Chợ cá hồi đó nằm trên khoảng đất tráng xi măng giữa bờ sông và nhà lồng chợ,
chung với hàng rau cải và trái cây. Về sau, thấy việc bơm nước rửa chợ cá vẫn
không làm trôi hết mùi tanh của nhớt cá thấm vào xi măng, nhà chức trách trong
làng cho xây chợ cá chờm hẳn ra sông, bằng gỗ theo điệu nhà sàn chống chân
xuống nước nhưng bề mặt rộng như một cầu tàu. Như vậy, nhứt cử lưỡng tiện, bởi
vì vừa rửa chợ ngay trên mặt sông, vừa có chỗ cho ghe thuyền cập vào để lên
hàng. Ngoài ra, còn thêm một "tam tiện" nữa là chiều chiều người ta
hay ra đó để câu cá hoặc hóng mát bởi vì chợ chỉ nhóm có buổi sáng thôi.
Ở chợ cá, chị Tư Ù là "xếp sòng"! Không phải chỉ tại vì cái sự
"to thuyền lớn bánh" của chị, mà còn tại vì chị thuộc vào gia đình
bán cá bán mắm lâu đời nhứt trong làng. Bắt đầu là bà ngoại của chị từ thuở
chưa có chợ nhà lồng (hồi đó chợ còn nhóm lộ thiên ở dưới xóm lò heo). Kế đó là
má của chị. Thời này, ở nhà không còn làm mắm bán mắm, chỉ bán cá thôi và đã
dọn về căn phố trệt nằm ngang hông chợ. Và bây giờ là đến phiên chị Tư.
"Trong gia đình, con Tư học hành thì dở nhưng lại chịu cực giỏi. Lại biết
bươn chải làm ăn. Chỉ có nó mới nối nghiệp tao được. Cũng như tao đối với bà
ngoại bây hồi đó." ... Má chị Tư thường nói như vậy, hồi còn sanh tiền,
hồi lũ con vừa mới lớn. Về sau, quả đúng như vậy: mấy đứa kia sau khi dựng vợ
gả chồng, xuống Sài Gòn làm việc cho nhà nước, có đứa làm cho hãng tư ở đâu
tuốt ngoài Trung xa lắc xa lơ. Chị Tư ở lại "nối nghiệp" sau khi bà già
nằm xuống. Rồi bởi vì có sự "mẹ truyền con nối" ba đời như vậy mà
không riêng gì ở chợ cá, trong làng ai cũng biết tiếng chị Tư và bạn hàng cá
cũng nể nang một phần.
Hỗn danh "Tư Ù" không phải mới có sau này, mà đã có từ hồi chị Tư còn
nhỏ. "Trong nhà chỉ có mình con Tư là sổ sữa hơn hết" - má chị thường
nhắc chuyện này, vì bà rất hãnh diện đã làm một việc "không phải ai cũng
làm được". Bà kể: "Hồi sanh nó ra, tao rặn muốn bứt hơi luôn ! Tưởng
đâu tao ngủm rồi chớ. May nhờ bà mụ cũng giỏi, bả rặn phụ tiếp sức mấy lần, con
nhỏ mới chịu lọt ra. Ý... nó lì từ còn trong bụng chớ phải mới đây đâu bây
ơi!". Bà hay ngừng ở đó một chút, xỉa cục thuốc qua lại mấy lần, làm như
để nhớ lại cái đau thuở đó và cái nhẹ sau khi đã sổ lòng đứa con... Rồi lúc nào
bà cũng tiếp: "Bà mụ mà còn phải công nhận là cả làng này chưa ai sanh đứa
nhỏ nào bự bằng nó hết ! Ai tới thăm khi bồng nó lên cũng nói là nó nặng như
con Tây ! Tía bây đi ruộng về thấy cũng phải hết hồn!". Rồi cũng vì cái sự
nặng như con Tây mà mấy bà mấy cô xóm Chợ hay tới lui ẵm bồng nựng nịu "bé
Tư". Bé Tư mau ăn chóng lớn, lúc nào cũng "ú na ú nần", hay cười
dễ ngủ nên trong xóm ai cũng thương. Mãi đến khi vào trường tiểu học, trẻ con
trong trường mới đặt cho danh hiệu "Tư Ù". Từ đó, thành tên luôn.
Hồi đó trong lớp, hai đứa học dở "nổi danh" là con Tư Ù và thằng Út
Cón. Thằng này người Tàu, tên Lý Cón, con trai út của chú Phấn thợ bạc. Vợ
chồng chú Phấn sanh một bầy con gái rồi ngưng ngang. Tám năm sau thiếm Phấn
bỗng lại có bầu. Lần này, hai vợ chồng đưa nhau về Chợ Lớn đi mấy chùa chiền
cầu nguyện cúng vái dữ lắm. Sau đó, sanh Út Cón. Cho nên, cả nhà chú Phấn cưng
nó như vàng. Nó muốn gì được nấy. Đến nỗi, khi đến tuổi đi học, nó không chịu
đi, là cả nhà cũng làm thinh. Cho tới lúc thấy nó "lớn đại" rồi mới
tìm cách dụ dỗ, nói khích để nó cắp cặp vào lớp. Vì vậy khi nó đi học với Tư Ù
thì nó đã lớn hơn tới bốn năm tuổi !
Trái với Tư Ù, Út Cón gầy nhom trắng nhách. Tánh tình thì hay hờn hay giận
trong lúc Tư Ù lại xông xáo "du côn" như con trai. Vậy mà hai đứa lại
thích nhau, lúc nào cũng đi chung chơi chung, và gọi nhau bằng "bồ".
Tiệm vàng của chú Phấn nằm ở dãy phố trệt phía bên kia nhà lồng chợ, thành ra
đối diện với nhà má Tư Ù. Và vì hai nhà nằm trịch về phìa bờ sông ngang sân xi
măng nên từ nhà này có thể nhìn thẳng qua nhà bên kia mà nói chuyện cũng được.
Chỉ cần nói lớn tiếng một chút là nghe rõ. Sáng nào, Tư Ù cũng lon ton chạy qua
tiệm vàng để cùng đi học với Út Cón chớ không đi chung với mấy đứa trong nhà.
Lâu lâu, con Tư bị kẹt gì đó thì thằng Cón ra trước cửa tiệm réo: "Ù ơi!
Ớ... Ù ! Bồ làm khỉ gì bển mà chưa chịu qua ?". Có hôm, cả hai đứa cùng
trễ, nghe tiếng trống trường đánh thúc tới mới hè nhau chạy mà cười hắc hắc,
giống như... chạy đua vào lớp.
