Ở trong nước, mỗi năm, bộ hành, người dùng xe đạp, người cỡi xe gắn máy từ
chết đến bị thương đếm không xuể, nguyên nhân do đang lưu thông chẳng may có ô
tô điên từ đâu láng cháng rồ tới, tông, đụng, húc, cán không khoan nhượng.
Thường dân than: Khi khổng khi không cái phủi chân lên bàn thờ đi gặp mặt ông
bà; mà đảng viên thì báo cáo: nó vừa đi thăm Các-mác Lê-nin.
Chết, có trăm phương nghìn cách, kể cả khi nghĩ là an toàn leo được, ngồi
vào lòng ô tô, mua vé xe đò có giường nằm bon bon trên quốc lộ Một. Xe đổ đèo
xe đứt thắng, bác tài ngủ gật lạc tay lái. Đại lộ không chạy lại nhắm tiểu lộ
mà cày xới bao vật ngáng đường, trầy trụa khi rơi “êm” xuống vực, “một bộ phận
không nhỏ” liền khuất núi, hồn du địa phủ.
Dù tin rằng số trời đã định, tới ngang tuổi đó phải chết đi, nhưng bá tánh vẫn
có lắm kẻ xem ô tô là con quái vật, tâm bất an đem lòng ngờ vực, kỵ ô tô, thấy
từ xa đã cẩn tắc lo nhảy, trước khi nước tới chân.
Hài kịch rẻ tiền thường phát sóng trên truyền hình, muốn chọc cười bà con
diễn viên thường dặm pha giọng Quảng Nam mà đa phần thích chơi khăm tới dân Huế
bằng cách tự tung tự tác chêm thêm dấu nặng vào mỗi chữ trong lời thoại. Tự ái
địa phương đem bắt bẻ thì nghe họ nói: Hổng phải sao? Người Bắc chửi đéo mẹ,
Nam kêu đù má mà các anh hô đụ mạ. Hai dấu nặng sờ sờ ra đó. Nặng chết tía
luôn, nói nhanh nói nhiều tui hổng hiểu đâu nghen. Đừng có ở đó mà răng ri rứa!
Oan cho người mềnh quá! Dẫn chứng có bi nhiêu thì mần răng thuyết phục hở
eng? Bồ tèo ưa nghe thêm hả? Đầu niên học, thầy cô trong Nam hỏi học trò: Các
em đã đủ vở chưa? Trong khi ngoài anh thì nghe sang sảng: Cạc em đạ đụ vợ chưa?
Dạ thưa cô, đụ rồi.
Mặt đỏ rần. Đỏ vì tức giận một phần. Thù oán gì nhau mà ăn nói mất vẻ thanh
lịch thế kia. Người Huế kêu bằng: Con nhà ai mà chơi kiểu ba de rứa bây! Thiệt
là đồ mất dạy! Giả như đọc tên thành phố cổ xưa Kyoto bên Nhật thì thằng cha
căng chú kiết nào lại đi phát âm là Kỵoto? Hết chữ rồi hay răng mà mang Kyoto
ra ví von? Đừng nóng, vì vừa nghe “ngài” thủ tướng phán: “Huế là một Kyoto của
Việt Nam, phải tận dụng vẻ đẹp chẳng nơi nào có được”. Ai nói thì nên nghe theo
nhưng “lời hay ý đẹp” của bề trên thì lâu nay vẫn khiến bá tánh ma-dzê-in hoang
mang trộn lẫn hoài nghi nói dzậy mà hổng phải dzậy. Noại rựa mà khung phại rựa.
Ngày xưa thủ tướng có cắp sách đến trường không? Có nghe thầy hỏi “em đạ đờ vờ
chưa?”
