Sức khoẻ tinh thần của tôi tương đối bình thường và
ổn định. Chỉ “tương đối” thế thôi vì đôi khi tôi vẫn hay bị buồn
ngang, nhất là sau những giấc ngủ muộn màng, chợt mở mắt và thấy
mình đang trơ trọi ở một nơi hoàn toàn xa lạ.
Chán viết, lười đọc, bạn không, rượu cạn nhưng thay vì khoác áo đi kiếm thêm vài chai thì tôi chỉ nằm lắng nghe đám học sinh (ở ngôi trường tiểu học kề bên nhà trọ) hò hát – dù chả hiểu chi. Hoá ra trẻ con của nước Cambodia cũng hay được dậy dỗ hát hò y như mình, lúc còn thơ ấu.
Những bài hát mà chúng tôi được học, cách đây hơn
nửa thế kỷ, không hề có trong chương trình của Bộ Quốc Gia Giáo Dục
ở miền Nam. Tất cả đều hoàn toàn do ngẫu hứng của thầy cô. Do đó,
ca từ không có lời nào nhắc đến râu (dài) tóc (bạc) của bất cứ vị
lãnh tụ nào ráo trọi mà thường thì chỉ liên quan đến những con vật
ngây ngô (và quen thuộc) trong đời sống hằng ngày:
- Em
có nuôi một con chó, trông nó to như con bò. Sáng nó kêu gấu, gấu, gấu…
- Kìa
đàn vịt bơi dưới ao hồ. Thằng bờm xờm vác cây đuổi đánh. A ha ha
nó kêu quác quạc quác quạc …
- Hai
chú gà con đi chơi với nhau. Chú che cái dù, chú đội mũ trên đầu
…
Thảng hoặc, cũng có những bản hùng ca:
- Đây
Bạch Đằng Giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống
Lạc Hồng, giống anh hùng Nam Bắc Trung …
Hay:
- Toàn dân! Nghe chăng? Sơn hà nguy biến!Hận thù đằng đằng! Biên thùy rung chuyển…
Chúng tôi thích ca bè. Nửa lớp bên này:
- Trước
nhục nước nên hòa hay nên chiến?
Nửa lớp còn lại hét lên:
- Quyết
chiến!
Rồi đổi bên:
- Thế
nước yếu lấy gì lo chiến chinh?
Bên kia lại gào lên:
- Hy
sinh!
Chúng tôi thích hò hét và gào thét (“quyết chiến” –
“hy sinh”) chơi cho vui, chứ chả đứa nào hiểu rõ nghĩa của những cụm
từ (“sơn hà nguy biến” – “biên thùy rung chuyển”) nghiêm trọng đến thế.
Thế mà hơn nửa thế kỷ đã qua. Thằng nhỏ năm xưa
(nay) đã thành một ông già bước vào tuổi thất tuần. Nhiều
chiều nó nằm cô quạnh trong một căn nhà trọ – ở một góc trời buồn –
hát nho nhỏ (“Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến? Quyết chiến”)
chỉ cho chính mình nghe, rồi không dưng mà muốn trào nước mắt!
Lấy cái con bà gì ra để chiến?
Hơn 10 năm trước, vào ngày 24 tháng 7 năm 2009, trong buổi
tọa đàm Biển
Đông & Hải Đảo Việt Nam nhà văn Nguyên Ngọc đã nói đến “sức mạnh
của nhân dân” như là yếu tố quan trọng nhất trước hiểm hoạ ngoại xâm. Hai hôm
sau, ông Hà Sĩ Phu cũng long trọng khẳng định: “Chân lý muôn đời là chỉ có Dân
mới cứu được nước.”
Nay, quý vị thức giả trong và ngoài nước, cũng vẫn
đang loanh quanh với chuyện lòng dân và thế nước. Lòng dân hiện tại ra
sao?
Xin hãy nghe đôi lời tâm sự của một người dân vừa
rời bỏ quê hương, và nhất quyết sẽ không ngoảnh đầu nhìn lại:
Tôi đi vì tương lai của con trai tôi, thằng Tí Hớn.
Khi Tí Hớn sinh ra trong bệnh viện, tôi phải trải qua cảnh
hối lộ cho bác sĩ tiền, người ta nói rất thẳng phải bồi dưỡng ca này, kíp kia
ngần này, ngần kia.
Là dân giang hồ, tôi từng hối lộ cho công an nhiều lần.
Khi sinh con ra, tôi phải hối lộ cho bác sĩ. Như một thói quen, chuyện hối lộ
trở thành bình thường trong xã hội Việt Nam, nó bình thường đến nỗi tôi thấy nó
là việc tự nhiên không có gì đáng phải nghĩ về nó cả.