Những ngày nghỉ, tụi nó hay rũ nhau lên chùa "ăn cắp nhãn". Thật ra
tụi nó còn quá nhỏ để trèo lên mấy cây nhãn trong vườn sau của chùa, nên đến đó
chỉ để lượm nhãn dơi ăn làm rớt rải rác dưới đất. Nhưng vẫn nói là "đi ăn
cắp" cho nó oai! Út Cón hay đem hột nhãn về nhà lấy dao cắt khoanh, móc bỏ
ruột, còn lại cái vỏ đen huyền bóng lưởng làm nhẫn đeo vào ngón tay của
"bồ" nó. Nó đã phải lựa những hột nhãn thật to để chiếc
"nhẫn" đủ rộng cho vừa ngón tay...
... Lật bật rồi hai đứa cũng học hết lớp nhì. Đến đây, Út Cón sang qua học
trường Tàu vừa mới mở ở xóm chùa Cao Đài trên lộ cái. Còn lại một mình, Tư Ù
ráng "kéo" hết năm lớp nhứt rồi nghỉ học luôn, ở nhà giúp việc nhà và
tập tành bán cá với mẹ. Lúc này, "con Tư" bắt đầu trổ mã. Da dẻ mơn
mởn, má hồng hồng, mắt trong vắt, tóc đen mướt thả dài đến ngang lưng, và giọng
nói thật là lảnh lót. Thân hình có thay đổi, có "trở thành con gái",
nhưng vẫn... tròn trịa nặng cân.
Út Cón cũng nhổ giò, cao lêu khêu, nói tiếng trống tiếng mái. Tuy hai đứa không
còn học chung, nhưng vẫn qua lại gặp nhau thường và vẫn gọi nhau bằng
"bồ". Tiếng "bồ" từ thuở bé bây giờ không còn nét vô tư
nữa, nhứt là tiếng "bồ" của Tư Ù gọi Út Cón. Nó có cái gì... khác khác.
Một cái gì nhẹ nhẹ. Một cái gì mà chỉ có con gái gọi người con trai mình thích
mới gọi được như vậy thôi !
Bây giờ Út Cón đi học bằng xe đạp. Sáng nào, nó cũng đảo một vòng xuống bờ sông
để đạp ngược trở lên ở dãy phố bên kia, bởi vì sân xi măng đã đầy bạn hàng. Và
sáng nào vào giờ đó con Tư cũng quét nhà vừa ra đến cửa để chào Út Cón:
"Đi học hả bồ ?". Thằng con trai vừa "Ừa" vừa nhấn mạnh lên
bàn đạp làm tiếng "Ừa" như bị kéo dài ra, giống như cái nhìn của con
Tư đang kéo dài theo sau lưng bồ nó.
Lâu lâu, tụi nó rủ nhau đào trùng đi câu ở bến gỗ thầy Cai, và luôn luôn đi
chung với mấy đứa nữa. Chỉ có hẹn nhau lên chùa là tụi nó đi riêng. Làm như khu
vườn sau chùa là một thế giới khác, một thế giới mà tụi nó đã "xí" từ
hồi còn học lớp chót. Ở đó có mấy gốc nhãn mấy gốc sung gốc mít và vô số ổi,
vây quanh bởi một hàng rào tre tươi. Trẻ con trong làng đều biết khu vườn đó
nhưng chúng không vào được vì phải bước hẳn vào ngôi tam bảo mới có ngõ để đi
qua đó, mà ông thầy cả thì khó tánh không cho trẻ con vào chùa sợ mất nét tôn
nghiêm. Ông thầy này là bà con bạn dì với má con Tư, nhờ vậy mà Tư Ù Út Cón
được ra vào vườn thông thả. Dĩ nhiên, chúng nó chẳng bao giờ dám lớn tiếng làm
ồn. Ngoài ra, khi gặp dịp, hai đứa cũng biết phụ thầy hay mấy chú tiểu làm
những chuyện lặt vặt như quét dọn bàn Phật, chưng bông, nấu nước. Thành ra
trong chùa coi tụi nó như... người nhà ! Lâu rồi thành quen, chẳng ai để ý rằng
"hai đứa nhỏ" đã bắt đầu lớn...
Những lúc lên chùa sau này không còn ý nghĩa ngây thơ "đi ăn cắp nhãn"
như hồi còn "lớp năm lớp tư". Lên chùa bây giờ giống như "đi về
nhà của tụi nó" hay "đi về cái ổ của tụi nó". Cái khu vườn sau
mà tụi nó thuộc từng gốc cây bờ cỏ, thuộc từng lối đi quanh quẹo để tránh hòn
non bộ, tránh mấy chậu kiểng, tránh mấy cái đôn bằng sành... Ở đó, chia nhau
mấy trái ổi chua, mấy trái dái mít chát... để chấm muối ớt mang theo từ nhà,
vừa ăn vừa hít hà vì cay chảy nước mắt, vậy mà sao thấy ngon, thấy vui. Chẳng
nói chuyện gì nhiều, vậy mà sao thấy đầy thấy đủ. Ở đó, chỉ có hai đứa...
... Mấy năm sau, Út Cón nghỉ học, ở nhà làm thợ bạc. Mấy năm sau, Tư Ù đi lên
đi xuống Sài Gòn Chợ Lớn bổ hàng về phân phối lại bạn hàng trong chợ, để bà già
bán cá một mình. Mấy đứa khác trong gia đình đã xuống ở hẳn nhà người dì ở Sài
Gòn để đi học. Út Cón bây giờ bảnh trai ra, người dong dỏng cao, mặt mũi khôi
ngô trắng trẻo. Tư Ù thì thân thể đẫy đà, chỉ đẹp gái ở giọng nói nước da và
mái tóc! Vẫn hay cười, dễ ngủ và vẫn lanh lẹ "tay bằng miệng, miệng bằng
tay". Hai người vẫn qua lại với nhau như thuở nhỏ. Vẫn gọi nhau bằng
"bồ", tiếng "bồ" bây giờ thật đậm đà tình bạn mà cả hai chỉ
dành riêng cho nhau. Lâu lâu, thấy quần áo gì lạ lạ mới mẻ ở Sài Gòn Chợ Lớn,
Tư Ù mua về tặng Út Cón "bận chơi để lấy le với bạn bè". Để
"trả" lại, Út Cón âm thầm vẽ kiểu chạm trổ một chiếc nhẫn bạc. Mấy
hôm sau gọi Tư Ù qua tiệm nói: "Bồ cho tôi nhiều thứ quá. Bữa nay, tới
phiên tôi cho bồ cái này". Rồi cầm bàn tay Tư Ù lên xỏ chiếc nhẫn vào ngón
áp út. Xong, nghiêng bàn tay qua lại để nhìn: "Tôi nhắm chừng vậy mà cũng
vừa ghê. Hồi nhỏ, tôi hay làm vòng hột nhãn cho bồ, bồ còn nhớ không?". Tư
Ù xúc động đến không nói được một lời. Út Cón vẫn cầm bàn tay nghiêng qua
nghiêng lại để nhìn, theo thói quen thợ bạc: "Bây giờ có muốn làm vòng hột
nhãn cũng không kiếm đâu ra hột to để cho vừa với bàn tay tổ nái này !".
