Đa số,
chữ viết các nước trên thế giới, được hình thành đơn giản bằng cách dùng đơn tự
ghép thành từ. Do sự tiến triển và nhu cầu trong đời sống những đơn tự ngày
càng được đơn giản hóa.
Còn Hán
văn thì khác. Nó được cấu tạo từ các nét riêng biệt để miêu tả sự việc quanh
đời sống con người. Tuy theo sự tiến bộ của con người, Hán tự cũng có chuyển
hóa dần nhưng nhìn chung, những nét viết vẫn còn gắn bó chặt chẽ với cách viết
ban đầu. Nó vẫn chưa thể hiện được âm tiết riêng. Cho nên, họ phải viết theo
hình tượng (gọi là chữ tượng hình), hoặc ghép từ nầy với từ kia để thành từ
khác, Chẳng hạn:
1)- Loại
Chữ Tượng Hình (象形): tức là “Tượng hình văn tự” (象形文字): có nghĩa căn cứ trên hình tượng của sự vật mà
hình thành chữ viết. Các chữ này rất dễ nhận biết và rất đơn giản. Thí dụ: Chữ
Điền (田), giống như thửa ruộng; chữ Khẩu (口)giống như cái miệng,; chữ Sơn (山) giống
như ba ngọn núi,…
2)- Loại Chi Sự Văn Tự (指事文字) là cải biên từ chữ chính hoặc
thêm thắt vào chữ chính một vài nét để thành chữ khác có liên hệ đến chữ chính.
Thí dụ: chữ Mộc (木) là cây, rồi thêm một gạch ngang
ở dưới để thành chữ Bản (本) là gốc rể. Loại Chi Sự Văn Tự
còn được gọi là Biểu Ý Văn Tự (表意文字)
3)- Loại
Hội Ý, tức Hội Ý Văn Tự (會意文字), là ghép thêm chữ chính vào
nhau để chỉ sự rộng lớn, quy mô hơn. Thí dụ: Mộc (木) là cây. Khi kết hợp hai chữ Mộc lại với nhau thì thành chữ Lâm (林). Lâm là Rừng. Rừng thì có nhiều cây. Còn Rừng Rậm thì ghép bằng 3 chữ
Mộc (森). Rừng có thật nhiều cây thì mới rậm.
Nói vui
để dễ nhớ, khi ai thấy “cái gì đó” trống trơn, không có cây cỏ gì cả thì gọi là
“đồi trọc”; có ít “cây cỏ” gọi “rừng thưa”; có nhiều hơn rừng thưa, gọi là
“rừng rậm”, nếu cây cỏ dày đặc gọi là “rừng Phi Châu” (cười).
Ngoài ra
còn các loại khác như:
4)- Hình
Thanh Văn Tự (形聲文字).
5)- Loại
Giả Tá Văn Tự (假借文字).
6)-
Chuyển Chú Văn Tự (轉注文字):
Sáu cách
viết trên đây, gọi chung là Lục Thư (六書).
Ngoài Lục
Thư, Hán văn, có 214 bộ chữ căn bản, từ đó khai triển để cấu tạo thành một chữ
khác. Thí dụ: Bộ Thủy, thì chữ nào có nước đều nằm trong Bộ Thủy. Chữ nào liên
quan đến núi thì nằm trong Bộ Sơn.
Chính vì
rắc rối như thế, cho nên một số Nhà Học Giả nước ta khi dịch Hán tự (tôi không
dám nói là học chưa đến nơi, đến chốn) quá vội vàng hoặc dựa vào bản dịch của
nước khác để viết sách Việt dễ bị lầm lẫn.
Chẳng
hạn, trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam ở Tập I.
Học Giả
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát viết:
“Không kể
các dã sử hay những thông tin bên ngoài, cứ theo chính sử Trung Quốc cũng đã
ghi là có các chính quyền phương Nam đi thông qua nước ta để đến phương Bắc, đó
là chính quyền nước Hoàng Chi, trong Tiền Hán Thư 12, tờ 4a3 ghi: ”Nguyên thủy
thứ hai (năm thứ 2 sdl), mùa xuân, nước Hoàng Chi dâng TÊ GIÁC VÀ BÒ” (trích từ tr. 17).
