Năm 1972, Nguyễn Quyết Thắng rủ tôi tới 19 Kỳ Đồng, quận 3, nằm đối diện hới
xéo về phía trái nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Lúc bấy giờ nơi này đang được sử
dụng làm Văn Phòng Liên Lạc Sinh Viên Quốc Nội và Hải Ngoại. Đây là một tòa
biệt thự cổ của Pháp, bước vào là một khoảng sân khá rộng, rồi bước phòng khách
có thể sinh hoạt chung năm bẩy chục người, trong nữa là ba phòng dùng làm văn
phòng, phòng họp và phòng văn thư. Chỗ này là nơi gặp gỡ và sinh hoạt cho sinh
viên đang đi du học nước ngoài khi về nước có chỗ tìm đến nhau, làm quen, kết
bạn và tham dự các sinh hoạt cùng sinh viên trong nước. Điều hành chung là anh
Đỗ Ngọc Yến. Anh Yến là Huynh trưởng của phong trào Du Ca nên đây là nơi các
Huynh Trưởng Nhạc Sĩ của Du Ca thường ghé chơi như các anh Ngô Mạnh Thu, Nguyễn
Đức Quang, Trần Văn Bùi,và các trưởng trẻ của Du Ca như Đặng Mục Tử, Nguyễn
Quyết Thắng, Nguyễn Hữu Nghĩa, Bùi Công Bằng…
Trong số các sinh viên làm việc thường xuyên tại văn phòng, tôi quen với Lương
Văn Tự, Nguyễn Ngọc Linh, Đinh Việt Hùng, Nguyễn Văn Thanh. Ở địa điểm này, mỗi
cuối tuần có những buổi sinh hoạt trình diễn âm nhạc truyền thống, và một đơn
vị Du Ca hoạt động thường xuyên là Ca Đoàn Trung Ương của Phong trào Du Ca.
Hôm đó, Nguyễn Quyết Thắng đưa tôi tới để xem Thắng trình diễn một số ca
khúc trong chương trình cuối tuần này. Trước phần trình diễn của Thắng là một
màn độc tấu đàn tranh. Người nữ thướt tha trong áo dài gấm vàng, đội khăn hoàng
hậu. Cô ta ngồi xuống, cây đàn để trên đùi và ngón tay thoăn thoắt lướt trên 16
sợi giây đàn, tỏa mênh mông suốt khán phòng một làn hương dân ca dìu dặt. Tôi
nghe và thấy lòng dào dạt thương yêu. Đôi mắt cô ta tròn xoe, lúc nhìn xuống
đàn, lúc ngước lên nhìn bao quát, tôi nhìn được một cái gì đó mơ màng như mắt
nai, và dịu dàng như người em gái nhỏ. Hết phần trình diễn này là tới phần
Thắng hát. Tôi ngơ ngác nhìn theo cô bước vào hậu trường. Không cần ai giới
thiệu tôi bước theo cô và làm quen.
– Lúc nãy tôi vào trễ nên không nghe được người ta giới thiệu cô tên gì. Vậy
cô tên gì vậy?
Cô ta quay lại nhìn tôi, vẫn cặp mắt mơ màng đó nhìn từ trên xuống dưới rồi
trả lời nghiêm chỉnh:
– Tuần sau, anh tới sớm hơn sẽ nghe được người ta giới thiệu tên người trình
diễn mà.
– Ồ… Nguyễn Văn Thanh, người điều khiển chương trình, là bạn tôi, tôi có thể
hỏi anh ta .
– Thế sao anh không hỏi anh ta mà hỏi tôi?
– Trời ạ, tôi tưởng hỏi cô thì nhanh hơn chứ.
– Anh lầm rồi đó.
Nói xong cô mỉm cười có vẻ hài lòng và quay mình bước vào phòng.