Tư Ù rút nhanh tay về đánh lên vai Út Cón cái bốp, nói: "Quỉ". Rồi cả
hai cười vang tự nhiên, làm như thuở ấu thời hãy còn nguyên vẹn đó. Và có lẽ
trong thâm tâm mỗi người đều cũng muốn như vậy. Để đừng có gì thay đổi.
... Vậy rồi Út Cón đi cưới con Doành, con gái út của ông bang Ky. Đám hỏi và
đám cưới làm cùng một lúc theo lời yêu cầu của đàng gái vì ông bang Ky phải về
Tàu gấp sau đó. Hay tin đám cưới, Tư Ù bỗng chết điếng trong lòng, đang ngồi
trên bộ ván gõ mà tưởng chừng như chìm sâu dưới nước. Nằm dài xuống bộ ván, Tư
Ù lấy khăn lông úp lên mặt để nước mắt thú nhận tình yêu giấu kín từ bao nhiêu
năm...
Thời gian sau, Tư Ù "lấy" tài xế Cước lái xe Thiên Thành chạy lên
chạy xuống Sài Gòn... Chuyện này cả làng đều hay. Bà già chửi "tắt
bếp". Tư Ù đổ lì chịu trận, và hay vừa cười vừa giải thích: "Đi bổ
hàng riết rồi dính luôn, gỡ không ra ! Chắc tại cái số...". Rồi tài xế
Cước dọn về ở chung trong nhà như hai vợ chồng. Bà già mới đầu buồn lắm, nhưng
lần hồi quen đi, nên cũng chẳng có lời qua tiếng lại. Bên tiệm vàng Út Cón cũng
buồn lắm, thương cho người bạn gái chẳng gặp duyên may, làm cho hàng xóm dị
nghị mà mình thì không biết giúp cách nào hết. Có hôm Út Cón ngừng tay, nhìn
ngang tủ kiếng sang nhà bên kia, thấy thấp thoáng bóng Tư Ù mà có cảm giác như
hình ảnh đó mỗi ngày một xa lần mà mình thì vẫn ngồi đây bất động, chẳng một
với tay, chẳng một vẫy tay... Chẳng bằng hồi đó, cái hồi mà còn đi chơi chung
với nhau, hai đứa cùng ngồi trên nhánh ổi, chỉ một cái nghiêng người của Tư Ù
mà mình đã đưa tay chụp lấy nó vì sợ nó té làm nó cười lên hăng hắc. Chẳng bằng
hồi đó... Chẳng bằng hồi đó... Út Cón thở dài quay về với công việc mà nghe
lòng se lại. Chụp hộp quẹt máy đốt đầu cây đèn khò, chân đạp cái bơm gió, Út
Cón điều chỉnh ngọn lửa đèn khò mà trong đầu hiện về biết bao nhiêu kỷ niệm. Để
rồi tiếp tục so sánh "cái hồi đó" với "cái bây giờ". So
sánh để vừa tiếc nuối vừa ân hận. Bỗng Út Cón thốt lên nho nhỏ, giọng như tự
trách mình: "Vậy mà gọi nhau bằng bồ cái nỗi gì ?...". Ý nghĩ đó làm
Út Cón muốn chảy nước mắt. Vội vã cầm đèn khò đưa ngọn lửa tạt qua tạt lại trên
cục vàng nhỏ như hột bắp nằm gọn trong lòng khuôn. Để đừng nghĩ gì nữa. Vậy mà
vẫn nghĩ rằng mình đang muốn đốt cho chảy ra để làm tinh khiết lại một cái gì
cũng quí như cục vàng nằm ngay trước mặt...
Ăn ở với tài xế Cước không bao lâu Tư Ù mang bầu rồi sanh con trai. Bà già cưng
như trứng mỏng. Vậy mà tài xế Cước kiếm chuyện gây gổ mấy lần rồi "xách
gói ra đi". Ra đi khơi khơi dễ dàng làm như chuyện "đầu ấp tay gối,
đứa con hòn máu" chẳng có giá trị gì hơn chuyện quá giang xe đò của người
hành khách ! Cũng chẳng thấy Tư Ù buồn. Có ai hỏi thì trả lời: "Thằng chả
nói nhà tôi tanh cá quá, thằng chả chịu không nổi". Nói rồi Tư Ù cười lên
ha hả. Có ai trách thì tự an ủi: "Ôi !... Thằng chả lái xe đò quen rồi.
Tấp vô bến này một chút rồi đi, rồi tấp vô bến khác. Hơi đâu mà trách? Chớ như
tôi đây ú na ú nần xấu xa xấu xí có thằng đàn ông nào thèm rớ. Vậy mà thằng chả
chiếu cố hết mấy năm, coi thấy bạc nghĩa vậy chớ vẫn còn có tình. Còn phiền
trách nhau chi ?". Từ ngày tài xế Cước bỏ đi, vợ chồng Út Cón " vẫn
chưa có con " hay qua lại nhà Tư Ù ẵm bồng nựng nịu thằng nhỏ và lâu lâu
"mượn" nó về tiệm vàng chơi cả buổi, gọi là để "lấy hên".
Thật ra, đó chỉ là một cái cớ để Út Cón nối lại sợi dây tình cảm bị gián đoạn
từ ngày có mặt tài xế Cước và để tiếng "bồ" vẫn là tiếng nói từ trong
lòng của hai người. Vợ Út Cón cũng mến Tư Ù ở tánh bộc trực nên thường tới lui
"chị chị em em" như đã quen thân nhau từ trước. Tư Ù chẳng những
không thấy ganh ghét vợ Út Cón mà còn thấy "con nhỏ thiệt dễ thương, nết
na đằm thắm, lo cho chồng từng tí từng ly...". Đối với Tư Ù, mọi sự đều dễ
dàng: "Không thành duyên nợ thì thôi, tình thương mình để vào lòng chớ làm
khó khăn rắc rối nhau chi cho chúng ghét". Còn về "chữ tình",
quan niệm của Tư Ù cũng rất là đôn hậu rõ rệt: "Hể mình thương ai thì mình
muốn người đó sung sướng hạnh phúc. Người đó vui, mình vui. Người đó buồn, mình
buồn. Chớ còn nói thương người ta mà cứ đeo theo làm khổ người ta, thì đâu phải
gọi là thương !". Có lẽ nhờ nghĩ như vậy mà tiếng "bồ" của Tư Ù
gọi Út Cón lúc nào cũng thấy trong veo mát rượi như giọt sương trên tàu lá buổi
sáng...
Mặc dù tâm sự đã "gói ghém" kỹ để trong lòng, lâu lâu Tư Ù vẫn thấy
thèm được nói lên "tiếng nói của con tim". Đó là những buổi trưa rỗi
rảnh, nằm một mình trên võng đong đưa, ngẵm nghĩ viễn vong để cuối cùng lại trở
về hoàn cảnh của hai người. Không kềm được trào lòng, Tư Ù ngân nga một câu vọng
cổ: "Anh Hai ôi... Cái mối tình của em đối với anh... nó tợ như trời cao
biển rộng ...ư. ..sông... à...dài...".
