05 June 2018

LẠC DÒNG - Trương Đình Phượng


Cuối đời nhà Lê đất nước ngày một suy, chính sách hà khắc, lòng người khắp chốn ly tán. Từ trên xuống dưới quan viên lo vun vén lèn cho chặt túi tham. Tiếng ta thán tưởng thấu tận trời. Thế nhưng dân khổ mặc dân, triều đình vẫn bình chân như vại.


Bấy giờ ở huyện Yên Định thuộc Thanh Hóa có một tay học trò tên là Duy Hiếu, chết cả cha lẫn mẹ, sống chung với chị gái và anh trai. Năm Duy Hiếu bảy tuổi anh trai Hiếu chết trận. Năm Duy Hiếu mười tuổi chị gái Hiếu bị quan huyện cho lính bắt về cưỡng hiếp rồi ném xác xuống dòng sông Yên. Từ đó Duy Hiếu sống vật vờ nay chốn này mai chốn khác nhờ vào sự bố thí của người dưng. Mãi đến năm mười bốn tuổi nhân một lần đi qua làng nọ gặp buổi dạy của thầy đồ Duy Hiếu lén lần đến nấp ngoài rào nghe giảng, thầy đồ nhìn thấy chạnh lòng thương gọi vào, từ đó Duy Hiếu được thầy đồ nhận nuôi và dạy chữ. Duy Hiếu có một trí thông minh khác thường. Trong vòng ba năm Duy Hiếu đã học làu tứ thư ngũ kinh. Nhờ biết chữ và thông tỏ sách vở Duy Hiếu càng hiểu rõ hơn hoàn cảnh của mình, và tình cảnh những người dân hèn mọn. Trong khi thiên hạ đua nhau thi thố tìm con đường quan lộ thì Duy Hiếu nhất quyết gác ngoài tai mọi ham mê phú quý, nguyện nối nghiệp thầy.

Duy Hiếu khẳng khái nói:

– Con chỉ muốn sống một đời thanh bần như thầy, đem sức mình dạy cho người ta đạo nghĩa làm người.
Thầy đồ mỉm cười mà rằng:
– Ta tùy con mặc định cuộc đời con. Miễn sao con cảm thấy không thẹn với tâm con là được.
Mấy năm sau thầy đồ qua đời sau một cơn bạo bệnh. Duy Hiếu tiếp tục duy trì việc dạy học. Thời gian trôi học trò ngày một thưa thớt. Đời sống chật vật khiến người dân quanh vùng chẳng ai còn tha thiết việc cho con đến trường, cha mẹ bắt con trẻ ở nhà nai lưng kiếm miếng bỏ mồm. Duy Hiếu chán nản đóng cửa trường, làm kẻ lang thang.
Một hôm Duy Hiếu ghé vào ngôi miếu bên đường nghỉ trưa, mùa hè nắng như rang, thi thoảng mới có tí gió, mà lại là cái thứ gió nóng mắc dịch. Mồ hôi tuôn nhễ nhãi làm Duy Hiếu không thể chợp mắt, nhìn ra con đường trước mặt, vắng tanh vắng ngắt, vài cánh chuồn say nắng chập choạng bay, đàn ruồi rạc rượi bay quanh đống phân bò khô queo. Cám cảnh gã ngâm:

“Chí lớn hề không đựng đầy hai túi nhẵn
Tương lai hề mù mịt như khơi
Ngẫm mình như cánh ruồi
Bòn mót đống phân khô.”

Ngâm dứt gã cười ha hả, theo tiếng cười nước mắt trào ra, ướt đẫm má.
Gã nhìn lên trần miếu, thấy cái máng nhện xung quanh đầy xác muỗi, một con nhện cái to tướng nằm ở giữa say sưa “hưởng lạc” với những con nhện đực, mỗi lần thỏa mãn xong con nhện cái xử luôn bạn tình và biến chúng thành món ăn. Những con nhện đực trong khi chờ đến lượt chậm rãi thưởng thức xác những con muỗi. Nhìn cảnh ấy Duy Hiếu chợt liên tưởng đến số phận những người dân thấp cổ bé họng dưới bàn tay của lũ cường hào ác bá. Họ có khác gì những con muỗi bé nhỏ kia, tháng ngày sống lay sống lứt làm mồi cho lũ nhện? Gã vùng dậy, lấy đất làm trống tay làm dùi, vừa khóc vừa ca:

