“Nhà văn Võ Phiến đã qua đời
vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of
Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi...Nhà văn Võ Phiến là một tác giả
quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là
công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa
cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả,
nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975
và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về
hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn
học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền
thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận,
tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có,
về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm
Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút,
tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết,
Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v... Tại hải ngoại, ông đã bỏ
công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ
nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.”
Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới
thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này được trích
từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng xuất bản lần vào
năm 1973.
Tưởng Năng Tiến
Ông Bình
Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người
Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông
cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.
Như vậy đã
là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người
Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh
khác.(1)
Cũng trong
quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu, tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của
người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên về một nhận xét. Không phải ngạc
nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà
là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt miền Nam
với một người Việt miền Trung, tức một đồng bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với
một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng... tài giỏi
như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!
Một buổi
trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu
tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của người chủ quán.
Ngôi quán
khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn có ngọn điện vàng cạch thả toòng
teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô quần lính, đầu đội chiếc mũ địa
phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da đen, không vớ. Tại sao phải giày
và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là một thói quen, hay chỉ là một
trường hợp ngẫu nhiên nào đó, tức một chi tiết không có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi
vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước mắt tôi lúc này. Hình ảnh
một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.
Mỗi người có
một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái cách của người chủ quán hôm ấy, trời
ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt: chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp
mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô, xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng
qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v. Tất cả bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng,
hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc lên hạ xuống đều như có gì quá
mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy tám phần cần thiết, lại thêm vài
ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu diễn sự thích thú trong công
việc. Ðộng tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa men. Một điệu vũ ca ngợi lao
động.
Ðứng bên chủ
quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu
bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ
đây mới là người chạy bàn chính thức; người đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta
trong chốc lát.
Khi đã đủ
một vợ một con bên mình, chủ quán điều động càng hào hứng:
- Bàn trong.
Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.
- Bàn ngoài,
số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số một.
- Bàn số ba
tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là
trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba, còn lại...
Bà vợ nhắc:
- Hăm bảy.
- Hăm bảy.
Nè!
Ông ta đưa
món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh tay, ông ta chặt một miếng cánh
gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh nhẹn chặt luôn miếng khác, trao
cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa; ăn xong lại ló ra, sẵn sàng...
- Tô nước,
tô khô. Bàn số hai. Rồi!
Cứ thế, chủ
quán làm việc, cắt đặt công việc, điều khiển vợ con v.v., điệu bộ vẫn lại cứ
như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự
hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp của một tổ chức hoàn hảo, một bộ
máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.
Vừa rồi có
lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói của người chủ quán đều có một tiếng
“rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất,
ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ -
ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v. - đến chỗ sau cùng thường được gằn mạnh. Như
thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.
Dầu sao lần
ấy tôi không có một đối tượng quan sát im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng
các lần sau này thì họ im lặng.
Sau buổi
trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ,
và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở
một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn;
nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn
hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.
Những người
ấy họ có cung cách làm việc giống nhau. Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm
một chữ để diễn tả. Tôi loay hoay tìm kiếm... A! Ðây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm
việc “rụp rụp”.
Chữ nghĩa
sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa phương ra đời ở miền Nam này. Thế
mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên,
không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một
sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.
“Rụp rụp” là
một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm
mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí trong sự mau mắn.
- Nhưng tại
sao lại bảo đó là của miền Nam? Ðâu phải người nào trong Nam cũng làm việc rụp
rụp?
- Tất nhiên
đó không phải là tác phong của toàn thể. Cũng không thể nào biết được là tác
phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra sao. Có điều tác phong ấy không gặp
thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện khác...
- Nào, xem
chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng.
Trong một
bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có
câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những tiếng “luôn” dùng kiểu đó
không có trong ngôn ngữ các miền ngoài.
Cũng thế, ở
ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc đường, hành khách lên xe xong, anh “ết”
hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.
Tại sao lại luôn?
Những tiếng “luôn” ấy không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công
dụng. Trái lại, công dụng đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những
tiếng có nghĩa rõ rệt đứng trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”:
tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng “luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch...
luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng “Luôn!”.
Không chừng
đó cũng là trường hợp đã xảy đến cho tiếng “vô”. Mời nhau uống rượu, anh em hô:
“Dô!” Có lẽ thoạt tiên là tiếng “nhậu vô”, “uống vô” chăng? Dần dần tiếng trước
bị lướt phớt qua rồi bị bỏ rơi. Chỉ còn lại tiếng sau; từ một tiếng trợ từ, nó
tiến lên nhận lấy cái nghĩa của các tiếng nhậu, uống.
Trong “chạy
luôn”, nghĩa ở tiếng chạy; trong “hết hồn luôn”, nghĩa ở hết hồn; trong “nhậu
vô”, nghĩa ở nhậu v.v. Còn tiếng “luôn”? Nó thêm vào một thái độ phát biểu,
không thêm gì vào cái ý nghĩa đã phát biểu. Trong “chạy luôn” chẳng hạn, “luôn”
là một tiếng kêu hơn là một tiếng nói: nó phát lên để tỏ thái độ thúc giục, nó
không nói gì về cái nội dung của sự thúc giục ấy. Nó có công dụng về ngữ khí,
chứ không phải về ngữ ý.
Như vậy
trong cách nói này cái nội dung, cái cần thiết, đôi khi bị lướt qua; cái phụ,
có phần thừa thãi, lại được nhấn mạnh.
Lại cái thừa
thãi.
Trong cử
chỉ, một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết; trong lời nói, cũng một chút gì
thừa, vượt quá sự cần thiết. Cử chỉ và lời nói đều được phóng đại lên...
- Vẫn không
có gì rõ rệt.
- Không rõ,
về mặt nào?
- Một dấu
hiệu để phân biệt bản sắc địa phương như vậy không mấy cụ thể.
- Thực ra ở
đây vấn đề không phải là đi tìm một dấu hiệu phân biệt. Cái đó đâu cần tìm kiếm
nữa? Ðã có sự khác nhau thật rõ ràng, thật cụ thể, ấy là cái chỉ số sọ của ông
Bình Nguyên Lộc: cuộc di cư của nhóm Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Ðịch làm cho
đồng bào ta ở miền Nam có xương sọ hơi dài thêm.(2) Kẻ Nam người Bắc tha hồ yên
lặng, ông Bình Nguyên Lộc đo đạc là biết ngay.
Vậy ở đây
không có chuyện tìm một dấu hiệu phân biệt. Chẳng qua là chộp bắt một nét cá
tính phản ảnh trong phong cách, ngôn ngữ. Và hình như sự phản ảnh không dừng
lại ở vài tiếng trợ từ, ở mấy điệu bộ. Hình như trên sân khấu cải lương, một bộ
môn nghệ thuật của miền Nam, chúng ta có cảm tưởng nhận thấy cá tính ấy xuất lộ
ở phong cách diễn xuất...
- Cảm tưởng?
Không có gì rõ rệt.
- Quả nhiên.
Võ Phiến
(1) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách
Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd.,
trang 453.