Xuống "hò" thật ngọt, và nghe như nỗi niềm trắc ẩn cũng theo chữ
"dài" mà tuôn ra nhè nhẹ. Mấy tiếng "Anh Hai ôi..." được
"vô" một cách tình tứ. Sợ thiên hạ biết, chớ nếu dám "vô"
bằng "Anh Út ôi..." chắc phải mùi hơn nhiều... Và chỉ có như vậy
thôi, và chỉ cần có như vậy thôi, Tư Ù cũng đã thấy nhẹ, thấy thỏa mãn, thấy
như đã nói hết những gì mình muốn nói!
* * *
Khi
chị Tư "nối nghiệp"bà già, chợ cá hãy còn nhóm mỗi sáng trên sân xi
măng. Hồi đó thằng con trai đã lớn, đang đi quân dịch, và vợ chồng chú Út cũng
đã có hai cô con gái. Người trong làng kêu Tư Ù bằng "chị Tư", nhưng
lại gọi Út Cón bằng "chú Út". Có lẽ tại cái gốc Tàu. Bởi vì họ đã có
thói quen gọi người Tàu bằng "chú" "chú chệt" và vẫn gọi
tiếp tục như vậy cho dù "chú chệt" đó lần hồi đã già bảy tám mươi
tuổi. (Thành ra trong tiệm vàng đã có "chú Phấn", bây giờ tấn lên có
"chú Út Cón". Hai cha con đều được gọi bằng "chú", ngang nhau
!)
Mỗi
sáng chị Tư dọn hàng ra chợ, ngay trước nhà, nên cũng tiện và nhanh. Hàng cá
của chị gồm có hai thau nhôm thật to đầy cá, nước trong veo, mộït tấm thớt gỗ
dầy, hơi trũng xuống ở phần giữa vì đã được sử dụng lâu năm, một con dao yếm để
đánh vảy mổ bụng cá, một con dao phay để chặt khúc cá, một cái thau nhôm nhỏ để
bắt cá cho khách hàng coi và một cái cân xách. Đặc biệt trong chợ cá, chỉ có
chị Tư là không có cái chài vồ. Dụng cụ này bằng gỗ, thường được dùng để đập
lên sóng dao phay khi muốn chặt con cá to ra từng khứa và nhứt là khi cần bổ
hai cái đầu cá để đừng bị dập và để mỗi miếng "coi cho nó ngon".
Khách hàng không ưa những khúc cá "bầy nhầy", cho nên hàng cá nào
cũng phải có dao bén ngót, và khi "rả" con cá cở bằng bắp chân trở
lên, phải biết dùng dao yếm để khứa và dao phay với cái chài vồ để
"xả". Vậy mà chị Tư không cần tới cây chài vồ. Bởi vì chị mạnh tay
lắm và chị "nhắm đâu là chặt đúng ngay đó, không xê xích một ly".
Khách hàng ai cũng phục chị Tư ở chỗ đó. Họ nói: "Con Tư nó múa dao như
Sơn Đông. Mình chỉ ở đâu là nó phụp ở đó, ngay bon ngọt xớt... Chớ không phải
như mấy con mẹ kia, cầm chài vồ đập bom bớp nghe mà phát nhức đầu".
Dọn
hàng xong, chị ngồi lên cái hộp gỗ cao bằng hai viên gạch có cái hộc như hộc
tủ. Chị kéo hộc ra để tiền lẻ vào đó, rồi bắt đầu chào hỏi bạn hàng cá và rau
cải. Trong làng, và nhứt là trong chợ, phần đông đều quen biết nhau hết, nên
câu chuyện trao qua trao lại dễ dãng thoải mái. Đó là giờ "thông tin"
của các bạn hàng trong khi người đi chợ còn rải rác lưa thưa. "A... để nói
này nghe, đừng nói ai hết nghen ! Con gái của dì Năm Đôi có bầu với thầy giáo
Thái. Họ giấu dữ lắm đó"... "Chèn ơi! Tội nghiệp con nhỏ hôn
!"... "Thầy bà gì mà ác nhơn. Vợ con cả đống cả lèng rồi mà còn dê con
nhỏ làm chi cho nó khổ"... "Nè ! Nghe nói ông Xả Bảy mới rinh về một
con vợ bé. Không biết phải hôn ?"... "Đâu nà ! Cháu gái của ổng đó.
Đừng nói bậy ổng cào nhà bây giờ"... "Ờ... Con mẹ Sáu bánh lọt sao
hổm rày đâu mất hổng thấy há ?"... vv... Trong lúc bạn hàng vải, hay bạn
hàng xén, đều có nhà hay cửa tiệm nằm vây quanh chợ nhà lồng "nghĩa là qui
tụ lại một chỗ" thì những người bán cá lại có nhà ở rải rác trong mấy xóm
xa chợ như xóm Giếng, xóm Chùa, xóm Lò Gạch, xóm Nhà Máy... Thành ra bạn hàng
cá có "tai mắt" ở khắp nơi. Cho nên họ là giới biết nhiều tin tức
trong làng nhứt. Và họ thông tin ăn bứt "Phòng Thông Tin"!
Khi
chợ đã bắt đầu đông, bắt đầu ồn ào, thì mạnh ai nấy rao hàng mời khách. Chị Tư
cầm cái cán cân nhắc lên để xuống đều đặn làm cho ba sợi xích sắt rơi nhịp
nhàng vào cái dĩa cân, kêu rèn rẹt rèn rẹt, miệng mời tía lia: "Cá cô
Hai... Cá dì Tám". Chị nhớ từng sở thích của khách hàng, như "Dì Sáu
Lộc ưa cá trê vàng, còn cô Năm Ngự lại không ăn được cá không có vảy. Chị Hai
Bia thì hay ăn đầu cá lóc, mà coi chừng, phải có đủ đùm ruột và gan mật còn
nguyên chỉ mới chịu...". Lâu lâu, chị Tư thọc tay vào thau vuốt ve mấy con
cá giống như vuốt ve con mèo con chó ! Vậy mà chẳng có con cá nào
"chém" bàn tay của chỉ hết! Và khi mà chị Tư muốn bắt con nào là chị
luồng thật nhanh ngón tay cái và ngón tay trỏ vào hai mang cá, nhấc bổng ra
khỏi nước. Mấy con cá lốc bằng bắp đùi, chị cũng chỉ bắt có một tay. Mạnh như
vậy nên bạn hàng cá ai cũng nể mặt, dù xưa nay họ nổi tiếng là giới thô lỗ hỗn
ẩu.
Một
hôm, chợ vừa nhóm, chị Tư mặt hầm hầm, cầm con dao phay chém xuống thớt nghe
cái cốp rồi chỉ mũi dao về phía một bạn hàng cá ngồi cách xa mấy thước phía đối
diện, giọng lanh lảnh:
Lia
! Tao nghe nói mầy đang rêu rao vụ gì đó phải không?