“Thằng nhỏ hề làm đầy tớ thằng lớn
Thằng lớn vừa hề làm mồi thằng lớn bự
Cá lớn hề nuốt cá bé
Cá lớn hề làm mồi cho thủy quái”

Trời chuyển về chiều, nắng dịu hơn, lũ mục đồng dắt trâu về, con đường đất lất phất bụi, tụi nhóc thấy trong miếu có gã đàn ông ngồi vừa cười vừa khóc tò mò đánh trâu lại xem. Một thằng nhóc mặt sáng sủa hỏi:
– Ê ông kia, bộ ông có chuyện gì buồn hả?
Duy Hiếu đáp:
– Vận nước nổi trôi như bèo trên sông lớn, kẻ sỹ làm lơ, kẻ nghèo thì ngậm miệng, chỉ có bọn vua quan sung sướng với trò bán máu buôn xương.
Một thằng nhóc khác nói:
– Tay này bị điên chúng mày ạ.
Cả bọn cười lêu lêu rồi đánh trâu đi tiếp. Duy Hiếu lẩm bẩm “Phải rồi ta là thằng điên, muôn dân nhắm mắt mà sống cớ gì ta cứ mở trừng con ngươi mà than mướn khóc vay vớ vẩn thế này.”
Mải mê nhìn theo đám trẻ cho đến khi bóng chúng và bóng lũ trâu khuất hẳn sau những bụi tre già Duy Hiếu mới như bừng tỉnh. “Tội nghiệp bọn mục đồng, chúng có biết gì đâu, với chúng việc ngày hai bữa đánh trâu đi đánh trâu về, làm bạn với đồng cỏ mô đất là niềm vui lớn, chứ chúng nào có trí khôn mà quan tâm đến vận nước suy thịnh thế nào.” Duy Hiếu tự nói tự nghe. Hoàng hôn nắng tà chiếu qua mái ngói thủng từng đốm như máu. Từ sau lớp rường cột tiếng mọt gặm nỗi buồn vang lên đứt nối.
Duy Hiếu lại ngâm:

“Nước kìa nước non kìa non
Đường xa ngựa nản chân bọn đường chiều
Mái đời ngày tháng tiêu điều
Gõ tàn chuông mộng, giấc kiều còn đau.
Ngoảnh đầu trước ngoảnh đầu sau
Ngàn chân lẻ dấu biết đâu nẻo về?”

Ngâm dứt, thở dài, gã đứng dậy xách bao nải chệnh choạng bước đi. Trời vào đêm, gió hây hẩy, những thân tre cọ vào nhau tạo nên điệu nhạc buồn miên man. Lẫn trong gió mùi phân trâu mới ngai ngái. Đâu đó trong thôn vẳng lên điệu ca não nề.

“Nước trôi hề trôi
Hoa tan tác
Trăng tan tác
Mênh mênh mang mang hề
Thuyền lạc dòng bến vắng
Nhà đâu tá, thôn đâu tá
Ta về đâu hề
Ai về đâu hề
Biết bao giờ tao ngộ.”

“Hẳn là người thiếu phụ trông chồng, hay là nàng con gái đang xuân mòn mỏi ngóng tình quân?” Duy Hiếu lẩm bẩm, gã lắc đầu lại tự nhủ “mà biết đâu bài ca đó là của một gã bất chí cùng thời than cảnh non nước như ta chăng?” Nói rồi ngẩng đầu nhìn vầng trăng đang lẻ loi trôi giữa nền trời xa thẳm bất giác lệ lại tuôn đầy má.
Bước chân vô định đưa Duy Hiếu xa dần thôn xóm, đường đồng về đêm thoang thoảng hương lúa chín, đóm đóm bay rập rờn hòa lẫn sắc ma trơi khung cảnh càng trở nên thê lệ.
“Đẹp đấy mà cũng bi thảm lắm đấy.” Duy Hiếu dừng chân ngồi thụp xuống bờ ruộng, gió đồng lồng lộn, sóng lúa từng trận.
Bỗng từ bên kia khoảnh ruộng vẳng lại tiếng ca:

“Đêm kìa đêm
Bóng tối triền miên hề
Nhà ai đèn rạng
Thôn trang buồn
Ai thức hề
Nát lòng vì vận nước suy vong”