Người Huế trong nước nghe rứa có sướng hung khôn? Có tự hào khi xứ mềnh tự
nhiên một sớm một chiều được “vẽ râu ông nọ cắm cằm bà kia”? Từ một rẻo đất mãi
hứng chịu lắm thương đau tăm tối bầm dập nay được ví ngang với thành phố dân
chủ văn minh hiện đại, đến ngay cả con cá con chim con mèo con chó bên ấy cũng
được người dân coi trọng, bảo bọc nâng niu. Dân chưa lên tiếng, lãnh đạo đã lo
cúi gập người xuống mà nhận lỗi lầm. Thậm chí họ sẵn lòng từ chức, tự nhận mình
là kẻ bất tài, xin khoan thứ cho tài sức hạn hẹp của tôi đã chẳng đáp ứng bao
kỳ vọng mà quý vị tin tưởng trao cho.
“Huế thơ Huế mộng” thì răng? Năm 1970 nhà thơ Phạm Nhuận có thơ:
Nhớ những chiều ngồi bên này sông
Cây cầu thân yêu gãy xuống giữa giòng
Tà áo em bay trắng màu goá bụa
Như tang tóc về giữa phố người đông.
Có Trịnh Công Sơn từng “hát trên những xác người”. Chuyện chi rứa? Dạ thưa,
Tết Mậu Thân 1968 vẫn còn đó là vết cắt sâu, xương chất thành núi máu chảy
thành sông. Mấy mươi năm qua vẫn bặt câm một tiếng xin lỗi từ guồng máy bạo
liệt tạo ra trận thảm sát chưa từng có trong lịch sử “dựng nước và giữ nước”.
Chỉ có lời thở than của nạn nhân, nỗi đau vô chừng vô đỗi đến độ nó chui vào
ngay cả món giải trí, vẽ nên con Nghèo trong bộ bài Tới:
Chồng em chết bữa ba mươi Tết
Không biết mượn cuốc nơi mô
Đưa hai tay bụm cát lấp mồ
Tình sâu nổi thảm biết chừng mô hỡi trời!
Sắp tết rồi ông thủ tướng ui. Dù nghèo đói tới cỡ nào đi chăng nữa hạng thứ
dân bần cùng cũng cố thu vén chắt chiu bóp họng bóp hầu để bày lên bàn thờ một
mâm cơm hòng cúng dâng những người khuất mặt. Trong khi những kẻ đè đầu cỡi cổ
vẫn có biệt tài tạo ra bánh vẽ, hết món này tới món kia rất mực thịnh soạn. Chỗ
này thì ví ngang với Mút-cu, chỗ kia thì nào khác Cu-ba. Hà Nội thì chính hiệu
là Paris. Đà Lạt nào khác chi Ba Lê thu nhỏ. Sài Gòn tợ thung lũng điện tử bên
Cali, mà bây chừ Huế đích thị là Kyoto vậy. Huế có em bé 12 tuổi nghe lời dụ
“em đi với chị một chút thì được 10 triệu”. Chị dắt em vô chợ Đông Ba ăn sương
sa hột lựu xong giao vào tay một thằng đàn ông chở xe qua cầu Trường Tiền 6 vài
12 nhịp, vô nhà nghỉ kịp, liền lột đồ bé ra mạnh tay mạnh chân cho xong dịp phá
trinh. Huế có cậu thanh niên tuổi trẻ tài cao đi xe máy vô ngân hàng sát cửa
Đông Ba, với khẩu súng giả hăm he, đã cướp lấy một bao bố tiền bác Hồ nhìn
thẳng trong vòng 45 giây, nhanh tới mức chàng bảo vệ chẳng kịp phản ứng. Huế có
chán vạn nhân vật “đình đám” khác mãi lưu danh thiên cổ (viết ra làm chi những
Nguyễn Đắc Hoàng Phủ cho tốn giấy). Hiểu một mặt khác, Kyoto tuồng vẫn còn thấp
kém lắm, so bì chi được với đất Thần Kinh, đẻ ra ông Trần Vàng Sao:
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất.