Tiếng
"không" được nhịp bằng tiếng dao chém xuống thớt. Cô gái tên Lia vừa
sang nước cá vừa trả lời:
Chuyện
gì đâu ai biết !
Chị
Tư vẫn nhịp dao xuống thớt:
Vậy
chớ đứa nào đi nói cùng đồng là thằng cha Út Cón gian lận, bán vàng giả mà
la vàng thiệt ? Hả ? Hả ?
Bỗng
con Lia đứng sọc lên, tay chống nạnh, mặt gân gân:
Ờ
! Tôi nói đó ! Rồi có sao không ?
Chị
Tư cũng đứng lên, tay vẫn cầm dao phay điểm điểm:
Có,
chớ sao không ! Tao hỏi mầy vậy chớ Út Cón có lường gạt mầy không ? Mầy nói cho
bà con nghe coi !
Con
Lia "khựng" một chút rồi cũng gân gân:
Thì
thằng chả làm đồ giả tôi nói làm đồ giả. Mắc mớ gì chị mà chị xía vô ?
Chị
Tư nổi nóng, la lớn:
Mắc
mớ chớ sao không mắc mớ ! Út Cón là bạn của tao, tao không muốn ai nói xấu
thằng chả hết. Nếu mầy có bằng cớ thì trưng ra cho bà con coi, rồi đem lên hội
đồng xã mà thưa thằng chả. Chớ còn không có gì hết mà cứ đi rêu rao nói xấu
người ta là tự mày muốn sanh chuyện chớ ai vô đây ?
Thấy
quá căng, mấy bà bán cá vội vã xúm lại can gián, mỗi người vài câu, ồn ào
hỗn tạp. Trước khi ngồi xuống, chị Tư còn "bồi" thêm một câu,
gọi là để "dằn mặt":
Nè
! Tao nói cho mầy biết. Mầy mà còn kiếm chuyện nữa thì con dao này nó không tha
mầy đâu ! Cái thứ ăn ở bất nhơn thất đức không chém cũng uổng...
Con
Lia vừa sợ, vừa đuối lý, làm thinh ngồi xuống nhưng trong lòng "thề sẽ có
ngày nó rửa nhục". Nghe lộn xộn, chú Út Cón từ sau nhà bước ra trước cửa
tiệm để nhìn. Lúc đó, cuộc cãi vã cũng vừa chấm dứt. Thiên hạ đi chợ đã bắt đầu
đông. Thành ra chú không biết rằng "bồ" của chú vừa mới binh chú.
* * *
Về
sau chợ cá nhóm trên sàn gỗ xây chờm ra sông. Chị Tư mỗi lần dọn hàng phải đi
xa hơn một chút. Chị vẫn "to thuyền lớn bánh", vẫn hay cười, dễ ngủ,
mặc dù thằng con duy nhứt của chị đã chết trận ở ngoài Kontum. Chị nói: "Sống
chết tại số. Có khóc mấy, nó cũng không sống lại được !". Trên bàn thờ,
cạnh hình ông bà già, chị để hình thằng con mặc quân phục, ngực đeo huy chương.
Chị thích cái ảnh đó lắm bởi vì chị thấy nó giống kép Hùng Cường !
Trưa
trưa, chị vẫn nằm đong đưa trên võng. Chị thích nằm võng bởi vì nó mát lưng.
Cái võng của chị được thắt bằng sợi cây gai đập tơi ra rồi tết lại mịn màng,
thân tau vừa to vừa dẹp lại không có gút thành ra nằm êm và không cấn làm ngứa
lưng như võng lưới. Chị cũng chê võng nhà binh, tuy nằm êm nhưng khi trở mình
nó lại kêu sột soạt !
Và
lâu lâu, chị vẫn ngân nga câu vọng cổ của chị để thấy cuộc đời này hãy còn
"cái gì để nói"...
* * *
Biến
cố tháng tư 1975...
Cả
làng treo cờ đỏ. Khắp nơi căng biểu ngữ đỏ. Tất cả bảng hiệu đều được sơn lại
bằng màu đỏ. Coi hực hỡ như ngày xưa làng xã làm đám cúng ở miễu ông Tà !
Loa
được bắt trên cành cây đầu cột, ngã tư ngã ba, phát thanh nghe rồ rồ như có
tiếng máy xe đò Thiên Thành nằm trong đó ! Không có phát thanh cải lương nên
nghe riết cũng nhàm. Rồi mạnh loa loa nói, mạnh người người nói.
Bây
giờ người ta không còn thời giờ rảnh nữa. Hội họp, học tập, hoạt động đoàn thể
liên miên, chưa kể đi lao động đều đặn...
Chợ
cá vẫn họp buổi sáng. Giờ "thông tin" cố hữu của bạn hàng cá cũng
thấy được tiếp tục nhưng có thâu ngắn lại và nhứt là bây giờ thấy nói nhỏ
chuyền cho nhau nghe, chớ không bô bô như hồi trước. Cho nên người ta biết là
con Lia bây giờ theo tụi cách mạng dữ lắm. Nó nghỉ bán cá để tổ chức "phụ
nữ này phụ nữ nọ gì đó" và hay tới lui với "thằng cha Bắc kỳ công an
ở nhà thầy giáo Thái" (nhà này cách mạng tịch thâu vì thầy giáo và gia
đình đã bỏ chạy mấy ngày cuối tháng tư bảy mươi lăm). Và họ nói: "Con nhỏ
lúc này lên chưn lắm, bà con! Thấy có đội nón cối nữa!".
Một
hôm vào xế chiều, tên công an dựng xe đạp trước nhà chị Tư, nhìn quanh rồi bước
vào nhà. Trong nhà lu khạp chứa cá đứng dài dài từ nửa nhà trên chạy tuốt ra
phía sau. Nhà không có vách ngăn nên nhìn thấy trống bốc xuống bếp. Chị Tư đang
lúi húi nhúm lửa ở đó, thấy khách vội chạy lên. Chị khoác vội cái áo bà ba, cầm
chổi lông gà quét nhanh mặt ván gõ, rồi mời:
Mời
anh ngồi. Có chuyện gì không ?
Tên
công an ghé đít bên mép ván, nhìn quanh:
Chị
ở có một mình à ?
Chị
Tư cũng nhìn quanh:
Thì
anh thấy đó. Còn ai nữa đâu ?
Rồi
như sực nhớ ra, chị tiếp:
À
! Còn... ông Táo. Nhưng ổng không nằm trong hộ khẩu, ổng nằm trong bếp !
Rồi
chị cười tự nhiên thích thú với hình ảnh hài hước đó. Tên công an làm thinh.
Dưới bếp, lửa nhúm khi nãy không "bắt", làm khói lên um tùm. Chị Tư
"xin lỗi" rồi chạy xuống bếp vùi nhanh mấy cây củi xuống tro. Xong,
trở lên, vừa đi vừa nói:
Lúc
sau này dầu hôi bị hạn chế, mỗi hộ chỉ mua được có một xị để dành thắp đèn
thành ra không dùng lò dầu hôi. Phải chụm bằng củi, khói thôi là khói !".