Tôi đành thở dài quay lại hội trường ngồi nghe Thắng hát và chờ cuối chương
trình sẽ hỏi lại. Nguyễn Văn Thanh mà sau này thành một đạo diễn kịch nghệ với
tên Phương Cửu cho biết cô ta tên Ngọc Trai, sinh viên khoa học, thành viên ca
đoàn Trung Ương. Khi chương trình chấm dứt, tôi không về ngay mà chờ cô ta ra
là bước tới hỏi chuyện:
– Ngọc Trai về một mình mà tay cầm đàn có vướng không? Hay tôi đưa Ngọc Trai
về nhe?
Cô ta khựng lại, nhìn tôi, bây giờ thì cô ta đeo cặp kính trắng to. Cặp mắt
không còn mơ màng nữa, mà sắc như dao lướt qua tôi. Nhưng cô lại cười tươi tắn:
– Được chứ. Anh đến đây bằng gì?
– Bạn tôi chở.
– Vậy anh định đưa tôi về bằng gì?
– Ơ.., tôi… tôi…
May quá, Thắng chạy tới cứu bồ, Thắng nói “Tôi chở Nữu cầm đàn cho Ngọc Trai
và chạy theo Ngọc Trai về nhà như vậy an toàn hơn.”
Ngọc Trai trả lời:
– Tôi nghĩ rằng tôi đi một mình an toàn hơn.
Cô ta ngừng một chút rồi nói: “Nhưng nếu hai anh chạy theo bảo vệ thì cũng
vui mà…”
Từ lúc quen Ngọc Trai, tôi tới chơi với văn Phòng Liên Lạc nhiều hơn, từ đó
kết thân với Nguyễn Ngọc Linh và Đinh Việt Hùng. Cả hai đều là Du Ca, và là
nhân viên thường trực tại văn phòng. Đinh Việt Hùng hát hay, vừa đoạt giải Khôi
Nguyên Tiếng Hát Sinh Viên, còn Nguyễn Ngọc Linh thì phụ trách về Kỹ Thuật, là
toán trưởng một toán Du Ca.
Đầu tiên là hẹn Ngọc Trai ở văn phòng liên lạc. Thuở ấy, phương tiện liên
lạc với nhau chỉ là viết thư, không có phone, không có fax, cho nên gặp lần này
là hẹn lần sau, hoặc tới sớm nhìn lên bảng nhắn tin coi có mẩu nhắn tin nào gắn
lên đó .
Văn phòng 19 Kỳ Đồng là nơi gặp gỡ của sinh viên các trường Đại Học trong và
ngoài nước, tôi là một người đặc biệt, cũng là sinh viên, nhưng là sinh viên sĩ
quan Thủ Đức. Mỗi chiều thứ sáu, đi phép về là đi thẳng tới văn phòng, vẫn mặc
trên người quân phục đi phép. Thường thì sau giờ sinh hoạt chung, khoảng hơn 8
giờ tối, Ngọc Trai và tôi đi về trên chiếc xe Yamaha nữ mầu xanh nước biển của
Ngọc Trai. Một lần, vừa tới nơi, tôi thấy Ngọc Trai vẫn còn ngồi trên xe ở sân
trước. Cô ngoắc tôi chỉ ra ngoài. Đi theo ra ngoài, ngồi phía sau cho Ngọc Trai
chở, tôi vẫn nghĩ là sẽ chạy lăng quăng đâu đó như mọi lần, rồi ghé quán cà phê
Phấn Thông Vàng trên đường Nguyễn Thông nghe nhạc tình hoặc ghé hội quán Cây
Tre ở Đinh Tiên Hoàng nghe nhạc Thân Phận, nhưng khi chạy ra tới Ngã Sáu, Ngọc
Trai quay lại hỏi tôi nhà ở đâu.
– Nhà… nhà ai?
– Nhà bạn chứ ai.
– Để làm gì?
– Về thay đồ dân sự đi.