– Ai đó? Duy Hiếu hét lớn. Hãy cho kẻ cùng đường ta giáp mặt hàn huyên chia sẻ nỗi đớn đau thời cuộc với.
Tiếng Duy Hiếu vang xa rồi dội lại… “thời…cuộc…v…ớ…i…”
Gã vùng dậy men theo đường đồng mà chạy, ngã xuống lại đứng lên. Trong đêm trường u tịch chỉ có tiếng thở hì hục của gã hòa tiếng gió thê lương. Gã chạy đến đâu lũ đóm đóm dạt ra đến đó. Ma trơi ngửi thấy hơi người đuổi theo gã. Trong màn tối ánh sáng ma trơi chấp chới cùng bóng người xiêu vẹo.
Tiếng ca vẫn vang dài trong gió:

“Ai thức hề
Đau vận nước suy vong
Ai ngủ hề quên nỗi hờn thân phận
Ta là ai
Ai là ta
Kẻ lạc loài giữa xứ sở lưu vong
Hề vận nước suy
Đời còn chi đâu tá
Đành ôm nỗi buồn khóc với đêm hoang.”

Lần theo tiếng ca cuối cùng Duy Hiếu đến trước một ngôi lều cỏ. Bên trong ánh đèn hắt qua song cửa sổ rọi ra mảnh sân đầy cỏ dại. Tiếng dế buồn bã dưới vầng trăng.
Bước lại gần gõ cửa, Duy Hiếu gọi:
– Có ai trong nhà không xin cho kẻ lỡ đường tá túc một đêm.
Có tiếng người phía trong đáp lại:
– Ai đó xin chờ một chút.
Sau một khoảng im lặng, phía trong rộn lên bước chân, rồi tiếng kéo chốt cửa. Cửa mở, dưới ánh đèn cầy hiện ra trước mắt Duy Hiếu một người đàn ông tầm sáu bảy chục tuổi, tóc bạc trắng.
– Chào cụ, cảm phiền cho ngủ nhờ một đêm.
– Xin mời.
Duy Hiếu bước theo ông lão vào nhà. Trong nhà đồ đạc đơn sơ. Bộ ghế tre đã cũ. Vách đất dán giấy gió cũng đã ố màu.
Căn nhà đơn sơ chỉ có một phòng khách và một phòng ngủ. Duy Hiếu đành nằm chung giường ông lão. Qua câu chuyện phiếm trước lúc chìm vào giấc ngủ Duy Hiếu kể rõ thân thế mình cho ông lão nghe. Ban đầu ông lão còn giữ kẽ sau dần nghe rõ sự tình hoàn cảnh của Duy Hiếu ông lão đâm cảm mến, thêm phần xót xa. Thế rồi ông lão cũng đem sự thể về thân phận mình mà bày tỏ cùng Duy Hiếu.
Ông lão vốn là hậu duệ của Hồ Qúy Ly sau khi nhà Minh thâu tóm Đại Ngu chúng đã vơ vét hết của cải đem về phương Bắc đồng thời thi hành chính sách ngu dân, chúng ra lệnh cho khắp chốn muôn nơi lùng xục đốt sạch sách vở của người Việt nhằm chôn vùi nền tảng văn hóa và đồng hóa người Việt. Những người mang họ Hồ bị chúng tìm và giết. Bấy giờ để thoát nạn diệt chủng những người mang họ Hồ đành phải đổi sang họ Nguyễn, chia nhau phân tán tứ phương. Ông lão vốn là Hồ Hán Long con cháu của Hồ Hán Thương nay đổi thành Nguyễn Sĩ Cư, nghĩa là tay ẩn sỹ họ Nguyễn.
Hai người say sưa trao đổi qua lại chả mấy chốc mặt trời đã ló rạng phía đông. Ánh nắng chan hòa xuyên qua khung cửa chiếu vào nhà, khiến cho những đồ vật vốn đã cũ kỹ càng nổi bật vẻ tiêu điều hoang phế.
Ông lão họ Nguyễn trở dậy đun nước pha trà mời Duy Hiếu:
– Xin mời anh dùng tạm chén trà cho ấm bụng rồi hẵng lên đường. Đêm qua khiến anh một đêm mất ngủ khiến lão đây áy náy quá.
Duy Hiếu nhấp ngụm trà:
– Xin lão trượng đừng nói vậy, câu chuyện của lão trượng khiến vãn bối đây cảm kích vô cùng. Những gì lão trượng kể đã phần nào đánh thức tâm trí mê muội bấy nay của vãn bối. Hẳn từ nay vãn bối phải suy nghĩ lại con đường mình đang đi.
– Giữa thời tao loạn lánh đời cũng là điều dễ hiểu của những tay kiệt liệt tuy nhiên nếu có thể đem thân giúp ích gì cho đời còn tốt hơn vạn lần vậy. Ông lão nhìn sương sớm bảng lảng bay ngoài sân khẽ nói.
– Vâng vãn bối sẽ suy nghĩ về những điều lão trượng nói.
Cúi chào ông lão Duy Hiếu rời đi, buổi sớm không khí trong lành, tâm trí Duy Hiếu bình yên như khung trời cao rộng.
oOo
Duy Hiếu ôm chai rượu vừa đi vừa lè nhè ngâm “Nhân sinh là thớt trời là dao!” Qua cánh đồng gặp lão nông đang nằm. Duy Hiếu cười bảo “Đây minh chứng hùng hồn.”
Lão nông lấy chiếc nón ra khỏi mặt phe phẩy quạt ngâm:

