-Ba con vẫn còn mất tích mà!
Đó là cái lý của mẹ mỗi khi chị em tôi tính chuyện lập bàn
thờ cho ba. Mẹ vẫn hy vọng một ngày nào đó ba sẽ đột ngột quay về.
Lần cuối cùng ba về là tết năm Quý Mão nhưng chỉ ở nhà được
mỗi ngày Mồng Một là ba phải về đơn vị vì tình hình chiến sự ngày đó nóng lắm.
Sau tết, tin từ các mặt trận ngày một xấu. Tây nguyên thất thủ, Quảng Trị đánh
lớn rồi thất thủ, quân VNCH rút về Huế rồi co cụm tại Đà Nẵng. Tiếp đến là tin
mất Tam Kỳ, Nha Trang, cuối cùng là trận cầm cự đẫm máu Xuân Lộc rồi miền nam
thất thủ hoàn toàn.
Từng ấy ngày diễn ra chiến sự, mẹ tôi đứng ngồi không yên. Không đêm nào bà trọn giấc, cứ thấp thỏm lo cho ba tôi giữa làn tên mũi đạn.
Tin Sài Gòn giải phóng qua radio, mẹ tôi thở phào:
-Vậy là hoà bình rồi! Hết đánh nhau rồi! Ba con sẽ sớm trở về
thôi.
Bà hy vọng sẽ một đêm có tiếng gõ cửa đánh thức để bà được
ôm ba tôi khi ông đột ngột xuất hiện. Rồi tiếng gõ đợi chờ cũng đến. Đêm đó
nghe tiếng gõ, mẹ bật dậy sung sướng: “Ba con về!”. Bà ào ra mở cửa. Bà và hai
chị em tôi sững người. Không phải ba mà là ba người cách mạng. Một người mặc đồ
dân sự, hai người còn lại mặc đồ bà ba mang súng.
Mẹ tôi mời họ ngồi. Người cán bộ dân sự từ tốn:
-Tôi đến hỏi tin tức anh nhà. Đã hơn một tháng vẫn chưa thấy
anh ấy lên trình diện chính quyền cách mạng.
Lúc đầu mẹ tôi nghe sợ nhưng nghe người cán bộ nói mẹ cũng
an lòng, bà đáp:
-Tôi cũng mong anh ấy về hoặc tin tức về anh nhưng đến nay vẫn
chưa thấy. Khi nào ảnh về tôi sẽ bảo ảnh nhanh lên trình diện. Gia đình cũng
mong các anh giúp đỡ, nếu có tin tức gì về chồng tôi xin báo cho gia đình tôi
biết.
Họ đi ra, để lại niềm hy vọng cho mẹ tôi hết tính bằng ngày,
chuyển qua tháng rồi tính bằng năm. Ba tôi vẫn biền biệt.
Những ngày sau đó là những ngày khốn khổ. Gia đình tôi là
gia đình nguỵ quân. Mẹ tôi xoay xở đủ thứ để lo cho ba miệng ăn. Của cải rồi vật
dụng trong nhà từ dây chuyền, hoa tai sau đến quạt máy, bàn là… cái gì bán được
mẹ cũng bán để lo cho cuộc sống khốn khó của ba miệng ăn.
Chị em tôi đi học lại nhưng ba năm sau chị phải ở nhà cùng mẹ
bươn chải, bán bánh, bán xôi ở bến xe để có tiền lo cho cái ăn cái mặc và để
nuôi tôi đi học. Khổ quá, dù cật lực cũng không đủ ăn, chị tôi xin đi công nhân
đường sắt. Mẹ tôi thương con rướm nước mắt nhưng không còn đường nào khác. Tôi
cũng muốn nghỉ học để đi kiếm việc làm nhưng mẹ nhất quyết không cho. Mẹ buồn
buồn: “Chị con nghỉ học giữa chừng mẹ đau lòng lắm rồi, con mà nghỉ nữa, ba về
mẹ ăn nói với ba sao đây!”
