Mặt đất bao la anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng
Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…
Khúc ca đó tôi đã thuộc lòng từ thời còn ở trung học đệ nhị
cấp tại trường Nguyễn Bá Tòng và thường cất tiếng đồng ca cùng các bạn trong
các sinh hoạt sinh viên.
Ngày 30/4/75 tôi đang lênh đênh trên biển, nghe ca từ thân
quen qua sóng phát thanh mà nước mắt tuôn trào, vì trước đó Tổng thống Dương
Văn Minh đã ra lệnh cho chính quyền Sài Gòn đầu hàng.
Khi đó tôi đã khóc vì không biết có còn gặp lại bố mẹ và các
em. Tương lai rồi biết ra sao, trôi dạt về đâu.
Tôi buồn và nhớ đến những bạn học, mới còn đàn ca bên nhau,
chia sẻ mơ ước về tương lai cuộc đời, mong đất nước hết chiến tranh, mà giờ đây
hoà bình đã đến sao tôi lại ra đi, bỏ lại ước mơ:
Dù hôm nay tôi chưa nhìn Hà Nội
Dù hôm nay em chưa thấy Sài Gòn
Nhưng trong lòng tôi vẫn chưa mất niềm tin
Vì quê hương sẽ có ngày hoà bình
Cố nuôi vững bền những tình thương lớn…
Khi đến được trại tị nạn Camp Pendleton ở miền Nam
California, trong các lều trại lại văng vẳng tiếng nhạc quê hương.
Nhiều hôm, sau vài giờ học tiếng Anh, về lều nằm nghỉ, tôi
và các bạn nghe nhạc từ băng cát-sét và lấy bút ghi lại những lời ca, như sợ
mai đây sẽ chẳng còn tìm lại được nữa: Nối vòng tay lớn, Huế Sài Gòn Hà Nội,
Gia tài của Mẹ, Tôi sẽ đi thăm của Trịnh Công Sơn, cùng với Thà như giọt mưa,
Con đường tình ta đi, Trả lại em yêu, Thuyền viễn xứ của Phạm Duy.
Tôi rất yêu nhạc Trịnh Công Sơn, tình ca cũng như ca khúc da
vàng. Nhạc Trịnh đến với tôi lần đầu qua hai giọng hát từ trường trung học đệ
nhất cấp Thánh Tâm, ở Ngã ba Ông Tạ. Mỗi tuần đều có thuyết trình văn nghệ theo
đội trong giờ hiệu đoàn với thày Nguyễn Văn Khải. Tôi thích viết bài thuyết
trình, nhiều bạn như Trần Bá Nam, Trọng Nghĩa thích hát. Nguyễn Đức Bảo biết
chơi đàn ghi-ta và cất giọng “Diễm xưa”.
Thày dạy văn Trần Văn Thuận cũng có máu văn nghệ, đem đàn
vào lớp hát “Người già và em bé” cho học trò nghe. Thày còn kể chuyện về buổi
văn nghệ cuối năm 1967 tại thính đường Đại học Văn khoa, hôm đó có Trịnh Công
Sơn và Khánh Ly. Khi cán bộ thành đoàn lợi dụng cơ hội lên sân khấu tuyên bố mừng
ngày thành lập Mặt trận Giải phóng miền Nam thì bị sinh viên quốc gia giựt lại
mi-crô. Mấy sinh viên nằm vùng đã nổ súng gây trọng thương cho một lãnh đạo
sinh viên quốc gia là Ngô Vương Toại.
H01: Nội san Nối Vòng Tay của sinh viên Đại học Berkeley
(Ảnh: Bùi Văn Phú)
H02: Sinh hoạt tại Đại học Berkeley trong lưu bút 1980 của
tác giả. Sinh viên đồng ca Nối Vòng Tay Lớn (Ảnh: Bùi Văn Phú)
H03: Tờ nhật ký trên biển của tác giả (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Rồi chiến tranh ùa vào thành phố trong Tổng Công kích
Tết Mậu Thân. Đại tá Lưu Kim Cương bị trúng đạn B-40 tử trận trên con đường gần
nhà mà tôi thường đi qua, để từ đó ông trở thành bất tử qua ca từ nhạc Trịnh:
Anh nằm xuống cho hận thù vào viễn du
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn…
Khi tôi lên trung học đệ nhị cấp thì nhạc Trịnh văng vẳng khắp
khu xóm qua máy Akai hay cát-sét có trong nhiều gia đình lúc bấy giờ.