“Đất là chiếu trời là màn
Tháng ngày tận hưởng thú tiêu dao
Thương thay bao kẻ ôm hoài bão
Một đời quanh quẩn giữa lao đao!”

Duy Hiếu lặng lặng bước đi. Lão nông lại lấy nón che mặt, nằm nghe gió trưa trườn qua đồng lúa. Ngâm tiếp:

“Bất chí cùng thời
Làm thân trâu ngựa
Vận nước suy đồi
Về đâu về đâu…”

Duy Hiếu ngoảnh đâu nhìn về phía sau. Con đường bụi bay mờ mịt. Tiếng chim từ xa vọng lại thảng thốt… Bất giác gã rơi lệ…
Lão nông lại ngâm:

“Thiên hạ nằm say ngủ
Ta biết thức cùng ai
Ôi tháng rộng năm dài
Ôm hận lòng tê tái…
Thương non sông một dải
Trong tay lũ hung tàn
Ôi ngàn năm huyết sử
Ngoảnh đầu nhìn…nát gan…”

Duy Hiếu nhấn bước nhanh hơn. Xa xăm cuối trời có sấm. Bao giờ thì trời đổ mưa?
oOo
Duy Hiếu cứ lang thang mãi từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu hắn cũng nhìn thấy cảnh dân chúng bị hà hiếp, lũ quan chức thì mũ cao áo rộng xênh xang, những miền quê nghèo người già cũng phải nai lưng làm việc, trẻ em không được đến trường.
Một chiều nọ, Duy Hiếu đến bên một bờ sông, sông không cầu, hắn ngồi xuống bãi cỏ đợi đò. Một lát từ phía sau bụi lau lách vang lên tiếng ca ngư phủ rồi một chiếc đò từ từ lướt tới, chèo đò là một ông lão râu dài.

“Sông mênh mang nước mênh mang
Xuân ngời sắc biếc thu vàng trăng thanh
Mây lưng trời trái đầu cành
Chim ca đỉnh núi cuối gành gió ru
Cõi trần vụng dại đường tu
Đò hèn một mái ngao du sông hồ
Trắng đen hai chữ cơ đồ
Bịt tai nhắm mắt mặc trò đảo điên.”

Dứt lời ca đò cũng vừa cập bờ, ông lão nhìn Duy Hiếu mỉm cười:
– Khách định qua sông chăng?
– Vâng. Xin phiền cụ. Duy Hiếu đáp.
Ông lão ép sát đò vào bờ cho Duy Hiếu bước xuống. Đò rời bờ nhẹ nhàng lướt đi. Ông lão cởi nón để lộ khuôn mặt nhăn nheo khắc khổ, với hàng lông mày bạc trắng, đôi mắt đượm nét u hoài.
Hai người cứ im lặng như thế, mặc tâm trí trôi theo con đò bập bềnh. Thời gian chừng độ tuần trà ông lão rút vò rượu bên hông tu một ngụm khà một tiếng, chép miệng ngâm:;

“Trời rộng đất rộng
mà mình đành giam cầm chí lớn
Cỏ còn biết đau
Đá còn biết khóc
Mà người đời cam phận vô tri
Ta là ai
Người là ai
Rồi cũng thành nấm mồ xanh cỏ dại.”