Tên
công an cũng nói đẩy đưa:
Đấy
là buổi đầu thôi chị ạ ! Tại vì khâu phân phối vật tư chưa hoàn tất mạng lưới
đấy chứ. Rồi chị xem. Vài hôm nữa xăng dầu sẽ được đưa về đây cả khối !
Chị
Tư vừa cười vừa nói:
Gì
thì tôi không biết. Chớ hôm rồi bà Tám Liệt Sĩ... xin lỗi anh, trong làng bây
giờ kêu bà Tám Tiếu là bà Tám Liệt Sĩ, chớ không phải tôi đặt ra như vậy đâu.
Tên
công an gật gật đầu:
Tôi
biết. Gia đình bà má đó theo cách mạng từ thời bốn mươi nhăm. Sau này đều hy
sinh cả. Giải phóng rồi ít lâu sau chính tôi đã đưa bà má lên tỉnh để lảnh bằng
liệt sĩ và huân chương...
Chị
Tư gật đầu tiếp:
Phải
rồi. Đúng là bà đó. Hôm rồi, sau khi mua phần dầu hôi của bả, bả đưa xị dầu hôi
lên cao, vừa đi dọc theo cái đuôi đồng bào đang đợi tới phiên mình, vừa nói...
Chị
Tư đưa bàn tay trái lên trên không, ngón cái và ngón trỏ ra bộ kẹp cổ chai xị
tưởng tượng, cất giọng the thé nhái bà Tám Liệt Sĩ:
Nè...
Đồng bào coi đây nè ! Cái này là dầu hôi nghe không. Dầu hôi của Nhà Nước ta
bán cho nhân dân. Quí lắm đó ! Không phải để thắp đèn. Mà để nhỏ vô con mắt cho
nó sáng ra, nghe chưa ?
Nói
xong, chị Tư cười thích thú. Tên công an chỉ nhếch mép. Không biết anh ta ráng
kềm cái cười đang muốn bật ra hay anh ta đang cố tạo một nét cười để
chứng tỏ rằng mình cũng biết thưởng thức khía cạnh trào phúng ý nhị của câu
chuyện ? Anh ta bước lại bàn thờ, nhìn mấy tấm ảnh, hất hàm hỏi:
Ai
thế ?
Chị
Tư trở ngược cây chổi lông gà chỉ từng tấm ảnh:
Đây
là ông già tôi, hồi ổng còn trẻ. Chớ ổng chết hồi ổng trên sáu mươi lận. Đây là
bà già, chụp hình xòe đủ mười ngón tay !
Chị
ngừng ở đó để cười rồi mới tiếp:
Còn
đây là thằng con tôi, liệt sĩ ở Kontum !
Tên
công an cãi:
Chị
dùng từ sai. Lính ngụy không thể nào là liệt sĩ cả. Bị giết thì cứ nói là bị
giết. Phải cho rõ ràng ở điểm đó.
Chị
Tư ngạc nhiên:
Coi
! Đi dánh giặc rồi chết ngoài mặt trận, mấy anh không gọi là liệt sĩ thì gọi là
khỉ gì ?
Anh
ta giải thích:
Chị
không hiểu. Giữa ta với ngụy khác nhau chứ. Ta, vì nhân dân vì Tổ quốc mà hy
sinh, thế mới gọi là liệt sĩ. Còn ngụy là lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ...
Chị
Tư đưa một tay lên chận lại:
À
! À ! Đến đây tôi xin lỗi anh. Chính anh mới không hiểu gì hết. Thằng con tôi
chưa hề đánh thuê chém mướn. Nó đi quân dịch thì giống như ngoài đó mấy anh gọi
là đi nghĩa vụ gì gì đó. Nó cũng vì đồng bào của nó, vì xứ sở của nó mà hy
sinh, chớ nó có đánh giặc để giữ gìn đất đai xứ Mỹ bao giờ ?
Trong
lúc tên công an chưa kịp "mở miệng" thì chị Tư đã nói tiếp, tay cầm
cây chổi lông gà trở ngược quơ qua quơ lại trên không, để "vẽ" cho
câu nói:
Ngoài
đó đánh vô thì trong này phải đánh ra chớ bộ ngu dại gì mà đứng làm thinh đưa
đầu cho thiên hạ đập ? Phải không? Như vậy gọi là đánh thuê chém mướn à ?
Thấy
tình hình sắp đi vào ngõ bí và "con mụ hàng tôm hàng cá" này cũng
không phải tay vừa, tên công an "đâm" đại một câu:
Chắc
là con chị phải ác ôn lắm nên mới có đến hai huân chương.
Chị
Tư cười ha hả:
Nếu
nói như anh vậy thì mấy đồng chí cao cấp của anh phải ác ôn gấp mấy chục lần
thằng con tôi. Bởi vì người nào người nấy chụp hình thấy đeo một ngực mề đai !
Rồi
sực nhớ ra, chị Tư hỏi:
À
! Chút xíu nữa quên mất. Anh muốn gặp tôi có chuyện gì không ?
Tên
công an như nắm được cái phao, vội vã đổi giọng ra chiều thân mật:
Chuyện
này xin chị giữ kín cho. Người ta nói với tôi rằng Út Cón còn giấu vàng, không
kê khai hết trong kỳ kiểm kê vừa rồi. Tôi cũng nghi như vậy bởi vì thấy anh
ta... thế nào ấy.
Chị
Tư nghiêm nghị:
Chuyện
này... Anh là chánh quyền, anh phải đi hỏi ảnh chớ sao lại hỏi tôi ?
Tên
công an thấp giọng:
Người
ta nói với tôi rằng chị thân với Út Cón lắm. Tôi muốn nhờ chị nói với anh ấy
một tiếng để anh ấy mang nạp cho Nhà Nước số vàng còn cất giấu. Tôi sẽ giữ kín
chuyện này và sẽ không báo cáo lên cấp trên. Tôi muốn giải quyết như trong gia
đình thôi. Chị hiểu không ?
Suy
nghĩ một lúc, chị Tư trả lời:
Thiệt
tình với anh: tôi với Út Cón là bạn nhưng tôi chưa hề biết chuyện làm ăn trong
nhà của ảnh ra làm sao hết. Và cũng không bao giờ chen vô. Nhưng tôi nhứt quyết
với anh là Út Cón xưa nay không có gian xảo. Bà con ở đây ai cũng biết hết.
Tánh ảnh lại hiền khô và... hơi nhát nữa. Chắc không dám làm chuyện động trời
như anh nói đâu.