Mẹ tôi vẫn hy vọng. Khắp trại cải tạo từ nam ra bắc, ai bà
biết có người thân cải tạo cũng nhờ hỏi tin tức về ba tôi. Bà vẫn đợi chờ,
không có tin trong nước, bà mong tin từ nước ngoài. Biết đâu ba tôi đã được định
cư ở một quốc gia nào đó.
Tôi tốt nghiệp cấp 3, định nộp đơn thi vào đại học nhưng đơn
tôi đã bị gạt khi chưa kịp đến “vòng gửi xe” vì lời nhận xét trong lý lịch:
Cha: Đại uý, sĩ quan ác ôn nguỵ.
Tôi chán nản không thiết gì với tương lai giờ chỉ lo tìm việc
gì kiếm được tiền giúp mẹ.
Nghe ý định mở quán sửa xe đạp, mẹ tôi ủng hộ. Bà chắt bóp đồng
tiền kiếm được và vay mượn thêm mua cho tôi bộ đồ nghề. Nhà tôi mặt phố nên tôi
làm quán sửa xe ngay tại nhà.
Từ sửa xe đạp tôi mày mò tìm hiểu rồi sửa được xe máy honda.
Tuy không khá mấy nhưng cũng có được đồng tiền giúp mẹ. Năm năm sau chị tôi lấy
chồng xa, mẹ tôi cũng yếu dần vì gánh xôi trên vai mẹ. Một hôm mẹ về bảo tôi:
-Con nè! Mẹ nghe ngoài bến xe họ nói là từ nay thi đại học họ
bỏ xét lý lịch. Hay là con nộp đơn thi thử.
Tôi cười buồn:
- Năm năm rồi, chữ thầy đã trả cho thầy, còn nhớ chi đâu mà
thi hả mẹ!.
Mẹ vãn động viên:
- Con từng là học sinh giỏi nhất trường mà! Con thử ôn
lại hay đi học thêm, mẹ dành dụm được ít tiền chắc cũng đủ cho con học.
Tôi tìm hiểu và đúng như mẹ nói. Trong công cuộc “mở cửa”
nhà nước đã bước đầu “mở trói”, bớt phân biệt thái độ chính trị, trước hết là
cho thành phần con em gia đình dính líu đến chế độ cũ được học đại học.
Tôi bỏ ra ba tháng ôn luyện kiến thức cơ bản, vốn gần như
quên sạch. Sau đó bằng đồng tiền tích cóp ít ỏi, tôi lùng mua các cuốn sách luyện
thi đại học. Tiền mẹ cho, tôi xin ghi tên học mấy khoá luyện thi đại học cấp tốc.
Đúng vậy, lần này làm lý lịch, phần chứng nhận của phường chỉ
ghi: Lý lịch khai đúng như hồ sơ tại địa phương. Tôi nộp hồ sơ thi vào đại học
kinh tế.
Tôi đậu đại học. Mẹ tôi mừng phát khóc khi tôi đọc điểm thi
trên giấy báo khá cao để khoe mẹ.
Tôi vào trường đại học trong điều kiện cực kỳ khốn khó. Chị
tôi không đủ sức lo cho gia đình chị thì làm sao có thể giúp tôi. Đôi vai mẹ
cũng không còn sức nuôi tôi trên gánh xôi đi - về của mẹ. Tôi chống chọi với miếng
ăn nơi thành phố đã khó huống gì việc học. May mà trong cái khó ló cái khôn.
Trường đại học có một khoảnh đất hẹp, cỏ mọc giáp đường. Tôi lên ban giám hiệu
trình bày hoàn cảnh, xin được đặt tạm cái lều chỗ đó để làm quán sửa xe. Thông
cảm hoàn cảnh của tôi, nhà trường đồng ý. Vậy là tôi đã có cần câu cơm. Một buổi
đi học, một buổi tôi thay bộ đồ, làm anh thợ sửa xe bên cái quán tềnh toàng với
cái tên rất gợi: “Quán sửa xe Sinh viên”. Tôi sửa chủ yếu xe đạp cho sinh viên.