Tôi chỉ đường cho cô chạy về cầu chữ Y, vào nhà thay vội bộ quần áo dân sự
rồi lại leo lên xe cho cô chở đi, chẳng hỏi là đi đâu. Ngọc Trai chạy về phía
quận 6, rẽ vào khu cư xá Phú Lâm B, và ghé vào một căn nhà lớn như một cái biệt
thự. Bên trong có khoảng mười mấy thanh niên nam nữ ngồi quanh nhau, mọi người
chào hỏi vui vẻ và bày biện ra bánh kẹo trái cây nói rằng hôm nay là sinh nhật
ai đó . Lát sau có một người tới nữa, lớn tuổi hơn chúng tôi, người này mọi
người gọi là anh Huỳnh.
Anh Huỳnh thấp người, khuôn mặt vuông vức nhưng xanh lét như người bệnh sốt
rét. Ngọc Trai nói với tôi anh Huỳnh trước học ở Khoa Học, ra trường lâu rồi,
tới chơi đây như một người anh. Khi vòng tròn ăn uống tạm vơi, anh Huỳnh có nói
gì đó về trách nhiệm thanh niên, về dân tộc, sau đó hướng dẫn mọi người cùng vỗ
tay hát chung một số bài ca sinh hoạt thanh niên. Trong đó có bài tôi biết, có
bài tôi không biết. Anh Huỳnh liếc qua tôi và lục trong túi xách mang theo một
xấp giấy đưa cho tôi, giọng thân mật, nhắc tôi nhìn vào giấy này và hát theo
mọi người.
Tôi gật đầu, lật phớt phớt vài trang xấp giấy quay ronéo đó, đọc và giật
mình khi thấy thoáng qua là những lời ca mang nặng tính đấu tranh và hận thù .
Tôi chợt hiểu lý do Ngọc Trai muốn tôi thay quần áo dân sự trước khi đến đây.
Tôi ngồi im suốt buổi, cho tới khuya mới về.
Ngọc Trai chở tôi về nhà cô ta. Nhà nằm trong đường hẻm đối diện trường Quốc
Gia Hành Chánh ở đường Trần Quốc Toản. Căn nhà rộng bề ngang và khá sâu, bên
ngoài là phòng khách, rồi tới một phòng lớn có cầu thang lên lầu, phía sau là
xưởng ép đế giầy bằng mủ cao su. Tôi gặp mẹ của Ngọc Trai. Cụ bảo khuya quá đi
đường không tiện, cháu cứ ngủ lại trong xưởng với mấy anh công nhân cũng được.
Tối đó, tôi lấy cái ghế bố ngủ lại ở cái phòng có cầu thang lên lầu. Gia đình
Ngọc Trai ở trên lầu, cửa khóa lại.
Tôi học ở Thủ Đức xong, ra trường về đơn vị ở tiểu khu Định Tường. Đôi mắt
cận thị nặng không phù hợp cho những đêm di chuyển giữa bùn lầy sình nhão, nên
tôi xin đi khám mắt và sau đó được giải ngũ vào cuối năm 1974. Những ngày còn
quanh quẩn ở Sài Gòn, Ngọc Trai thường đưa tôi đi gặp nhiều nhóm bạn khác lạ.
Dù dị ứng với chính trị, nhưng tôi cũng mường tượng ra một cái gì không bình
thường ở những nhóm sinh hoạt này.