Những ca từ trong “Hát cho quê hương Việt Nam” cuốn số 1 –
Chờ nhìn quê hương sáng chói, Gia tài của Mẹ, Nối vòng tay lớn, Tôi sẽ đi thăm,
Huế Sài Gòn Hà Nội, Ca dao Mẹ, Đại bác ru đêm, Đồng dao hoà bình, Ngụ ngôn mùa
đông, Dựng lại người dựng lại nhà – qua giọng hát Khánh Ly, như thấm vào lòng
và từ đó tôi quyết tâm tự học đàn ghi-ta để có thể ngân nga những lời ca chuyên
chở tâm tình và ước mơ của mình thời bấy giờ: mong quê hương hết chiến tranh,
dân sống trong hoà bình, thanh niên góp tay xây dựng đất nước.
Ở tuổi trung học, nam sinh chúng tôi bắt đầu lo cho tương
lai. Ra đường trong bóp phải có căn cước, giấy lược giải cá nhân nếu chưa đến
tuổi 17, hay giấy hoãn dịch khi đã 18, vì nếu bị cảnh sát hỏi, thiếu những giấy
tờ này thì sẽ bị đưa vào quân vụ thị trấn làm thủ tục nhập ngũ.
Cuối năm lớp 11 tôi thi đậu Tú tài I. Đó cũng là năm 1972 với
Tổng tấn công Mùa hè đỏ lửa. Có lệnh đôn quân của bộ quốc phòng vì thế nhiều bạn
dù đậu hay rớt cũng phải vào quân trường. Đậu thì vào Thủ Đức, rớt đi Đồng Đế
Nha Trang.
Tôi thi đậu mỗi cuối niên học nên tiếp tục được hoãn dịch. Bạn
học nhiều đứa vào quân đội, có dịp nghỉ phép về Sài Gòn lại rủ nhau đi ăn phở,
bánh cuốn, uống cà-phê ở những quán trên đường Nguyễn Du không xa khung trời đại
học. Ngồi nghe nhạc Trịnh và trầm tư trong khói thuốc.
Rồi thỉnh thoảng lại nghe tin bạn học tử trận. Nguyễn Đức
Tuyển, Phạm Văn Thông, Trần Văn Doanh, Nguyễn Văn Nam, Lê Minh Châu. Có bạn là
lính, có bạn là sĩ quan mới tốt nghiệp quân trường, đi vào cuộc chiến và không
bao giờ trở lại.
Với chiến tranh, chia lìa và quá nhiều mất mát đau thương
nên ai cũng mong hòa bình, thống nhất.
30/4/75 “Nối vòng tay lớn” được Trịnh Công Sơn cất lên với
niềm hân hoan chào mừng ngày vui của dân tộc.
Rời nước ra đi. Đến Mỹ tôi định cư ở thành phố đại học
Berkeley và hai năm sau được nhận vào đại học này rồi cùng các bạn lập ra hội
sinh viên vào năm 1979.
Lúc đó có chừng 100 sinh viên gốc Việt. Tôi phụ trách văn
nghệ báo chí cho hội, chọn tên nội san là “Nối vòng tay” và trong các sinh hoạt
luôn cất lên lời ca quen thuộc của những ngày còn ở quê hương.
Rừng núi dang tay nối lại biển xa.
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà.
Mặt đất bao la, anh em ta về.
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng.
Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam.
Cờ nối gió đêm vui nối ngày.
Giòng máu nối con tim đồng loại.
Dựng tình người trong ngày mới.
Thành phố nối thôn xa vời vợi.
Người chết nối linh thiêng vào đời.
Và nụ cười nối trên môi …
Nhưng sinh viên chúng tôi giờ hát trong khung cảnh khác, cảm
xúc khác. Không còn là tinh thần của những trại hè mang tên “Nối vòng tay lớn”
vào những năm 1973 và 1974 giữa sinh viên quốc nội cùng hát với sinh viên nước
ngoài về thăm để tận mắt nhìn thấy quê hương đang cố gắng vươn lên.
Không còn mơ ước về quê hương thanh bình, người người chung
tay xây dựng mà trong tinh thần người con xứ Việt tha hương tìm đến với nhau
nơi đất khách quê người để nhớ về quê nhà, nơi sau năm 1975 tưởng đã hết chiến
tranh nhưng hoà bình lại biến mất, thay vào bằng nhà tù học tập cải tạo, trí thức
và văn nghệ sĩ bị đàn áp, sách vở bị đốt, dân bị đày đi kinh tế mới và thanh
niên Việt tiếp tục bị đưa vào chiến tranh.
Nhiều câu chuyện được thuyền nhân kể lại. Bạn học ngày xưa ở
lại tưởng có thể góp tay xây dựng quê hương nhưng không tham gia đoàn, đảng nên
chẳng làm được gì, đành đối mặt với sóng dữ xuống tàu vượt biển.