– Thơ hay quá, đau quá. Duy Hiếu chợt thốt lên.
Ông lão trao vò rượu cho Duy Hiếu:
– Uống đi anh bạn, chúng ta chỉ là khách vãng lai nơi trần thế, đời u ám lòng người thì khư khư giữ lấy tấm thân phàm tục của mình, chúng ta đau làm chi uất phẫn làm chi, âu là cứ như cánh chim kia cưỡi gió rong chơi tôi ôm trăng sao nằm ngủ.
Duy Hiếu nhận lấy vò rượu tu một hớp, nước mắt trào ra theo rượu chảy vào miệng, rượu nồng nước mắt mặn quặn thắt tâm can.
Nắng chiều lênh loáng mặt sông, xa xa từng đàn chim giang cánh bay về tổ, con đò đã ra đến giữa sông, gió dìu dặt đùa giỡn hàng lau lách, ông lão nhìn chim bay lòng dường như dâng lên một thứ cảm xúc thầm kín nào đó, bất giác thở dài, miệng lẩm nhẩm “Góc thành nam lều một gian. No nước uống thiếu cơm ăn.” Ngừng lát lại lẩm bẩm “Aỉ nam quan hận ngút ngàn, trả xong nợ nước thù nhà ngỡ sống trong cảnh thanh bình ngờ đâu phải chịu cảnh tru di tam tộc, có nỗi oan nào to lớn hơn chăng.” Ông lão mở vò đổ rượu xuống sông, bàn tay rưng rưng có vẻ vô cùng xúc động.
Duy Hiếu thoáng nghe những lời của ông lão giật mình hỏi:
– Lẽ nào cụ là Ức Trai tiên sinh chăng? Lẽ nào Ức Trai còn sống trên đời? Vậy vụ thảm sát năm xưa đã có người chết thay Ức Trai?
Ông lão quay lại nhìn Duy Hiếu cười hiền từ:
– Tôi không phải Ức Trai anh bạn ạ, mà cho dù tôi là Ức Trai thì chuyện xảy ra hơn hai trăm năm rồi liệu tôi có còn sống đến giờ được chăng?
– Vậy cụ là hậu duệ Ức Trai? Duy Hiếu hỏi.
– Không tôi chỉ là tay chèo đò kiếm ăn lần hồi trên bến sông này mà thôi, chẳng qua ngày xưa tôi từng được nghe cha tôi kể về nỗi oan khiên khiến trời sầu đất thảm của Ức Trai từ đó trong tâm trí tôi luôn hằn sâu nỗi cảm thông cho số phận một vì sao Khuê của non sông này, hôm nay chính là ngày mà năm xưa gia tộc Ức Trai bị tru di, năm nào tôi cũng lấy chén rượu nhạt tưởng nhớ anh linh của Ức Trai. Một đời vì dân vì nước như Ức Trai cuối cùng cũng bị bọn gian thầm hãm hại, ngẫm lại chúng ta nếu may mắn đỗ đạt làm quan mà sống trong cảnh vua tối dân hèn muôn sự bị bè lũ gian thần thâu tóm thì thử hỏi với hai bàn tay chúng ta có thể xoay chuyển nổi cơ đồ chăng?
Xưa Trương Lương giúp Lưu Bang dựng nên nhà Hán xong rũ áo quan trường mà quy ẩn để giữ lấy mình thiên hạ có kẻ nói Lương hèn nhưng họ nào đâu có hiểu Lương làm thế là đúng, bởi lẽ cái chí của Lương chỉ là muốn dẹp yên thiên hạ chứ Lương nào xem quyền quý ra gì, mặt khác Lương đã sớm nhìn thấy nội tâm dơ hèn của Lưu Bang chằng chóng thì chầy Lưu cũng giở thói “được cá bẻ đăng”. Gía như Ức Trai cũng làm như Lương hoàn toàn rũ sạch mùi danh lợi triều ca, đừng cho Thị Lộ vào cung thì có lẽ sự việc đã khác.
– Vâng cảm ơn cụ vì những lời vàng ngọc. Duy Hiếu nói.
Đò đã cập bờ Nam ông lão ép đò sát bờ cho Duy Hiếu bước lên, Duy Hiếu trả tiền cho ông lão rồi cúi mình chào lặng lẽ bước đi, trên trời sao thưa nhấp nháy, trăng sáng gió thanh. Tiếng chèo khua nước lẫn tiếng ca ngư phủ dần xa bờ loãng tan trong màn đêm.
Duy Hiếu đi mãi, đi mãi, phía trước mênh mang đồng cỏ, chân trời xa xăm xa xăm, ngày mai mưa hay nắng, đã sắp cuối thu rồi, năm nay mùa đông có lạnh không, cõi đời bao giờ thì chan hòa nắng ấm? Duy Hiếu cứ đi mãi, đi mãi, giấc mơ đỗ đạt làm quan để thay thời đổi thế của Duy Hiếu tan dần tan dần như đám sương dưới ánh trăng viên mãn, xa xa tiếng ca của ông lão chèo đò vẫn văng vẳng trên bến sông.