Tôi thường từ chối đến với các sinh hoạt thanh niên theo từng nhóm, viện lý
do không phù hợp để đưa Ngọc Trai rong chơi trong thành phố. Trên chiếc xe hai
bánh mầu xanh nước biển, tôi chạy dọc bến sông, từ bến Bạch Đằng, qua bến Hàm
Tử, qua bến Lê Quang Liêm vào tuốt gần Bình Chánh, rồi ngược ra, chạy theo xa
lộ Đại Hàn, chạy ven phía nam thành phố, qua đến Bình Dương, vòng xuống Gò Vấp
để về lại Hàng Xanh… Có khi chúng tôi dừng lại ven đường, ghé vào một quán cóc
gọi ly cà phê đen đá, thong thả nhìn đời sống kham khổ nhưng yên bình của người
dân, có khi trời còn nắng, chúng tôi chạy vào rừng cao su ven xa lộ, ngồi nghỉ
ngơi dưới tàn lá rậm, rì rào con gió mùa hè và nghe Ngọc Trai khao khát một đời
sống bình yên khi đất nước hòa bình…
Ngọc Trai nằm thoải mái soải chân trên nền lá vàng, hát mê say: nếu là chim
tôi sẽ làm loài bồ câu trắng, nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương… (Tự
Nguyện – nhạc Trương Quốc Khánh)
Còn tôi, tôi hát cho Ngọc Trai nghe Bài Hương Ca Vô Tận của Trầm Tử Thiêng:
Hát nữa đi Hương hát điệu nhạc buồn, điệu nhạc quê hương. Hát nữa đi Hương hát
lại bài ca tiễn anh lên đường. Ngày đao binh chưa biết còn bao lâu, Cuộc phân
ly may lắm thì qua mau, Hát nữa đi Hương hát để đợi chờ…
Những lúc không đi đâu, tôi cùng Ngọc Trai thường đứng ở lầu một biệt thự 19
Kỳ Đồng. Khung của sổ lớn nhìn ra khoảng sân rộng bên dưới, ngoài đường tiếng
xe chạy vọng vào xa xa, chiều về chầm chậm, tiếng chuông nhà thờ Dòng Chúa Cứu
Thế thánh thót báo lễ chiều, và thả hồn mình vào những khao khát hòa bình dù
chưa biết cuộc tương tàn sẽ chấm dứt bằng cách nào. Hiệp định Paris đã ký kết
cả ba năm rồi mà có ngày nào trên đất nước không có tiếng súng đâu.
Buổi sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đứng trên đường Nguyễn Biểu, nhìn
dòng người táo tác, mặt mày thất sắc, ôm đồ đạc chạy từ quận 8 qua, rồi lát
sau, một toán bộ đội súng cầm tay đi tới. Cái cảm giác bàng hoàng, buồn vui lẫn
lộn. Vậy là hòa bình rồi hả? Vậy là chấm dứt chiến tranh rồi hả? Cái chết không
còn là sự đe doạ nữa nhưng rồi cuộc sống sẽ như thế nào đây…
Bất ngờ nhìn thấy chiếc xe Yamaha chạy vào hẻm, tôi vội về nhà, và sửng sốt
nhìn Ngọc Trai.
Là Ngọc Trai đó sao? Vẫn trên chiếc xe gắn máy quen thuộc, nhưng hôm nay
Ngọc Trai mặc đồ xanh của bộ đội miền bắc, sau lưng đeo một khẩu súng dài,
chiếc mũ tai bèo cột chặt đưới cằm thật xa lạ trong mắt tôi.
Cô ta ngoắc tay, kêu tôi ngồi lên xe. Đi đâu? – Đi, làm việc. – Làm việc gì?
Tôi biết gì mà làm? – Lên xe đi, lát nữa rồi biết.
Ngọc Trai chạy về phía Chợ Lớn, chạy qua Nguyễn Tri Phương, bùng binh An
Dương Vương, rồi ghé vào Đại Học Xá Minh Mạng. Ngoài cổng Đại Học Xá có người
gác cửa, họ quen thuộc với Ngọc Trai nên mở cổng cho cô chạy vào. Bên trong,
không có một sinh viên nào mà thấp thoáng từng toán bộ đội ngồi đứng xa xa…
Ngọc Trai đưa tôi vào một dãy nhà đang có đông người lố nhố, có thường phục, có
áo bộ đội, có nón cối, có dép râu, có mũ tai bèo, chợt một người quay ra nhìn
tôi cười, khuôn mặt xanh xám, hai tay lỏng khỏng trong cái áo bộ đội quá khổ.
Người này nói ông rất vui khi gặp lại tôi… Tôi khựng lại và nhớ ra … anh Huỳnh.