Học giả
Lê Mạnh Thát viết như thế chỉ vì ông thấy con vật tên TÊ NGƯU (tê giác – 犀) có chữ NGƯU nên nghĩ là hai con, mới tách ra và
dịch là CON TÊ VÀ CON BÒ.
Thực tế
đó chỉ là CON TÊ GIÁC, còn gọi Tê Ngưu. Bởi con Tê Giác giống như con Bò nên
nằm trong Bộ Ngưu (牛) (một trong 214 bộ như đã nói ở
trên)
Trong bộ
“Hán Thư” (cũng gọi “Tiền Hán Thư), khi viết về nước Hoàng Chi tiến cống như
sau:
– “Nguyên
Thủy…. Nhị niên, Xuân, Hoàng Chi quốc hiến tê ngưu.”
(Hán Thự Qu. XII. Bình đế kỉ)
Có nghĩa
Niên hiệu Nguyên Thủy… “Năm thứ 2, mùa Xuân, nước Hoàng Chi dâng tê ngưu”.
Hai chữ
“TÊ NGƯU” ở đây, chỉ MỘT chứ không là HAI con vật, nhưng Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
đã tách chữ để rồi dịch TÊ là con “TÊ GIÁC” và NGƯU là con “BÒ”. Dịch như vậy
hóa ra từ một, trở thành hai con vật khác nhau.
Như đã
nói ở trên, thực tế CHỈ LÀ CON TÊ GIÁC. Bởi trong chữ TÊ GIÁC (犀) có chữ NGƯU (牛)
Có thể do
không thông Hán tự hoặc lấy từ bản dịch nước khác mới hiểu sai rồi viết sách
sai.
Trong Bộ
“Từ Nguyên” giảng chữ “Tê” như sau:
– “1.
Động vật danh. Dã xưng tê ngưu. Thể đại ư ngưu…’ (1. Tên gọi động vật.
Cũng gọi là tê ngưu. Thân lớn như con bò…”
Trong Bộ
“Từ Hảí giảng chữ “Tê” như sau:
– 1.
Động vật danh. Dịch xưng “tê ngưu”… (1. Tên gọi động vật. Cũng gọi là
”tê ngưu…”
Và trong
“Bộ ‘Từ Vị” ở từ mục “Tê ngưu” giảng: “là 1 động vật.”
– Tóm
lại, chữ “ngưu” (牛) ở trong tên gọi “Tê Ngưu” chỉ
là một phần của danh xưng để chỉ MỘT động vật.
Người
Trung Hoa thấy con vật nói trên thể dạng cũng giống con bò, kích thước lại cũng
lớn, cho nên đã thêm chữ “ngưu” dưới chữ “tê” để chỉ những điểm mà họ cho là
tương tự đó.
Lâu nay,
nhiều người lầm lẫn, NGƯU là con TRÂU, thực ra NGƯU là con BÒ. Con Trâu phải
gọi là THỦY NGƯU.
Mọi người
đều biết, bể học rất mênh mông, không ai có thể tự hào ta đây là kẻ thông thái
chữ nghĩa nhất thiên hạ. Cho nên cần phải học, lúc nào cũng học, lứa tuổi nào
cũng học. Học không phải để trở thành ông cống, ông nghè mà để trí óc luôn hoạt
động, cho tinh thần luôn minh mẫn,… Vả lại, làm người không nên tự mãn, xem cái
ta quá lớn, lúc nào cũng nên cầu toàn vì thế, phải học.
Khổng Tử
nói: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư, yên trạch kỳ thiện giả nhi tùng chi,
kỳ bất thiện giả như cải chi”. (Nghĩa: ba người cùng đi tất có thầy ta vậy;
ta chọn người thiện (lành) mà ta theo.; còn hai người không thiện thì ta lấy đó
mà sửa mình. không làm theo điều bất thiện như họ.)