“Nhãn trung phù thế tổng phù vân,
Oa giác kinh khan nhật Tấn Tần.
Thiên hoặc táng tư tri hữu mệnh,
Bang như hữu đạo diệc tu bần.
Trần Bình tự tín năng vi tể,
Đỗ Phủ thùy liên dĩ ngộ thân.
Thế sự bất tri hà nhật liễu,
Biển chu quy điếu Ngũ Hồ xuân.” (*)

oOo
Sau những tháng ngày phiêu du khắp đất nước Duy Hiếu trở về quê cũ kiên tâm dùi mài kinh sử quyết lên kinh ứng thí, mong đỗ đạt làm quan. “Muốn giúp đời âu chỉ còn cách lao vào chốn quan trường vậy.” Nghĩ thế Duy Hiếu học quên ngày quên tháng. Tháng 3 năm 1655 Duy Hiếu một mình một tay nải trèo rừng vượt núi lên kinh thành dự thi. Chuyến đó bài thi của Duy Hiếu đỗ đầu. Gã được vua ban lệnh cho vào trước bệ rồng chầu kiến. Nhân đang hăng câu chuyện quân thần, Duy Hiếu đem hai mươi bốn điều cải tạo đất nước mà gã ấp ủ bấy lâu sang sảng đọc lên trước mặt vua và triều thần. Vạch tội những kẻ quyền nghiêng thế lệch tàn hại non sông. Chỉ ra những sai lầm kém cỏi của triều đình. Vạch luôn những tội lỗi của vua đối với tiên tổ. Hôm đó cả triều đình một phen dậy sóng, các quan kẻ đỏ mặt dựng râu, kẻ uất khí hộc máu, kẻ điên tiết gầm rú. Đức vua mắt long sòng sọc, bệ rồng nổi lửa, ra lệnh cho binh lính lôi Duy Hiếu ra trước Ngọ Môn xử chém. Duy Hiếu giằng thoát khỏi tay bọn lính, rồi đó cởi hết áo quần, lao xuống ao sen móc bùn bôi đầy mặt, khóc cười ngơ ngáo. Vua cho quân nhảy xuống quyết lôi lên. Duy Hiếu vốn sinh trưởng miền sông nước nên thông thạo thủy tính, nghĩ ra kế lặn sâu xuống nước, nhân cơ hội tẩu thoát theo đường hào nước ra sông Hồng.
Từ đó Duy Hiếu cào nát mặt thay tên đổi họ sống chui lủi trong dân gian. Năm 1680 bấy giờ triều đình đã đổi vua lệnh tróc nã Duy Hiếu cũng đã chìm vào quên lãng. Duy Hiếu tìm về làng Cổ Định che tạm gian nhà lá làm trường dạy học. Chẳng mấy chốc tiếng lành đồn xa về ông thầy dị tật ở mặt có tài dạy học, rất nhiều tay tìm đến xin vào trường. Bấy giờ Duy Hiếu cũng đã nguôi quên nỗi đắng cay thời trẻ, hết ham hố đau vay khóc mướn cho đời, ngày hai bữa sau giờ dạy yên yên ổn ổn với thú điền viên.
Một hôm nhân rảnh rỗi Duy Hiếu cùng học trò đi câu cá giải buồn. Trong khi chờ cá cắn câu, một tên học trò hỏi Duy Hiếu:
– Thưa thầy, con nghe thiên hạ nói ngày xưa thầy học rất giỏi, và từng có mơ ước ra làm quan giúp đời, sau vì chán ngán cảnh non sông tàn tạ mà từ bỏ ước mơ quan trường trở về làm nghề gõ đầu trẻ, có phải không ạ?
Duy Hiếu đáp:
– Ôi chuyện xưa rồi nhắc làm chi cho đau đớn lòng này, rồi thở dài tiếp, mà kể ra ta không thi đỗ làm quan cũng là một sự may mắn cho ta cho dân chúng nếu như đỗ đạt làm quan chắc gì ta giữ được lòng ta thanh sạch, quan trường là chốn thị phi vấy bẩn tâm hồn và nhân cách mấy hồi. Mặt khác ta là kẻ nhu nhược biết đâu khi làm quan ta lại chẳng hùa theo thiên hạ mà hà hiếp dân lành.