Giá cả cũng rất “sinh viên” vì ai cũng nghèo mà!
Qua gần 4 năm tôi bám trụ “cần câu cơm” để học và để mơ về
tương lai của mình. Có lẽ ở trường tôi là sinh viên nổi tiếng với 3 cái nhất:
Sinh viên già nhất, nghèo nhất và… giỏi nhất khoá.
Giữa học kỳ 1 năm cuối, trường có buổi hội thảo về thị trường
Châu Âu. Diễn giả là một tiến sĩ người Thuỵ Sĩ, Dr Moolie Hoods.
Sinh viên tham dự phần lớn do tính hiếu kỳ vì ngày đó khái niệm “kinh tế thị
trường” còn lạ lẫm lắm, có lẽ trừ tôi ra. Từ khi đọc được cuốn Economics: An
Introductory Analysis của nhà kinh tế học người Mỹ, Paul Samuelson, tôi hiểu rằng
kiến thức kinh tế học được ở nhà trường chỉ là hạt cát, nhiều khi những điều học
từ giáo trình xem ra rất phản quy luật. Do vậy được tham gia dự thính buổi hội
thảo với tôi là cơ hội quý giá nhất để hiểu biết thêm về nền kinh tế châu
Âu tư bản.
Tôi chăm chú nghe ngài Hoods giới thiệu về kinh tế châu Âu
trong giai đoạn tiền hợp nhất thành EU và tương lai sắp tới mà cứ há hốc mồm.
Tôi không cần nghe qua phiên dịch, thậm chí người phiên dịch trong nhiều ngữ cảnh
dịch rất tệ. Tiếng Anh với tôi cũng không khó khăn gì vì từ hồi 5 tuổi, ba tôi
đã gửi tôi vào trường của hội Việt - Mỹ nên sau 7 năm, tiếng Anh đã trở thành
ngôn ngữ thứ hai của tôi rồi. Thời gian gần đây tôi thích tìm đọc các sách báo
bằng tiếng Anh và nghe đài nước ngoài nên vốn liếng Anh ngữ của tôi ngày được
nâng cao.
Sau bài giới thiệu về nền kinh tế châu Âu, ngài Hoods khuyến
khích sinh viên đặt câu hỏi để ông trao đổi, trả lời. Chỉ một vài sinh viên đứng
lên dè dặt đặt câu hỏi mà kiến thức chủ yếu không vượt qua được những gì tiếp
thu tại giảng đường.
Vẻ thất vọng thoáng hiện trên khuôn mặt ngài Hoods. Đợi
không còn ai hỏi nữa, tôi đứng dậy đặt câu hỏi bằng tiếng Anh. Mắt ông sáng lên
đầy thú vị vì chỉ có tôi là sinh viên trao đổi trực tiếp bằng tiếng Anh với
ông.
Diễn đàn trở nên hấp dẫn vì cuộc trao đổi và tranh luận bằng
tiếng Anh chỉ có tôi và ngài Hoods. Sinh viên chủ yếu ngồi nghe chứ phần lớn
không hiểu hết chúng tôi tranh luận về đề tài, nội dung gì, chỉ biết rằng họ rất
ngưỡng mộ mỗi khi tôi đối đáp bằng tiếng Anh và được ngài Hoods gật đầu kèm với
nụ cười.