Chị
Tư mỉm cười, nhớ lại hồi nhỏ lần đầu rủ Út Cón vào vườn sau chùa "ăn cáp
nhãn", Út Cón khoát khoát tay từ chối mà mặt mày xanh dờn làm như đã bị bắt
tại trận. Vậy mà đã mấy mươi năm... Tên công an đưa tay xem đồng hồ, rồi vừa
bước ra cửa vừa nói:
Tôi
về đây. Xin chị giúp tôi và nhớ giữ kín chuyện này nhá.
Chị
Tư làm thinh, nhìn theo tên công an, rồi sẵn đó nhìn sang nhà bên kia. Bên kia,
chắc vừa ăn gì xong nên thấy chú Út đứng xỉa răng trước cửa tiệm.
Đợi
tên công an đạp xe đi một lúc, chị Tư mới bước ra ngoài cửa ngoắc chú Út. Chú
đủng đỉnh đi qua tay vẫn tiếp tục xỉa răng. Vào nhà, chú hỏi:
Chuyện
gì vậy bồ?
Chị
Tư thấp giọng:
Thằng
cha công an nó nghi bồ còn giấu vàng đó.
Chú
Út cười như mếu:
Giấu
khỉ gì. Hồi kiểm kê, họ nói nghe ngon lắm: cứ kê khai đầy đủ để làm tài liệu
thống kê trong mỗi ngành nghề, chớ còn của ai nấy giữ để tiếp tục hành nghề như
cũ, không có gì thay đổi. Vậy rồi... hốt hết của người ta ! Không còn tới một
chỉ để làm thuốc, lấy gì mà giấu ?
Chị
Tư suy nghĩ một lúc mới nói:
Chắc
có đứa nào đâm thọc gì đây. Gặp bọn này là thứ đa nghi nên dễ tin lắm. Bồ cũng
nên coi chừng đó nghe ! Thời bây giờ không biết ai là ai hết. Thôi ! Bồ về đi,
kẻo tụi nó thấy, tụi nó nghi bồ qua... gởi vàng cho tôi giấu thì oan tôi lắm,
nghe bồ.
Nói
xong, cười hăng hắc làm chú Út đang rầu thúi ruột cũng bật cười theo. Làm như
chẳng có gì phải quan tâm hết.
Tuần
lễ sau, vào quá ngọ sau khi tan chợ, công an đưa bộ đội tới xét nhà chú Út Cón.
Xét kỹ đến nỗi giường chiếu tủ bàn cà ràng ông Táo, quần áo sách vở gì gì cũng
lôi tung ra. Họ còn bắt thang trèo lên nóc lật một số ngói trong lúc dưới đất
một tốp khác cầm búa gõ từng viên gạch, từng mảng tường. Thậm chí còn cạy mấy
chục viên gạch và đào quật lên mấy thước đường cống.
Bên
ngoài hàng xóm bu lại coi thật đông, kẻ nói vô người nói ra ồn ào không thua gì
"trận chiến" ở bên trong. Chị Tư can thiệp mấy lần với tên công an
nhưng anh ta làm như "không biết chị Tư là ai". Mặt lạnh như tiền,
anh ta chỉ huy cuộc khám xét giống như đang bươi một đống rác. Cuối cùng, không
tìm thấy gì hết, mặt anh ta còn lạnh... hơn tiền. Anh ta ra lịnh bắt chú Út dẫn
đi, để lại người nhà "thím Út và hai con gái" gào khóc như đám ma và
để lại căn nhà bây giờ thật sự giống như một đống rác !
* * *
Chú
Út bị giam trên tỉnh. Ở đâu, người nhà không được biết. Chỉ biết tin tức qua
tên công an lúc này tới lui thường xuyên nhà thím Út, gọi là "đến thăm
viếng an ủi gia đình và giải thích đường lối chủ trương rõ rệt sáng suốt của
Đảng và nhà Nước". Lâu lâu, thấy anh ta dẫn tới một vài anh bộ đội, ngồi
lê la nói chuyện. Chị Tư để ý nhiều lần như vậy nên phân vân tự hỏi:
"Không biết cái thằng Trời đánh này nó muốn cái gì ? Nhà tinh là đàn bà
con gái không...".
Người
ta bắt đầu xì xào bàn tán...
...
Chiều hôm đó, tắm xong, chị Tư vừa chải tóc vừa bước lên nhà trên. Chợt nhìn
thấy thiên hạ bu đông ở nhà chú Út và có tiếng khóc than trong đó. Chị bước ra
cửa thì vừa gặp bà Năm Chia. Vội hỏi:
Chuyện
gì ở bển vậy thím Năm ?
Bà
Năm Chia nhìn chị Tư với cặp mắt đỏ hoe, nói bằng một giọng trống rỗng:
Thằng
Út chết rồi !
Chị
Tư nghe choáng váng mày mặt, trời đất bỗng tối sầm lại. Chị tì người vào khuôn
cửa, cái lược sừng rơi xuống đất. Mắt mở to, ráo hoảnh. Miệng há ra để thở,
nhịp thở dồn dập như muốn bứt hơi. Làm như bên trong con người chị chẳng còn gì
hết, chẳng giữ được gì hết. Và cũng không còn cảm giác gì hết...
Một
lúc lâu sau, chị lảo đảo bước vào trong nhà, lần theo mép bộ ván mà đi, lần
theo lu khạp mà đi, lần theo vách mà đi. Trong đầu loáng thoáng ý nghĩ phải tới
một nơi nào đó kín đáo hơn là ngoài cửa, kín đáo hơn là trong nhà. Một nơi nào
đó chẳng còn ai hết. Một nơi nào đó chẳng có gì hết. Một nơi nào đó chỉ có một
mình mình. Một cái kẹt. Một cái hốc. Không biết để làm gì. Chỉ thấy cần làm như
vậy, cần được như vậy. Chẳng có gì rõ rệt hết. Lơ mơ lơ mơ...
Cuối
cùng, chị bước vào nhà tắm đóng cửa lại. Gài then xông, chị chỉ còn đủ sức dán
lưng vào tường và cảm thấy hai chân mềm như bún. Thân chị tuột lần xuống đến
khi đụng mặt gạch còn ướt nước tắm khi nãy. Chị ngồi bẹp ở đó mà nghe trong
người có cái gì đang dồn căng lên cổ họng từng cơn làm chị đau thắt. Chị cố
nuốt xuống, nhưng càng nuốt, "cái gì đó" càng dồn mạnh lên. Để rồi,
chịu không nổi nữa, chị nấc lên mấy tiếng, gục đầu xuống mà nghe nước mắt tuôn
ra như suối...
Lâu
thật lâu sau, chị Tư đứng lên, vẫn để nguyên quần áo thọc gáo vào lu múc nước
xối ào ào. Nước mát lạnh làm cho chị tĩnh hẳn. Chị lau mình thật chậm rãi, thay
đồ cũng thật chậm rãi. Làm như để có thời gian lấy một quyết định. Xong chị qua
nhà thím Út Cón.
Vừa
thấy chị Tư bước vào, thím Út òa lên khóc:
Tụi
nó giết anh Út rồi, chị Tư ơi...