H04: Lời ca Nối Vòng Tay Lớn được tác giả ghi lại trong
những ngày ở trại tị nạn, 11 tháng 7 năm 1975 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
H05: Hát cho thuyền nhân Việt Nam ở Half Moon Bay, tháng
2/1980: Sinh viên Phạm Thị Mộng Trinh (bìa trái), Phạm Hiền Diệu Thúy và Bùi
Văn Phú (Ảnh từ lưu bút của Bùi Văn Phú)
H06: Sinh viên Việt Nam biểu tình kêu gọi thế giới cứu
giúp thuyền nhân Việt Nam, Sproul Plaza, UC Berkeley tháng 11/1979 (Ảnh: Bùi
Văn Phú)
Quanh vùng Vịnh San Francisco, nơi nổi tiếng với phong trào
phản chiến mấy năm trước, những sinh viên từng hoạt động chống chiến tranh trước
đây, ngay cả hội viên của Hội Việt kiều Yêu nước muốn về đóng góp xây dựng đất
nước cũng không được, về thăm nhà cũng gặp khó khăn giấy tờ, bị công an theo
dõi, canh giữ.
Năm 2011 tôi thực hiện loạt bài phỏng vấn về Trịnh Công Sơn
cho mạng văn chương damau.org. Tham gia có cựu Đại tá Bùi Tín của Quân đội Nhân
dân, có cựu Trung tá Bùi Đức Lạc của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, có Nguyễn Vi
Túy năm 1975 đang ở tuổi đôi mươi, có ca sĩ sinh viên Giang Trang sinh sau 1975
và thích hát nhạc Trịnh, có Trịnh Vĩnh Trinh là cô em út của nhạc sĩ, có Tiêu
Dao Bảo Cự người từng là sinh viên tranh đấu, có nhà thơ Hoàng Xuân Sơn là một
trong những người khai sinh ra quán Văn.
Trước đó mấy năm tôi cũng đã phỏng vấn Khánh Ly. Nhiều cái
nhìn qua những góc cạnh khác nhau về Trịnh Công Sơn được xét soi, khen chê có cả.
Thời gian đó tôi cũng nhận được từ trong nước đoạn băng lịch
sử ghi âm phát biểu của Trịnh Công Sơn trên đài Sài Gòn sau khi có lệnh đầu
hàng. Ông gọi những người bỏ nước ra đi là thành phần phản bội tổ quốc.
Ở lại Trịnh Công Sơn cũng chẳng còn được tự do sáng tác, phải
đi công trường lao động. Những ca khúc da vàng bị cấm.
Hôm đầu tháng Ba vừa qua có hàng không mẫu hạm Mỹ ghé bến Đà
Nẵng. Xuống bến giao lưu với dân, nữ thủy thủ Emily Kershaw của ban nhạc Hạm đội
7 đã cất tiếng hát “Nối vòng tay lớn” bên cầu Rồng.
Tôi ngạc nhiên khi nghe cô hát được tiếng Việt và ban nhạc
đã chơi hoà âm như nguyên thủy trong băng “Hát cho quê hương Việt Nam” đầu tiên
phát hành năm 1969, không như phiên bản rock của một vài ban nhạc trẻ sau này.
Sự kiện này mang ý nghĩa gì? Tôi không lạc quan tin rằng nó
sẽ đem lại những thay đổi cho Việt Nam, vì 43 năm qua, từ khi ca khúc này được
chính tác giả cất tiếng trên đài để chào mừng ngày đất nước thống nhất, hoà
bình đến nay những ca khúc da vàng vẫn không được phép phổ biến.
Tôi xem lại tờ nhật ký biển của mình, với mấy hàng chữ ngắn
gọn ghi dấu lịch sử trên giấy pơ-luya mong manh tôi có trong bóp, cùng với giấy
tờ tùy thân khi rời Việt Nam:
29 - 4 16 g 30 Depart, thứ 3
30 - 9 g 30’ đầu hàng, 11 g 30 CS vô.
Giờ phút lịch sử của dân tộc trôi qua đã 43 năm. Trịnh Công
Sơn mất 17 năm trước. Khánh Ly đã trở về hát trên quê hương, nhưng không được
hát cho quê hương vì “Gia tài của Mẹ” vẫn chưa được phổ biến:
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày…
Mẹ mong con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha quên hận thù
Và nhiều người Việt vẫn còn những trăn trở về đất nước hiện
tại, như đã từng có trong quá khứ:
Xin dân tộc hãy vùng lên
Già gái trai cùng tiếp nối
Vì quê hương không có tương lai
Bao tháng ngày nhìn đời lửa cháy
Xin anh chị sẵn sàng đi tới
Đừng mong ai. Đừng nghi ngại
Vì đời ta hôm nay đã thắm máu người…
Bùi Văn Phú