Buổi chiều, khi tôi còn loay hoay trong bộ đồ dính đầy dầu mỡ
để sửa xe thì bỗng nghe tiếng gọi: “Hi!”. Tôi ngẩng lên thì ngài Hoods tay cầm
máy ảnh vừa nháy tôi một pô. Tôi đứng dậy chào, đưa tay bắt nhưng sực nhớ tay
mình đang nhem nhuốc, định rụt về thì ngài đã bắt tay tôi lắc mạnh, cười tươi
thân thiện: “No problem! you’re good!”. Tôi lấy chiếc ghế đòn, phủi bụi mời ông
ngồi. Ông đưa máy ảnh chụp “gara” tôi thêm vài kiểu nữa rồi ngồi xuống ghế. Cứ
tưởng sau buổi hội thảo khi sáng ông đã đi rồi. Ông bảo đoàn ông còn buổi chiều
làm việc với nhà trường về việc tài trợ học bổng tương lai. Người phụ trách
đoàn ông đang làm việc với ban giám hiệu, ông tranh thủ dạo chơi quanh trường
chụp mấy kiểu ảnh làm kỷ niệm và không ngờ gặp tôi nơi đây. Ông hỏi tôi về gia
đình, về tài chính học tập. Tôi kể sơ về hoàn cảnh của mình và cười chỉ bộ đồ
nghề sửa xe bảo là “nhà tài trợ tài chính” cho tôi suốt 4 năm đại học. Ông cười,
trong nụ cười chứa đầy thông cảm. Cuối buổi ông hỏi tôi là có khi nào nghĩ đến
du học nước ngoài không? Tôi lắc đầu bảo là tôi sống được để học là nhờ cái
“gara” này thì lấy tiền đâu mà ra nước ngoài. Chỉ mong học xong có được việc làm
là mừng lắm rồi.
Ông chia tay tôi bằng nụ cười với ngón tay “number one” cùng
với một lời khen: “good!”
Một tháng sau, một người bạn học báo là tôi có thư từ nước
ngoài. Tôi mừng phát run, chạy lên văn phòng khoa. Cứ nghĩ là ba tôi ở một nơi
nào đó gửi về. Nhưng khi nhận thư, xem lại là thư ngài Hoods gửi cho tôi. Tôi đọc
thư. Dr Hoods kể rằng đã đọc qua học bạ của tôi, về nước ông đã trao đổi với
viện công nghệ danh tiến của Thuỵ Sĩ là ETH Zurich và xin cho tôi được 1
suất học bổng toàn phần để làm luận án Master sau khi tôi tốt nghiệp đại học.
Kèm theo thư là các tài liệu giới thiệu về trường ETH Zurich cùng các mẫu
đơn và bản hướng dẫn về hồ sơ xin học bổng.
Dù không phải thư của ba nhưng tôi mừng khôn xiết. Úp lá thư
ngài Hoods vào ngực tôi nhắm mắt cho cơn mơ vượt khỏi dải đất hình chữ S bay đến
tận trời Âu.
Tôi tốt nghiệp với tấm bằng loại giỏi. Theo hướng dẫn, tôi
làm đơn và gửi cho viện ETH Zurich rồi chờ đợi. Một tháng, hai tháng tôi đợi
thư trả lời từ Thuỵ Sĩ nhưng đến tháng thứ ba thì hy vọng trong tôi tắt lịm.
Tôi lại quay về thực tại là mơ ước được một chân nhân viên quèn ở bất kỳ công
ty nào để có việc làm.
Trong cơn tuyệt vọng thì ngài Hoods như từ trên trời rơi xuống.
Ngài quay lại Việt Nam tìm tôi vì tin chắc có chuyện không hay nào đó xảy ra với
tôi vì ngài đã liên hệ với viện ETH Zuủich. Họ báo rằng đã gửi thư chấp nhận đến
2 lần nhưng không thấy tôi liên hệ lại. Khoá học mới đã học 1 tháng nhưng
không có tên tôi nên ông quyết định sang tìm tôi. Khi biết tôi chưa nhận được bất
cứ thư nào, ông đã hiểu ra. Ông cầm tay tôi động viên: “Đừng từ bỏ hy vọng, anh
bạn trẻ! Tôi sẽ làm hết sức mình”.
