhà tham dự hàm thụ qua các trang
phóng sự ảnh của bạn văn Đặng Châu Long trên Facebook. Gặp nhau không nhiều
nhưng anh rất được anh em quý mến. Rồi sau khi anh ra mắt tập truyện đầu tay
“Hạt Mầm trót vay” ở café Thủy Trúc thì anh đã trở thành một thành viên thân
thiết trong gia đình Quán Văn. Nhiều lần tôi quan sát anh bắc ghế ngồi gần khán
đài để phụ trách âm thanh cho buổi họp và nụ cười hiền lành luôn nở trên môi.
Biết Hội sống trong tình yêu thương đùm bọc của gia đình và sự quý mến của
bằng hữu văn nghệ nhưng những lần gặp, trong ánh mắt và nụ cười vui hiền hậu
của anh tôi vẫn cảm nhận có một cái gì đó, ẩn khuất mà như có hằn lên những nếp
gấp, có lẽ là của nỗi niềm tâm trạng hơn là dấu tích của thời gian.
Nỗi niềm đó tôi chỉ hiểu khi đọc những trang viết về tuổi trẻ của Hội. Nó
chẳng khác của mọi người là bao, vì đó là thân phận, chung, của những người
Việt Nam sinh ra trong thế hệ chúng tôi. Chiến tranh. Hợp tan. Chia lìa. Mất
mát. Chỉ có điều là Hội nhạy cảm hơn, nên “vết hằn” cũng vì thế mà in sâu.
Nhuộm vào trong mắt, như lúc anh đành đoạn chia tay những quyển sách mà mình
yêu quý:
“… Mẹ bán luôn đi, con cũng đã đọc những cuốn này rồi.
Bữa cơm trưa có thịt bò nhờ mấy cuốn sách nặng ký, ông thầm nghĩ: bữa ăn
gồm: Văn học Nga, Ấn độ, Ả rập, Việt nam và Mỹ mà không thịnh soạn sao được!
Ông cười, gắp miếng thịt bò bỏ vào chén mẹ:
– Thịt bò ngon quá mẹ ạ, mẹ cùng ăn chứ sao con ăn hết được!…”
Miếng thịt đó chắc đã làm anh nghẹn. Văn chương đổi thịt: “Ông muốn cúi
đầu tạ lỗi, tạ lỗi với những ai đã viết, đã dịch, đã bỏ công sức làm nên những
cuốn sách!”
Nỗi buồn đó chắc còn có vị cay!
Vị cay và chua chát ấy âm thầm, nhưng dai dẳng kéo dài theo chiếc thập giá
đời anh. Hơn 10 năm trước anh bị cắt chân phải vì bệnh “tắc động mạch chi”.
Tưởng sẽ yên thân với cái chân trái và cặp nạng nhưng dường như định mệnh chưa
cho anh ngơi nghỉ và những ngày gần đây anh thường phải đến bệnh viện cấp cứu.
Tình trạng ngộp thở, đau tức vùng ngực xảy ra thường xuyên và mới đây các bác
sĩ còn xác định anh bị suy tim độ III, có “kèm” thêm món quà viêm phế quản!
Khi biết về đoạn đường đời của bạn, tôi không mấy ngạc nhiên khi đọc trong
đoản văn Thập giá phận người của anh:“Những năm sống chưa có tai
ương nào đến với mình, tôi nhìn cuộc đời của những người xung quanh… mà băn
khoăn có hay không định mệnh của một con người. Từ khi cầm bút, băn khoăn ấy
vẫn không thôi hiện hữu trong tôi. Những truyện ngắn tôi viết phần nhiều là thể
hiện băn khoăn ấy.”
Và có lẽ vì tai ương đến với anh dồn dập nên anh biết là mình không thể làm
gì khác hơn là đón nhận. “…Nếu không chết, thì mọi tai ương đều là hồng
ân.” Và dù có thế nào, mệt mỏi, đớn đau nhưng ngày nào còn sống anh sẽ còn
cầm lấy bút, vui với mọi người, gia đình và bè bạn: “Tôi vẫn tạ ơn đời, tạ
ơn Tha nhân…” Đọc lướt qua, dễ tưởng đó là câu nói bi quan, nhưng ngẫm lại
thì đó mới là sức mạnh tinh thần hiện hữu trong anh: đón nhận, nhưng không đầu
hàng. Niềm vui từ gia đình và bằng hữu chính là điểm tựa để anh sống và viết.