Lời nói
trên từ lâu được xem là “khuông vàng thước ngọc” của nhiều người. Nhưng theo
ngu ý của kẻ viết bài nầy, thì câu trên có vấn đề. Vì:
- Khi mới thấy ba người đi
trên đường, thì làm thế nào biết được trong ba kẻ ấy có một ngưởi thiện để
(ta) tôn làm thầy và chọn kẻ ấy mà theo?
- Mới nhìn thấy ba người đi
trên đường, làm thế nào biết được trong đó có hai người bất lương (không
thiện) và nghĩ rằng họ sẽ làm điều bất thiện nên (ta) không theo?
- Phải chăng Khổng Tử nhìn
hình dáng bên ngoài của họ mà suy luận theo cảm nghĩ của ông ta mà phán
đoán? Nếu thế, thì Khổng Tử lấy gì làm chuẩn để xét đoán kẻ nào lương
thiện, kẻ nào không, trong khi cuộc sống quanh ta đã từng chứng minh,
những kẻ mặc áo nhà tu không thiếu những tên buôn thánh bán thần?
Tại sao Khổng Tử không xem tất cả ba kẻ đồng hành kia đều là thầy mình?
Trong đời
chẳng có gì là tuyệt đối? Đâu phải tất cả những kẻ mặc áo nhà tu đều là người
lương thiện? Chưa hẳn những kẻ bị cho là bất lương kia không có điều hay, việc
tốt để ta học? Điều nầy, chứng minh lời “Thánh nhân” chưa hoàn toàn đúng.
Thời niên
thiếu, kẻ viết bài này, đã có lần chứng kiến, một tên trộm ở địa phương, từng
bị người dân địa phương khinh bỉ, lánh xa. Ông ta sống hẩm hiu, đơn độc giữa
tình đồng loại – dù rằng ông ta chưa một lần trộm cắp tài sản của người cùng
quê ông.
Trong một
vụ hỏa hoạn, trong ngôi nhà đó, mọi người có tuổi đều ra đồng, chỉ còn một bà
cụ mù lòa ngồi ru một đứa bé gái 3, 4 tuổi đang ngủ trên võng. Do bếp chụm bằng
rơm rạ, cháy lan vách bếp, rồi lan khắp gian nhà (đúng hơn là cái chòi), đến
khi dân làng thấy lửa dâng cao chạy đến thì lửa cháy khắp nơi, người ta bu
quanh thét gào và hô hào vào cứu người. Nhưng tất cả chỉ cứu bằng miệng. Một
người từ xa chạy tới xông vào ngọn lửa tay bồng đứa trẻ, lưng cỏng bà cụ cởi áo
quạt lửa và chân đất chạy ra,… đó là tên trộm. Ta học ai đây?
Sau tháng
4/75, người viết bị bắt đưa đi tù ngày 21/11/75, bị chuyền trại nhiều nơi, cuối
cùng ở trại Bàu Lâm, trong Mật Khu Hắc Dịch. Trong trại, có hai khu tù, một là
thành phần quân nhân, viên chức của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, khu kia đủ mọi
thành phần, gọi chung là tù xã hội.
Bên khu
tù Xã hội, khi nghe xe chuyển bạn tù từ trại khác đến. “Đại bàng” ra lệnh cho
tất cả đàn em, khoan ăn phần cơm trưa đó, để “Tụi nó từ xa đến đói bụng ăn
trước, tụi bây nhịn một chút đợi nhà bếp nấu phần tụi nó rồi lãnh ăn sau!”
Trong khi, những người có một thời danh vọng, có kiến thức đầy mình, đạo đức
ngợp trời, khi vào tù không bao giờ làm được điều đó!