Ông chia tay tôi bay ra làm việc và nhờ đại sứ quán Thuỵ Sĩ
tại Hà Nội can thiệp. Chưa đến một tuần, hai thư chấp nhận của viện ETH Zurich
gửi các tháng trước đã đến được với tôi.
Nửa tháng sau tôi từ giã mẹ và chị, bay qua châu Âu bằng
vé máy bay do ngài Hoods tài trợ.
Năm sau, tôi đã xong luận án Master rồi được luôn học bổng
toàn phần để lấy bằng tiến sĩ về kinh tế tại viện ETH Zurich danh giá. Thời
gian học tập tôi luôn được sự giúp đỡ chân tình của Dr Hoods. Ông là ân nhân,
là bạn và là đối tác của tôi sau này. Ngày nhận bằng tiến sĩ, tôi không có mẹ
bên cạnh để tri ân nhưng tôi được hân hạnh có ngài Hoods thay mẹ trong buổi
vinh dự trao bằng. Ngài rất tự hào về tôi. Hôm sau, một tờ báo Thuỵ Sĩ với tít:
From a bicycle repair student to a doctor of the prestigious university.
(Từ một sinh viên sửa xe đạp đến tiến sĩ của một đại học
danh tiếng)
Bài báo với hình tôi ngồi sửa xe mà Dr Hoods chụp năm xưa
cùng với hình ảnh tôi tươi cười nhận bằng tiến sĩ hôm qua chiếm hẳn một trang
báo. Thì ra bài là của Dr Hoods viết về tôi.
Từ bài báo này, cùng với lời giới thiệu của Dr Hoods mà Viện
Nghiên cứu chiến lược kinh tế Đông Nam Á Thuỵ Sĩ (gọi tắt là IESSAS) mời
tôi về làm việc.
Một năm sau, IESSAS mở văn phòng đại diện tại Việt Nam ngay
trên thành phố quê tôi,. Tôi được cơ hội trở về với quê hương cùng mẹ, cùng chị.
Tôi trở thành cầu nối giữa Việt Nam - Thuỵ Sĩ về quan hệ
kinh tế. Các nhà đầu tư Thuỵ Sĩ qua giới thiệu của tôi đã đầu tư rất nhiều dự
án tại Việt Nam đặc biệt là tại thành phố nơi tôi sống. Trường đại học kinh tế
nơi tôi từng học, qua mối quan hệ với Dr Hoods tôi đã tìm được nhiều suất học bổng
sau đại học cho các khoá sinh viên sau này.
Trên Facebook cá nhân, tôi đặt ảnh ba tôi làm avatar và hình
nền là ảnh tôi ngồi sửa xe năm xưa mà Dr Hoods chụp tặng tôi. Thỉnh thoảng mở
facebook, tôi lại được nhìn ba tôi cười. Nhìn chân dung thời trai trẻ trong bộ
quân phục lính dù mà tôi thầm ngưỡng mộ. Cám ơn ba, cuộc đời này con luôn tự
hào được là con trai của ba. Tôi nhìn hình nền để được nhắc nhở rằng: Dù hôm
nay tôi có là tiến sĩ danh giá thì quá khứ năm xưa, tôi đã từng là cậu sinh
viên sửa xe đạp để tự nuôi mình.
Một đêm, nghe messenger báo tin nhắn, tôi tỉnh thức, nhìn
màn hình điện thoại, có ai đó nhắn cho tôi:
-Xin chào!
Tôi nhắn lại: “Xin chào!”
Nhìn nick name là John Le, tôi đoán là một Việt kiều. Người
đó nhắn tiếp:
-Xin lỗi, cháu có phải là con trai của đại uý Giang, Hoàng
Thanh Giang, không?