Ngọc Trai nhanh chóng giới thiệu, Huỳnh là họ thôi, anh Tư đây nguyên là Chủ
Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn đó. Tôi bật lên, à…
Mấy ngày sau đó, tôi hiểu ra, cái mặt ngoài là mồ côi cha của Ngọc Trai chỉ
là cái vỏ bọc. Cô ta là con gái của một cán bộ nằm vùng. Căn nhà mà tôi đã từng
tới, đã từng ngủ lại là một cơ sở bí mật tàng trữ vũ khí. Công việc sản xuất đế
giầy cao su chỉ là mặt nổi để họ vận chuyển vũ khí vào thành phố gói kín trong
những bành cao su to đùng chuyển từ Tây Ninh về. Tôi còn biết thêm cái ghế bố
mà tôi đã từng nằm được kê trên nắp hầm bí mật chứa vũ khí bên dưới. Sau này,
người ta giữ lại căn nhà Ngọc Trai ở như một di tích, vì đó là nơi duy nhất ở
Sài Gòn cất dấu vũ khí đạn dược mà không bị phát hiện.
Ngọc Trai tạo điều kiện để tôi tới nhà và gặp người Cha bí mật của mình.
Thân phụ của cô người cao lớn, nói tiếng bắc vùng Nam Định, câu chuyện không
dài nhưng cởi mở. Ông nói:
“Tôi nghe bà nhà nói về chuyện cậu với con Ngọc Trai nhà tôi. Tôi biết cậu
là sĩ quan, muốn tính chuyện lâu dài, cần phải ổn định cuộc sống. Muốn ổn định
thì cậu cần phải học tập. Tôi có thể giúp cậu bằng cách đưa cậu ra phường trình
diện và đi học tập ngay. Học xong sớm rồi về mà xây dựng lại cuộc sống gia
đình.
Tôi hoãn binh bằng cách nói rằng sẽ bàn lại với gia đình. Nhưng thực sự
trong tinh thần hoang mang bất định lúc đó, tôi có cái cảm giác mọi chuyện
không đơn giản như lời nói, và xã hội đang vận hành bằng những bước đi phức tạp
và khá buồn. Tôi về, và bắt đầu tránh né những lần đi chung với Ngọc Trai. Rõ
ràng vẫn là cô gái ấy, vẫn là những săn sóc chăm lo cho nhau, nhưng giờ đây một
cái gì đó không tả ra được làm con người mình dường như không là mình nữa.
Lúc thân phụ Ngọc Trai (về sau tôi biết bí danh là Ba Mủ) đề nghị tôi đi học
tập thì chưa có lệnh tập trung sĩ quan công chức miền nam đi học tập, nghĩa là
lúc đó chẳng ai biết học tập cải tạo là gì, ra sao, và sau này, khi hồi tưởng
lại, tôi cũng tin chắc rằng ngay cả người nằm vùng như bác Ba Mủ cũng không
biết thế nào là tập trung cải tạo.
Ngọc Trai ghé nhà nhiều lần không gặp, để lại thư nhắn tôi lên số 4 Duy Tân
buổi sáng để gặp bạn bè.
Khi tôi lên, gặp lại Bằng, Hùng, Linh, Linh đầu bạc, Hùng hí và Di. Di đề
nghị chúng tôi lập lại một nhóm giống như Du Ca, lấy tên là Thanh Ca Tác Động.
Nhóm này khi sinh hoạt tại số 4 Duy Tân đã tập trung lên đến hàng trăm thanh
niên sinh viên tới chơi chung. Nhóm dược đưa vào hội trường chính để nghe hát
và dạy hát cách bài ca mới, rồi đưa đi các trường Đại Học dạy lại cho sinh
viên… Dường như chỉ khoảng vài tháng, một buổi sáng, đang tập họp thành vòng
tròn, một cán bộ thành đoàn xuống phổ biến một thông báo, thông báo rằng giải
tán tổ chức Thanh Ca Tác Động, và cấm các thành viên của nhóm tự ý tụ tập sinh
hoạt bất cứ nơi đâu.
Chúng tôi chia tay nhau, ai về nhà nấy.
Không gặp lại Ngọc Trai.