Trong tù,
những người “oai hùng một thuở”, dưới quyền họ không thiếu đàn em chung cảnh
ngộ, chung trại, chung lều, khi nói chuyện với nhau, họ coi nhau như cá mè một
lứa. Còn dân bụi thì không! Những kẻ bụi đời vẫn một mực tôn trọng, nghe lời
bậc đàn anh của họ. Vẫn anh anh, em em với nhau! Lạ!
Trước lò
kẹo trong tù, nơi tôi cùng Hà Văn Cót (Thám kích Tỉnh Bà Rịa; Phan Tấn Đức, Chỉ
Huy Phó Cảnh Sát Quốc Gia Quận Phước Lễ, còn tôi (người viết) ở Tòa Hành Chánh
Long Khánh). Ba thằng chúng tôi lao động, ăn ngủ nơi đó.
Bên kia
đường, đối diện lò kẹo, là gian nhà, nơi cách ly (không phải biệt giam) 3 vị tu
sĩ. Trong đó có 2 Trung Tá, 1 Đại Úy, họ là Sĩ quan Tuyên Úy của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa.
Một sáng,
công an trực vào lò kẹo hỏi chúng tôi, “Hồi hôm các anh có nghe mấy ông bên kia
chửi lộn không?” Chúng tôi đều đáp, “Dạ không!” Thế là, họ kể cho chúng tôi
nghe.
Trưa đến
vị Đại Úy Tuyên Úy, người trẻ nhất trong đám họ, khi ấy 41 tuổi, sang lò kẹo
lấy nước, tôi hỏi nhỏ, “Thưa,… chuyện đó có không…” Vị Đại Úy dang rộng hai tay
ra, vỗ vỗ xuống đất, lắc đầu nói, “Anh đừng nói tới nữa, nhục lắm, nhục lắm!”
(Vị nầy có lần sang Mỹ, đến Atlanta, đáng tiếc hôm ấy tôi không gặp lại). Vì
sao hai vị kia chửi nhau? Chỉ vì chia cơm, chia thức ăn không đều! (Tôi biết rõ
tên tuổi và nơi họ ở rất rõ ràng, nhưng giờ tôi không nỡ nói – Xin nói rõ,
KHÔNG NỠ, chẳng phải KHÔNG DÁM).
Thế thì,
trong hoạn nạn, chúng ta nên học cách sống của những con người như kẻ trộm, như
những kẻ bụi đời, hay nên học theo cách sống của những kẻ một thời vang bóng
hoặc như những ông tu sĩ kia?
Đó là câu
trả lời dễ dàng để chứng minh lời Khổng Tử “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư”
chưa đúng hẳn. Giả sử ông ta nói, “Trong 3 kẻ đi đó, tất cả đều là thầy của ta”
có lẽ chính xác hơn!
Ở đời,
không nên nhìn “bộ vó”, cử chỉ, lời nói hoặc việc làm của ai đó rồi đánh giá
TÂM HỒN người ta như thế nầy, như thế khác. Và, cũng không nên nhìn vào học vị
cao, danh vị lớn của kẻ khác mà nghĩ rằng kiến thức họ rộng lớn, bao la.
Trong xã
hội người, tất cả mọi người đều có cái hay, cái tốt lẫn trong cái dở, cái xấu.
Cũng như thế, trong thế giới kẻ xấu vẫn có những hào quang của châu báu.
Xin hãy
dành quyền phán xét nhau cho Thiên Chúa, cho Trời, Phật. Con người không tự xem
“ta đây” là kẻ có cái quyền ấy! Cho nên, hãy sống như thế nào để không tự thẹn
với chính mình là điều tốt nhất.
Kẻ viết
bài nầy luôn dặn mình không nên tự mãn, hãy cầu toàn và lúc nào cũng phải xem
sự hiểu biết của mình còn kém cỏi nên luôn luôn học hỏi; xem những người quanh
mình đều có cái để mình học hầu bổ sung những khiếm khuyết trong đời.
Atlanta,
April 09, 2015
Thái Quốc Mưu
Thái Quốc Mưu