Tuy không phải là người theo đạo Phật nhưng những trang viết đầy tính nhân
văn của Hội và các câu chuyện anh viết đều ảnh hưởng sâu sắc từ thuyết nhân
quả, duyên nghiệp trong Phật giáo.
Thử đọc trong tập truyện “Hạt Mầm Trót Vay” phần lớn các truyện viết đều các
này hay cách khác, luôn có hàm ý để gieo vào lòng người cái chân lý có vay có
trả, vừa như nhận định, vừa như nhắc nhở nhẹ nhàng là hãy sống tốt cùng nhau vì
không ai thoát khỏi quy luật này. Người đọc dù có lơ đãng cũng dễ nhận ra, là
trong những hoàn cảnh tưởng chừng như không lối thoát vẫn tìm thấy một hạt mầm
đang cố vươn lên mà sống.
“Mỗi con người tồn tại trong thế giới này, phải chăng là những hạt mầm,
được định mệnh vay mượn từ hư vô, gieo ngẫu nhiên vào trần gian làm nên những
số phận buồn đau, hạnh phúc…Rồi một sớm mai kia, bỏ lại sau lưng những hoan
lạc, ưu phiền của cõi nhân sinh, trở về đâu đó trong vô cùng.” (Truyện
ngắn: “Số Phận”)
“Văn là người” và đọc những chuyện của anh cứ tưởng như đang ngồi nghe anh
nhẩn nha kể chuyện, thỉnh thoảng điểm thêm những nụ cười rất hiền. Ai gặp anh
một lần là không thể quên nụ cười ấy. Nó như một nụ hoa tình người nhú lên từ
hoang tàn đổ nát, lòng nhân hậu làm lòng ta dịu đi một lát trong thế giới bất
toàn. Ai biết đón nhận, người ấy sẽ bình an. Vì trở lực lớn hơn ta gấp triệu
lần. Ta không thể thay đổi được thế giới, mà chỉ có thể thay đổi cách nhìn:
“Anh nghĩ ngợi: Khi đã trót mang thân phận con người, ai cũng có một
thập giá, thập giá nào cũng nặng như nhau, nhưng tùy vào thái độ tiếp nhận của
người phải mang thập tự ấy, sẽ làm cho nó nhẹ bớt đi hay là nặng nề thêm…”(truyện
ngắn “Giáng sinh” )
“…Mọi sự theo duyên mà đến, mọi sự theo duyên mà đi…”
“… Con ạ, Duyên- Nghiệp trùng trùng, chớ băn khoăn. Quá khứ thì đã
qua…đừng vọng tưởng sinh phiền lụy. Con và vợ, con của con, chưa đủ duyên nên
ly tán, khi đủ duyên ắt sẽ hợp.” (Truyện ngắn: “Duyên-Nghiệp”).
Với một nhân sinh quan như thế, Hội đã truyền được năng lượng bình an đến
những người thân, giúp họ an lành, trong một tuyện ngắn viết như tự truyện:
“…Thùy vuốt ve phần chân cụt của Thủ qua lớp băng, nói trong nước mắt:
– Ngày mai là Giáng sinh, anh đã không chết, mất một cái chân mà được
sống cùng nhau, cùng các con… may mắn lắm rồi anh ạ!
Thủ ôm ngang lưng Thùy:
– Ừ, anh cảm ơn em, cảm ơn em!
…
Ngoài kia, tiếng còi xe cấp cứu vọng vào phòng, Thủ lại nghĩ và nhận ra
rằng:
“Nếu không chết, thì mọi tai ương đều là hồng ân. Vâng, lâu nay anh đã
sống chan hòa với tha nhân, từng đón nhận khổ đau và hạnh phúc từ cuộc nhân
sinh… bằng tâm hồn của mình chứ không phải bằng đôi chân…” (truyện ngắn “ Giáng
Sinh” )
Phần lớn những trang văn của Hội đều được viết nhẹ nhàng như kể lại những
hoàn cảnh mà anh từng nghe, từng chứng kiến trong thời anh sống. Nguyên mẫu có
thể là hình bóng của chính anh hay những người thân, có khi là hình ảnh tổng
hợp của những người anh biết, dĩ nhiên những tên tuổi, cá tính và tính cách
nhân vật bị hoán đổi, trộn lẫn, để khi đọc chính họ cũng không thể nhận ra
mình, mà chỉ thấy… quen quen.