Tháng 9 năm 1975, đợt đổi tiền đầu tiên ở miền nam là một cú đấm trực diện
vào kinh tế xã hội miền Nam. Thiếu thốn, kham khổ từ trước, nay nặng nề hơn
thành đói kém, thê lương. Mọi gia đình đều cố gắng thu vén, bán được cái gì thì
bán bớt bổ sung vào miếng ăn. Những gia đình họ hàng mà tôi quen biết, gia đình
nào cũng có nỗi đau xót riêng, tựu trung là mất mát, chia ly, thiếu hụt và cái
chung nhất là hoang mang không biết sẽ ra sao. Mấy anh chị trong gia đình tôi thì
hai người anh đi học tập cải tạo chưa biết bao giờ về, một gia đình người chị
đi nước ngoài, một gia đình người chị ở lại đi dạy học và thường xuyên lên lớp
với cái bụng trống không. Tôi không tìm được việc làm, kể cả công việc nặng
nhọc như lao động.
Giữa lúc đó, Ngọc Trai tìm đến. Cô ta hỏi thăm về anh Diễm, người anh kế
tôi, đang học tập cải tạo ở Đà Lạt. Mẹ tôi thở dài, không có tin tức gì, kể cả
con dâu và bốn đứa cháu nội. Ngọc Trai hỏi Bác có muốn con đưa Nữu lên Đà Lạt
thăm anh Diễm và gia đình không? Tôi lắc đầu liền, không đi đâu, xe cộ khó khăn
và tiền bạc không có. Nhưng mẹ tôi thì nghĩ đến con trai, con dâu và các cháu
nên bị lung lạc. Để làm mẹ yên lòng, tôi theo Ngọc Trai lên Đà Lạt tìm thăm anh
Diễm.
Khi xe chạy ra khỏi thành phố, chúng tôi ngồi bên nhau trong im lặng. Tôi
đưa mắt nhìn mông lung những hàng cây xa tít tắp, những mảnh vườn, mái nhà hiu
quạnh bên đường. Tôi thoáng có ý nghĩ tìm một miếng đất làm vườn làm rẫy sống
qua ngày … Khi xe gần đến Bảo Lộc để chuẩn bị dừng cho khách ghé ăn trưa, Ngọc
Trai dúi vào tay tôi tờ giấy 50 đồng, nói cầm lấy để chi phí lặt vặt cho chuyến
đi. Ăn trưa xong, tôi rút tiền ra trả nhưng nhân viên tiệm ăn từ chối. Tờ giấy
50 đồng quá lớn khi ăn hai đĩa cơm chưa tới 3 đồng… Tờ 50 đó tôi giữ lại cho
tới khi về lại Sài Gòn trả lại cho Ngọc Trai.
Những ngày ở Đà Lạt, Ngọc Trai trở về như cô gái ngày xưa, đằm thắm, dịu
dàng, sắc sảo và rất thông minh. Chúng tôi vào tận trại cải tạo ở Trại Mát thăm
anh Diễm, rồi sau đó đi thăm chợ Đà Lạt, Thác Prenn, Cam Ly, tản bộ trên sân
Cù, đi bộ dọc theo hồ Xuân Hương. Cả hai không đề cập hay nhắc tới chuyện tôi
đến gặp bác Ba Mủ, hay chuyện tình cảm giữa hai người. Tôi biết chắc đó không
phải là tình yêu, chúng tôi chưa bao giờ nói với nhau những lời tình tứ riêng
tư. Có lần, Ngọc Trai nói dường như tôi đã thay đổi nhiều lắm, cái sôi nổi, hào
hứng ngày xưa có vẻ như đã chìm vào đâu đó.
– Không phải vậy, Ngày xưa khi tôi nói là tôi tin rằng những điều mình nói
là đúng, nên đủ tự tin để bày giải ra và hăng say bảo vệ nó.
– Còn bây giờ?
– Bây giờ? Bây giờ tôi nghi ngờ cả sự có mặt của tôi trên mặt đất này, không
chừng cũng là điều không thực.