Tôi bật dậy, tim đập dồn. Tôi nhìn avatar của người đang
chat. Đó là người đàn ông ở tuổi 70 trong quân phục lính dù, mũ đỏ giống quân
phục ba tôi. Đôi đáp:
-Dạ, đúng rồi, con là con trai của ba Giang. Bác biết ba con
à?
-Bác là trung uý Tá, Lê Văn Tá là đại đội phó của ba con.
Tôi mừng rơn mà tim đập thình thịch.
-Vậy bác có biết tin tức gì về ba con không?
Bác không đáp mà hỏi lại: - Vậy từ đó đến nay con không có
tin tức gì về ba à?
-Dạ không, con và mẹ không biết ba còn hay mất.
Một lát lâu bác nhắn lại: - Ba con mất rồi!
Dẫu biết câu trả lời sẽ không chút hy vọng nhưng lời chat của
bác làm tôi không khỏi bàng hoàng.
-Ba con mất ở
đâu? Khi nào? Bác biết không?
-Ba con mất trên
cầu Sài Gòn vào buổi sáng 30/4/1975.
Rồi bác kể: Sáng
hôm đó đại đội ba tôi chỉ còn hơn 10 người. Vì bị truy kích nên phải rút về cố
thủ trên cầu Sài Gòn. Cuộc giao tranh ác liệt vẫn chưa dừng lại. Quân số và
súng đạn không thể đối chọi với quân giải phóng. Phải rút tiếp thôi! Ba tôi
cùng hai đồng đội bò lên phía trước thu hút hoả lực địch để toán còn lại phía
sau có cơ hội thoát lui. Khi trung uý Tá cùng các chiến hữu về được bên trong cầu
Sài Gòn thì hoả lực đã nổ tung khiến thân xác ba tôi cùng hai chiến hữu của ông
bị hất tung lên rồi rớt xuống sông. Khi trung uý Tá rút về đến ngã tư Hàng Xanh
thì trên loa truyền thanh, Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và yêu cầu các lực
lượng quân đội VNCH bỏ súng.
Tôi ngồi úp mặt
vào lòng hai bàn tay. Tưởng tượng lại phút giây chiến đấu không cân sức nhưng
bi hùng của ba tôi năm ấy trên cầu Sài Gòn mà nước mắt giàn dụa. Bình tâm lại
tôi gọi điện thoại cho mẹ. Mẹ tôi nghe máy khi nghe tôi báo là đã có tin tức của
ba. Câu đầu tiên mẹ hỏi là “ba con giờ đâu rồi?” Tôi ngậm ngùi kể lại nội dung
vừa chat với bác Tá. Mẹ tôi im lặng nghe tôi kể, khi tôi nghe mẹ nấc lên trong
điện thoại là mẹ tắt máy.
Ngày hôm sau mẹ
điện thoại bảo là tôi đưa mẹ vào cầu Sài Gòn được không? Tôi bảo được. Chiều
hôm sau, theo chuyến bay, mẹ, chị và tôi vào Tân Sơn Nhất rồi đón taxi đến cầu
Sài Gòn.
Chúng tôi đi bộ dọc
theo thành cầu mà mường tượng trận đánh cuối cùng năm xưa. Cầu Sài Gòn người xe
như mắc cửi. Dưới cầu, sông Sài Gòn lượn lờ mang những mảng lục bình trôi về biển.
Trong dòng nước bao la ấy, thân xác, thịt da ba tôi cùng với bao người của hai
chiến tuyến và những người dân vô tội năm xưa, bao năm nay đã bị rửa trôi về
cùng biển mặn. Chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau vẫn còn ở lại với bao người
trong đó có gia đình tôi. Mẹ thẩn thờ nhìn những mảng lục bình trôi xuôi như cố
tìm dáng hình ba tôi trong ấy.