Với cách nhìn của một tâm hồn nhạy cảm, biết yêu vẻ đẹp của ngôn từ, anh cầm
lấy bút và viết nên những câu chuyện mà nét chung là hiền lành, nhẹ nhàng, tinh
tế. Không đao to búa lớn và bằng câu chữ mộc mạc, anh nhởn nha viết, chia sẻ kỷ
niệm buồn vui về mảnh đất quê hương mà anh yêu mến. Giọng kể có lúc thiết tha
nhưng cũng có khi chua chát, bất bình về thế sự nhưng không hằn học, dù bản
thân đã từng là nạn nhân trực tiếp. Thâm trầm có lẽ là một thứ bản lĩnh mà Hội
đã được rèn luyện qua sự từng trải và chiêm nghiệm bản thân.
Hội là người rất yêu văn chương và tôi tin là anh sẽ viết và viết mãi. Mỗi
lần thấy bài của anh trên QV tôi thường nhớ đến câu nói của nhà thơ Pablo
Neruda: “Với tôi, viết là hít thở. Tôi không thể sống mà không hít thở và
tôi không thể sống mà không viết”. Đời đã gian truân, thế mà chừng 10 năm
nay anh còn tự nguyện vác thêm cái thánh giá bằng bút để trải lòng và nói lên
tâm trạng cùng những suy nghĩ của mình. Viết văn là một nghiệp dĩ, một chọn lựa
chứ không bao giờ là một nghề để kiếm ăn, để mua danh, vì dù thế nào thì vẫn
tiếp tục sống chết với ngòi bút và đem tâm hồn mình để làm đẹp cho đời.
Từ khi gia nhập làng văn… tôi có biết và quen một số người mà thời trẻ họ có
viết, rồi dừng. Bỏ mấy chục năm không viết. Thời đó dù họ cũng có chút tiếng
tăm nhưng theo tôi thì có lẽ họ chưa phải là nhà văn đúng nghĩa. Đơn giản chỉ
vì họ đã ném bút rồi chuyển hướng theo một mục đích khác và hoàn toàn quay lưng
với văn chương.
Còn Trần Hữu Hội thì không! Anh yêu văn. Yêu cuộc sống. Và anh đã và đang
trút hết vào những trang sách toàn bộ tinh lực của mình. Trong các câu chữ của
anh, có lúc tôi như nghe thấy hơi thở phập phù của buồng phổi đang yếu dần,
nghe thấy cả tiếng đập bồi hồi của con tim bệnh tật… chắc chắn là viết xong mỗi
câu chuyện anh phải mệt mỏi như một vận động viên vừa chạy lên một ngọn núi
cao.
Nhưng tôi biết và mong anh không dừng lại. Sự sảng khoái và hạnh phúc có lẽ
chỉ có của người cầm bút sau khi nhìn những câu chữ của mình hoàn thiện trên
trang giấy chính là sức mạnh giúp anh đi tiếp. Châm một điếu thuốc, rít một hơi
sảng khoái, nhìn khói bay và lòng lơ lửng lên mây. Thuốc lá có lẽ là điều anh
nên tránh, nhưng oái ăm thay nó là chất xúc tác để cảm xúc thăng hoa.
Những tháng gần đây chúng tôi đều thấy sức khỏe Hội yếu dần… Thế nhưng anh
vẫn giữ được sức viết, miệt mài và mê mải. Là con tằm tiếp tục nhả tơ.
Tuy không có sức khỏe bạt sơn cử đỉnh, nhưng cây bút trong tay Trần Hữu Hội
là phương tiện để chiến đấu cho khát vọng Chân – Thiện – Mỹ . Trên mỗi câu chữ,
mỗi trang văn của Hội đều ít nhiều đều gửi gắm một ước mơ là “Từ đây người
biết yêu người” như trong một khúc hát của Văn Cao.
Gặp gỡ tại buổi ra mắt tập truyện “Vàng Trên biển đá đen” của Elena Pucillo Truong
do Quán Văn tổ chức ngày 8-4-2018 tại cà phê Lọ Lem – Sài Gòn
Trương Văn Dân
Sài gòn 9-4-2018