– Bạn không cảm thấy vui khi mình đi bên nhau sao?
– Ngọc Trai vẫn là một người nữ nhiều cá tính và thú vị. Bên cạnh Ngọc Trai
là bên cạnh những đợt cuồng phong, cạnh những làn sóng lớn, những chuyển dịch
bất ngờ… và đôi khi từ đó vẫn nảy sinh những ước mơ nóng bỏng… nhưng …
– Nhưng sao?
– Nhưng đời sống vẫn phải có sự bình ổn về tinh thần. Sự bình an và thư thái
nhẹ nhàng…
– Bạn thấy bất an khi mình ở bên nhau?
– Không nói thế được, sự bất an trong tôi bấy lâu nay là thường trực, dù có
Ngọc Trai bên cạnh hay không.
Chúng tôi cùng im lặng, và giữ gìn tránh trao đổi cho tới lúc về lại Sài
Gòn. Tôi buồn. Và buồn hơn khi tôi biết tôi làm Ngọc Trai buồn. Ngọc Trai dành
cho tôi rất nhiều sự quan tâm, và có thể nói là chiều chuộng, ngoài trừ những
lúc tranh luận, còn không thì Ngọc Trai chiều chuộng như chiều chuộng một đứa
em. Bên cạnh Ngọc Trai tôi thấy mình nhỏ bé và thiếu tự tin. Tôi quý Ngọc Trai
nhiều lắm, nhưng cái tình cảm đó có vẻ như tình bạn, một tình bạn không bình
đẳng mà tôi thuộc về phía yếu kém.
Khi xe về đến bến ở đường Nguyễn Tri Phương, chúng tôi đi bộ về nhà Ngọc
Trai sau đó cô ta lấy xe chở tôi đi. Chúng tôi chạy loanh quanh và ghé ngang
qua 19 Kỳ Đồng. Ngôi biệt thư bây giờ bỏ hoang, không người cư trú. Cây hoa sứ
lớn giữa sân trong bóng đêm như tỏa ra một vòm tối ám, âm u, nhìn lên trên lầu,
cái cửa sổ rộng mở toang, nhìn vào bên trong một khoảng nhờ nhờ trắng, hoang
tịch. Ngọc Trai hỏi tôi có muốn ghé vào thăm một chút không. Tôi lắc đầu. Ngọc
Trai đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ gấp tư và bảo lát về nhà hãy đọc, rồi rồ ga
chạy.
Khi Ngọc Trai chở tôi về nhà ở cầu chữ Y, trời đã tối, chuyến đi bốn ngày
làm cơ thể tôi nhão ra như mất sức, những suy nghĩ dằn vặt làm tôi chóng mặt và
có cảm giác như đang sốt. Tôi lăn ra ngủ. Sáng hôm sau, thức dậy, chợt nhớ tới
tờ giấy Ngọc Trai đưa hôm qua, tôi ngồi dậy lục tìm và mở ra. Trong đó chỉ một
dòng chữ ngắn:
“Philippe ơi, đọc nhật ký của Isabelle nhé”
Philipe là nhân vật nam, còn Isabelle là nhân vật nữ trong tác phẩm Climats
(Mặc Đỗ dịch với tựa là Tâm Cảnh) của André Maurois. Cuốn sách Ngọc Trai tặng
tôi hồi hai đứa mới quen nhau, tôi tìm trong nhà, không còn cuốn đó, nhưng vì
là sách được dậy trong chương trình giáo khoa lớp đệ nhị, nên tôi nhớ đại khái
là khi Bác Sĩ Philipe chết vì bệnh phổi, vợ ông, Isabelle, viết trong nhật ký
hồi tưởng, câu kết thúc nhật ký và cũng là kết thúc tác phẩm là: “ Em tin rằng
nếu em giữ được anh, em sẽ biết cách đem vui sướng đến cho anh, nhưng định mệnh
và lý trí chúng ta thường lỗi điệu”.
Nguyễn Minh Nữu
Virginia, tháng 5.2018