Những người nhận hối lộ ấy, họ cũng phải hối lộ cấp trên
của họ để làm việc được chỗ ấy. Để cho họ yên tâm làm việc phục vụ mình, đóng
góp cùng với họ để họ có vị trí ấy yên ổn thì có gì đâu.
Nhưng rồi một ngày không lâu sau khi Tí Hớn ra đời, tôi
nhận ra rằng, nếu con tôi lớn lên trong một xã hội mà những nghề cao quý như
công an, nhà giáo, bác sĩ lại thản nhiên đòi tiền hối lộ như thế , con tôi sẽ sống
thế nào.
Tôi có phải dạy nó rằng chuyện hối lộ như vậy là điều
bình thường không ? Bạn nghĩ xem, một đất nước mà đầy rẫy những kẻ dối trá từ y
tế, hành pháp, giáo dục và cả tôn giáo nữa, tôi có nên để cho con mình ở đó
không ? (Người Buôn Gió. “Đầu Không Ngoảnh Lại.” Dân Luận –
07/10/2019).
Quan niệm cá nhân của một blogger (vốn là một thị
dân) về đất nước, tất nhiên, không thể tiêu biểu cho cả một dân tộc
mà đại đa số sống ở nông thôn. Những nông phu (đội sương nắng bên bờ
ruộng sâu/vài ngàn năm đứng trên đất nghèo) không mấy ai có ý nghĩ rời
bỏ quê cha đất tổ. Họ sống ra sao?
“54 năm qua, những người nông dân không một ngày ngừng cày
cuốc, gieo trồng với tất cả những đức tính cần cù trên cánh đồng của họ. Họ đã
lao động không hề than thở, họ đã hy sinh không hề than thở. Nhưng sau 54 năm,
họ ngẩng đầu lên nhìn lại con đường của họ đã đi. Và họ kinh hãi nhận ra: họ đã
đang đi theo một vòng tròn. Họ đang có nguy cơ trở lại điểm xuất phát… Tôi mang
cảm giác người nông dân bị bỏ mặc và trở nên bơ vơ trên cánh đồng đầy nắng mưa,
bão gió”. (Nguyễn Quang Thiều. “Thư Của Đứa Con Những
Người Nông Dân.” Vietnamnet – 26/06/2009).
Má ơi, nếu họ được “bỏ mặc trên những cánh đồng đầy nắng
mưa” để “cần cù cầy cuốc gieo trồng” thì may mắn và quí hoá biết chừng nào. Từ
thưở lập quốc đến nay, nông dân Việt Nam có bao giờ dám than thở hay mong mỏi
điều gì khác nữa đâu.
Chỉ sợ họ lại bị bắt xỉa xói đấu đá lẫn nhau cho đến chết,
rồi vào hợp tác xã nông nghiệp (thay trời làm mưa, nghiêng đồng cho nước chẩy
ra ngoài) nay buộc trồng lúa thần kỳ, mai buộc trồng cây cao lương … – những
nông phẩm mà sản lượng chỉ thu hoạch được … trên đài và báo!
Chưa hết:
“Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại
hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất”
và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội
“thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà
ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với
đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên
Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
Từ đó, Việt Nam trở nên một “cường quốc của dân
oan.” Giới người này vật vạ, la lết, lang thang, vất vưởng trên khắp
mọi nẻo đường đất nước hoặc “co dúm thút thít” trong mảnh đất (còn
lại) mà diện tích chỉ đủ dựng một túp lều, kỳ dư đã bị thu hồi
với giá đền bù “mỗi m2 bằng giá một… cốc bia” – theo như ghi nhận của
blogger Đào
Tuấn.
Sẽ có bao nhiêu người dân ở Lộc Hưng, Văn Giang, Dương
Nội, Long An, Cần Thơ, Đồng Nai, Dak Nong … sẵn sàng “hy sinh” mạng sống
khi “sơn hà nguy biến” hay “biên thùy rung chuyển”?
Lòng dân đã vậy. Thế nước thì sao ?
G.S Tương Lai buông
thõng, vỏn vẹn, chỉ có hai từ ngắn gọn nhưng hoàn toàn chính xác:
– Chông chênh!
Chủ trương, đường lối, chính sách nhất quán và xuyên
suốt là “đi dây” mà không “chông chênh” thì mới là chuyện lạ. Thế
nước thì chông chênh, quốc khố thì trống rỗng, dù “mỗi
quả trứng gà phải cõng đến 14 loại thuế phí.”
Giới lãnh đạo bất tài, phân hoá, ngu dốt và tham lam
vô độ … nên phải quỳ xuống cắt biển và dâng đất để giữ lấy thân
(cùng của cải) là hệ quả tất yếu. Dân Việt làm sao thoát Trung, nếu
không tiên quyết (và cương quyết) thoát khỏi cái đám Cộng Sản gian tà
này.
Tưởng Năng Tiến