Cần động đẩy Duy Hiếu mừng rỡ giơ lên, đầu lưỡi câu một con cá chép vàng hươm. Duy Hiếu gỡ cá cho vào giỏ mỉm cười nói:
– Câu cá dù sao cũng nhẹ nhõm và an tĩnh hơn gấp ngàn lần câu danh lợi.
Lũ học trò nghe Hiếu nói thế có kẻ không hài lòng lắm bèn nói:
– Ý thầy phải chăng đang khéo nhắc nhở chúng con đừng nghĩ đến chuyện đỗ đạt làm quan?
Duy Hiếu cười:
– Trước ta có gặp một ông lão lái đò, ông ấy nói, đừng đem chuyện cơ hàn ra bàn trước mặt kẻ sang, đừng đem chuyện chính trị bàn với phường sợ hãi cường quyền, đừng đem chuyện tu đạo bàn với đứa thích phong lưu …thật đã thấu hiểu tâm địa loài người lắm vậy.
Nay ta mới nói vài câu về chuyện câu cá mà con đã tỏ thái độ khó chịu như thế thì e rằng con có học thành tài làm quan cao lộc lớn cũng khó mà giữ mình vậy. Sống trên đời đừng hiếu thắng chấp mê, khi nghe người khác nói hãy ngẫm kỹ rồi hẵng đối thoại, người xưa nói, nhai cơm mười lần lựa lời trăm bận. Ta thật tâm không có ý khuyện các con từ bỏ ước mơ quan trường ta chỉ muốn bảo các trò đừng quá cưỡng cầu vào điều đó, nếu được thì cố không được thì nên rút lui, làm người miễn sao sống an nhàn thanh thản, hai chữ danh lợi chẳng khác gì sông lớn vực sâu không cẩn thẩn thì thân bại danh liệt.
Lũ học trò nghe thế đều cúi đầu suy ngẫm. Cần rung Duy Hiếu giơ lên lại thêm một con chép. Duy Hiếu cười nói:
– Gía như câu sự yên bình cho thiên hạ cũng dễ như câu cá thì hay biết mấy. Nói rồi lại buông cần, gió chiều dìu dịu giỡn mặt sông.
Năm 1695 một hôm trời mưa lớn đang đêm Duy Hiếu một mình nón lá áo tơi ra sông Yên, đang men theo bờ sông bỗng gió lớn nổi lên nước sông dâng cao Duy Hiếu ngã xuống sông bị nước cuốn trôi. Sáng hôm sau học trò và dân làng hốt hoảng đi tìm, ba ngày sau mới tìm thấy xác Duy Hiếu đầu thượng nguồn dòng sông. Nước lũ đã cuốn thi hài Duy Hiếu ngược dòng. Khi vớt xác Duy Hiếu lên người ta thấy trong tay Duy Hiếu nắm chặt mảnh giấy ghi mấy hàng chữ đã bị nước làm mờ như sau:

“Trót sinh con nhà khó
Cha mẹ sớm qua đời
Anh trai đà chết trận
Chị gái thác tay quan
Miệt mài thân gió bụi
Ôm mộng cứu giúp đời
Nào hay đời đen tối
Uổng ngày tháng châm đèn”


Trương Đình Phượng
Tháng 2 năm 2018



Kẻ nhảm chấp bút nói giỡn mà chơi
(*) Bài thơ Mạn thành (I) của Nguyễn Trãi, dịch nghĩa:
Tản mạn kỳ 1
Nhìn vào cuộc thế đều là mây nổi cả
Sợ thấy cảnh Tấn Tần tương tranh hằng ngày như chuyện sừng ốc sên
Khi Trời đã bỏ mất nền tư văn tất có mệnh
Nước có đạo đức mà nghèo thì cũng xấu hổ
Trần Bình tự tin có thể làm tể tướng
Đỗ Phủ ai ngờ bị lầm lẫn mà thân phải khổ
Việc đời không biết ngày nào xong
Chèo một con thuyền nhỏ về câu cá mùa xuân ở Ngũ Hồ (là tốt).