Tui cũng rứa, tui chẳng biết thù ai mặc dù tui không là múi chanh bị vất vỏ
đến độ phải chửi mả cha cuộc đời. Tui cũng người Huế nhưng Huế ba rọi, Huế trên
giấy khai sinh mà khai sinh thì đã nổi trôi chìm đắm trên chuyến vượt biển một
đêm tối trời ở biển Thuận An lắm hồn oan. Giờ ni tui làm dân Canadien, ở ngay
trên đất Montréal sử dụng tiếng Pháp. Tiếng Pháp họ nói thì dân bên Paris qua
thăm thú cũng ngẫn tò te đực mặt như ngỗng ỉa. Một thứ ngôn ngữ cổ xưa như biết
thêm dấu nặng. Vô tình, vì rứa mà tui có cảm tình, họ chửi thề và tui yêu thứ
ẩn ngữ khó hiểu “hậu hiện đại”kia: Tabarnak là một, Calisse là hai. Độc cô cầu
bại chẳng sợ đụng hàng.
Chôn chân ở đây, tui không trông mong chi ngày hoà bình để về nhìn lại mặt
Huế xưa. Mỗi khi nghe tin (toàn cả tin khó tin) bên xứ cũ vọng qua (xứ có hơn
mấy chục ngàn ông bà tiến sĩ chịu cúi đầu nghe sai bảo dưới các đồng chí học
lực chỉ xong bậc tiểu học) tui đều phát âm Tabarnak. Calisse.
Học vị tui cũng thường thường bậc trung, chỉ biết cày sâu cuốc bẩm trên
những “mặt trận lao động chân tay”. Tuy thất học nhưng tui chưa từng bội bạc
tình nghĩa mà dân bản xứ rộng lòng trao cho. Không có thứ thước đo nào để bạn
mang ra nhằm đối chiếu, so sánh được. Đừng ví Montréal này là đất lạnh tình
nồng, giả dụ thế. Đừng hoán đổi nó với một thiên đường hạ giới nào cả. Đừng
thấy nhà sang rồi bắt quàng làm họ. Chỉ tổ làm rõ thêm sự xuẩn động, mưu hồ
khẩu yếu kém mình mang.
Thành phố này cũng là nơi có nhà thơ Luân Hoán định cư. Năm mới, ông có làm
lắm bài thơ nhẫm tính thời gian trước khi lìa bỏ cuộc chơi ký gửi nỗi lòng lên
facebook. Trái với sự tỉnh táo đi gần tới mức yếm thế của Luân Hoán, nhà thơ Hồ
Chí Bửu đùa nghịch:
Về trời đâu có quai phai (wifi)
Đây có phây bút mà nhai nỗi sầu
Thôi thì ta chẳng về đâu
Trần gian chơi tiếp mặc dầu… hết pin.
Khi đã hết pin, lãnh đạo xứ ấy dùng chữ thậm ấn tượng: “Thanh thản cỡi ngựa
sắt về trời vui thú điền viên”. Rất dễ nể, dễ dằn mặt các thi sĩ khi họ muốn
cách tân thi ca. Tui người Huế lưu vong từ muôn kiếp trước, Huế ba rọi nên chi
cũng cọp dê một chút thơ cho ra vẻ mình biết tí ti tiếng Pháp:
Chiều chiều dạo phố la rue
Bỗng thấy đằng xa một jeunne fille
Tuổi tác xuân xanh còn petite
Hình dung mặt ngọc cũng jolie.
Khà khà. Lỡ mang tội đạo thơ của ai kia thì e cũng dễ thứ tha lỗi lầm. Còn
hơn bạn mắng tui: Thằng người Huệ kia, tao biết gia đình dòng họ ba đời nhà mày
chính chuyên vô sản nổi tiếng ở thành phố Kỵoto. Cớ sao mày không chịu nói
tiếng Nhật: Tao đi ga ni, mi đi ga mô… Tabarnak!
Hồ Đình Nghiêm