Qua đến bên kia cầu,
tìm được nơi, tôi thắp bó hương rồi trao nửa bó cho mẹ, nửa còn lại chị em tôi
chia ra cắm xung quanh. Mẹ tôi quỳ hướng về sông, lâm râm khấn. Chắc trên trời
ba tôi đã hiểu nỗi đau trong lời khấn của mẹ. Bà đã đi gần nửa thế kỷ trong
thân phận người vọng phu. Mẹ tôi cắm phần hương trên mô cát gần đó để mặc
cho làn khói bay xa. Tôi mong sao làn khói kia cuốn bớt nỗi đau trong lòng mẹ.
Hương tàn hơn nửa, tôi bảo mẹ:
-Thôi mình về đi
mẹ.
Mẹ không quay lại,
giọng buồn buồn:
-Hãy để hương
cháy thêm lát nữa đi con.
Hai chị em tôi lặng
im, chắp tay đứng sau lưng mẹ, cứ để mẹ thì thầm từ tận đáy lòng với ba tôi
trong cõi hư vô. Nén hương cháy hết, tắt hẳn, mẹ mới quay lại gật đầu: - Mình về
thôi các con!
Vậy là gia đình
tôi chọn 30/4 là ngày giỗ ba tôi. Hôm nay là ngày giỗ đầu tiên của ba. Gia đình
cũng vừa nhận được tin vui là bác Tá, chiến hữu của ba cũng về dự giỗ. Bác bảo
rằng đây là lần về Việt Nam đầu tiên kể từ ngày bác định cư ở Mỹ. Trước khi đáp
chuyến bay tiếp theo về thăm gia đình tôi, bác sẽ đến cầu Sài Gòn thắp hương tưởng
niệm ba tôi cùng đồng đội bỏ mình ngày đó. Hy vọng cuộc tương phùng này, qua
bác, gia đình tôi sẽ biết thật nhiều về đời binh nghiệp của ba, đặc biệt là
trong những ngày cuối của cuộc chiến.
Sáng nay tôi dậy sớm, sửa sang và dâng hoa bàn thờ ba trước khi đi dự buổi lễ kỷ niệm ngày “Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước” do Uỷ ban nhân dân thành phố mời. Vì tính chất trong quan hệ đối ngoại giữa cơ quan đại diện viện nghiên cứu với cấp chính quyền sở tại mà tôi không thể không dự.
Buổi lễ diễn ra hết
sức hoành tráng. Trước khi vị chủ tịch đọc diễn văn là các màn trình diễn múa
vui văn nghệ. Các bài ca đi cùng các vũ điệu tái hiện những giây phút hào hùng
của ngày chiến thắng năm xưa.
Vị chủ tịch lên đọc
diễn văn kỷ niệm ngày chiến thắng. Các điệp khúc “Mỹ cút, nguỵ nhào”, “Chiến thắng
vinh quang dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng” gần nửa thế kỷ được lặp lại
trong giọng đọc đầy tự hào của vị chủ tịch. Trước khi kết thúc buổi lễ, dàn đồng
ca lên sân khấu hát vang bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tôi quay
lại, chỉ có quan khách ngoại giao nước ngoài, kể cả tôi là còn ngồi. Hầu hết hội
trường đều đứng dậy hát theo trong nhịp vỗ tay tự hào.
Khi người dẫn
chương trình tuyên bố bế mạc, tôi đứng dậy. Vị chủ tịch thành phố tiến đến tươi
cười bắt tay tôi. Ông cám ơn tôi vì đã tham dự cùng với lời mời trân trọng:
-Hôm nay là kỷ niệm
ngày chiến thắng, Uỷ ban có tổ chức buổi tiệc trưa long trọng, xin mời anh đến
dự.
Tôi cười đáp lại:
- Rất cám ơn lời mời của anh nhưng trưa nay tôi không thể.
-Anh bận việc gì
à? Vị chủ tịch hỏi lại, tôi rời bàn tay ông còn đang nắm chặt, trả lời:
- Hôm nay là ngày giỗ ba tôi.