Chị
Tư bước lại ôm thân hình mảnh khảnh của thím Út, tay vuốt vuốt lưng như đang dỗ
về người em gái. Hai đứa con chú Út từ nhà sau chạy ra, vừa khóc vừa xà vào
người chị:
Cô
Tư ơi...
Chị
dang tay ôm hết ba mẹ con, ôm hết những gì còn lại của Út Cón. Không còn nước
mắt để khóc nhưng còn đủ tĩnh táo để nhận thấy rằng từ đây, mình phải thay Út
Cón để bảo vệ gia đình này mặc dù không ai gởi gắm hết.
Nửa
khuya đêm đó, chị Tư trở dậy. Trong bóng tối, chị mò mẫm khoác áo bà ba đen
máng sẵn trên cây cột từ đầu hôm, cập nách con dao phay quấn trong cái bao bố
nhỏ đặt sẵn cạnh chân bộ ván gõ, bước ra đóng nhẹ cửa lại. Bên ngoài, trời đầy
sao. Gió sông nhè nhẹ mát rượi. Chị bước đi tự nhiên, chẳng chậm rãi chẳng gấp
rút. Giống như đi công chuyện bình thường. Ngoài đường, vắng teo. Mấy con chó
hoang ngủ dưới dãy thớt thịt trong nhà lồng chợ ngóc đầu lên nhìn, sủa vu vơ
mấy tiếng rồi lại nằm xuống. Chẳng có gì phải bận tâm.
Nhà
thầy giáo Thái nằm xéo xéo trường tiểu học, Điểm đặc biệt ở đây là nhà bếp và
sàn nước nằm ngay sân trước bởi vì ở đó có cái giếng. Thành ra hồi xưa vào giờ
ra chơi, học trò hay chạy qua đó uống nước. Lâu lâu còn được thím giáo cho mấy
cái bánh men vì thím làm bánh men bánh kẹp để bỏ mối ở xóm dưới đầu trên... Từ
ngày công an dọn về đó, chẳng thấy đứa nào chạy qua hết.
Chị
Tư bước vào hàng ba, thấy trong nhà có ánh đèn. Nghĩ: "Chắc thằng Trời
đánh đó đang làm báo cáo. Không biết nó đang muốn hại ai nữa đây ?". Chị
đưa tay gõ cửa. Có tiếng người hỏi:
Ai
đấy ?
Chị
Tư trả lời như không trả lời:
Tôi
!
Nghe
giọng đàn bà, tên công an yên chí:
Chờ
tí !
Có
tiếng khóa lọc cọc rồi cánh cửa mở ra. Ánh đèn dầu từ bên trong hắt lên người
chị Tư, tuy không sáng lắm nhưng vẫn thấy rõ nét trầm tĩnh tự nhiên trên gương
mặt tròn trịa. Ở đó vừa hiện lên một nụ cười mà tên công an giàu tưởng tượng
cho là "đầy nhiệt tình cách mạng". Anh ta bước ra đảo mắt nhìn quanh
rồi mới mời:
Vào
đi !
Tiếng
"đi" vừa dứt là chị Tư đã bổ con dao phay vào ngay giữa đầu, nhanh
gọn và chính xác như chị bổ cái đầu cá. Xong, chị bước vào thổi tắt cây đèn dầu
rồi ra sàn nước rửa ráy tay chân mình mẫy và con dao. Trước khi ra về chị nhìn
lại hàng ba: trong bóng tối chị vẫn thấy được thằng "Trời đánh" nằm
một đống, không nhúc nhích.
Hôm
sau, cả làng đều biết tin tên công an bị chém. Vậy là bàn tán xôn xao...
"Nhờ mấy con chó bu lại giành giựt ở hàng ba nhà thầy giáo Thái người ta
mới để ý. Chớ không thì cầu tới trưa trờ mới hay"... "Thiên hạ đồn
tại thằng chả lấy vợ người ta"... "Ông Sáu Lịch dạy võ ở xóm Lò Heo
quả quyết rằng thằng cha nào chém nhứt định phải có nghề. Chớ người thường thì
sức mấy mà chém ngọt như vậy"... "Ai mà giỏi vậy không biết
?"... "Còn gan nữa chớ ! Chém cách mạng mà...". Có người vốn đã
thù ghét sẵn trong lòng, buột miệng nói: "Chớ phải là tôi, tôi chặt cha nó
ra làm ba khúc cho nó đáng !"...
Trong
làng, chỉ có một người biết ai đã chém tên công an. Người đó là con Lia bán cá
hồi trước "cách mạng". Nhưng nó đã bỏ làng trốn mất ngay ngày hôm đó,
bỏ lại mấy bộ đồ màu cỏ úa và cái nón cối. Chánh quyền nghi ngay cho nó. Vậy
rồi họp hành liên miên để xem có "phát hiện" gì thêm không bởi vì
"tên phản động ác ôn do ngụy cài vào hàng ngủ của ta từ ngày cách mạng
thành công, nhất định phải để lại nhiều dấu vết hay bè lũ của nó, ta cần phải
nâng cao cảnh giác!".
Trưa
đó, nằm đong đưa trên võng, chị Tư suy nghĩ viễn vong rồi đưa bàn tay trái lên
nhìn chiếc nhẫn bạc của Út Cón chạm trổ cho hồi đó, thuở Út Cón chưa vợ, thuở
hai người còn thật "bồ" với nhau... Chị bồi hồi nhận thấy tiếng
"bồ" quen thuộc, từ nay sẽ không còn dùng tới nữa. Tiếng
"bồ" gọi nhau thuở nhỏ. Tiếng "bồ" nhè nhẹ êm êm của tuổi
dậy thì. Tiếng "bồ" mang mểng yêu thương giấu kín, về sau, khi chẳng
thành duyên chẳng thành nợ. Và tiếng "bồ" già dặn, đậm đà của bây
giờ, mới đây, trước khi Út Cón bị bắt. Tiếng "bồ" của mấy chục năm
đó, còn ai để mà gọi, từ nay ? Chị bỗng thèm hát lại câu vọng cổ. Lần này, chị
vô "Bồ ơi...". Tiếng "ơi" bị ngẹn ngang. Chị ngừng ở đó một
lúc để kềm xúc động. Rồi chị "bắt" trở lại, nhanh nhanh dồn dập chớ
không ngân nga sợ trào lòng cắt đôi câu hát: "Bồ ơi ! Cái mối tình của em
đối với bồ... nó tợ như trời cao biển rộng?...ư...sông...à ...dài". Tiếng
"dài" không còn "ngọt" như xưa. Tiếng "dài" bị
đứt khoảng. Giống như khúc đuôi còn nằm kẹt đâu trong lòng. Chị vói tay lên đầu
võng rút cái khăn lông đắp vội lên mặt, bởi vì chị vừa nghe mí mắt mình mọng
nước !
Từ
đó chị Tư Ù thôi ca vọng cổ.
Tiểu
Tử