My religion is simple. My religion is kindness
- H. H. 14th Dalai Lama
Tôi được
chị Trương Anh Thụy gửi cho cái máy ảnh Canon nhỏ xíu (trông cứ như
một món đồ chơi) rồi lại được anh Nguyễn Công Bằng “kiên nhẫn” chỉ
cách sử dụng. Xong, tôi đi quanh xóm để thực tập ngay và chụp được
hai tấm hình hơi lạ: một con chó bông đi lạc, và một mảnh giấy... tìm
rùa!
Xin giúp
tìm lại con thú thân yêu của gia đình... chúng tôi rất thương yêu và
nhớ nó. Pela bị bệnh tiểu đường và cần phải có thuốc insulin. Nếu
tìm được xin gọi số...
Mất một
con rùa lớn... Nó cần thuốc men và một chế độ dinh dưỡng đặc biệt.
Tìm được xin hậu tạ.
Hai “tác
phẩm nhiếp ảnh đầu tay” này, rõ ràng, không được “đặc sắc” gì cho
lắm. Tuy thế, những dòng chữ ghi kèm cứ làm cho tôi băn khoăn
mãi.
Cảm
thấy tình trạng bất ổn của một con thú nuôi trong nhà, đưa đi khám
bệnh, tìm ra là nó có bị tiểu đường, rồi xin toa mua thuốc chữa trị
là chuyện tương đối bình thường. Ai nuôi chó cũng có thể làm như
vậy, và ông/bà bác sĩ thú y nào cũng dễ dàng tìm được loại bệnh
này bằng cách đo mức glucose trong máu.
Nhưng
nuôi một con rùa (loại thú khép kín và gần như vô cảm) mà biết nó
không khoẻ, cần thuốc men và một chế độ dinh dưỡng đặc biệt thì chủ
nhân phải là một người vô cùng mẫn cảm và nhân ái.
Cách
thiên hạ chăm nuôi thú vật khiến tôi không khỏi trạnh lòng khi nghĩ
đến thân phận con người ở quê hương, xứ sở của mình - nơi đã xảy một
“Cuộc Chiến Biệt Vô Tăm Tích,” như lời của
blogger Bùi Tín:
Thời gian
“biệt vô tăm tích” người thân của mỗi gia đình một khác, có khi 2, 3 năm, có
khi 5, 6 năm, nhiều khi trên 10 năm, tùy chiến trường Trị Thiên, Tây Nguyên,
Nam Bộ, hay chiến trường Lào, Miên. Không ai biết rõ con em mình ở nơi nào. Rất
hiếm khi có những tin tức của bạn bè, đồng hương bị thương trở ra, được biết là
người thân ở Khu 5 hay Nam Bộ, hay Tây Nguyên, còn sống, vắn tắt, sơ sài thế
thôi.
Những quân
nhân tử trận được báo tử rất chậm, chậm 1 năm được coi là bình thường, có khi
chậm đến 2, 3 năm, do các đơn vị di chuyển sâu, sổ sách luộm thuộm mất mát, các
đơn vị chia ra, nhập vào, thay phiên hiệu, cán bộ tử thương. Vì lẽ ấy mà đến
nay QĐND miền Bắc có đến 300 ngàn trường hợp quân nhân mất tích, không biết bị
tử trận ngày nào, ở đâu...
Có thể
nói chính sách “biệt vô tăm tích” là quốc sách rất thâm và cực kỳ độc ác, phi
nhân có tính toán của đảng CS trong thời chiến...
Vào
thời bình “quốc sách” này, xem chừng, cũng không khác mấy - theo
tường trình của RFI:
Trong bản
Báo cáo Tình hình Buôn người năm 2014, vừa được công bố ngày 20/06/2014, bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn xếp Việt Nam vào Danh sách loại 2 (Tier 2), vì chính phủ
Việt Nam bị xem là "chưa tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu, tuy
nhiên cũng đã có những nỗ lực đáng kể nhằm xóa bỏ nạn mua bán người..."
Cũng theo
báo cáo Tình hình buôn nguời 2014 của Bộ Ngoại giao Mỹ, phụ nữ và trẻ em Việt
Nam tiếp tục bị bán sang các nước ở châu Á vì mục đích cưỡng ép tình dục, đặc
biệt là Trung Quốc, Cam Bốt, Malaysia, và Nga. Nhiều nạn nhân người Việt của
việc buôn bán tình dục cũng đã được tìm thấy ở Ghana. Một số phụ nữ Việt Nam
sang Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Macao, Singapore hay Hàn Quốc để thành
hôn với người nước ngoài thông qua môi giới, sau đó đã bị cưỡng ép phục vụ
trong gia đình, hành nghề mại dâm, hoặc cả hai.
Bảo cáo
nhắc lại rằng, "làm công trừ nợ, thu giữ hộ chiếu, và dọa nạt bị trục xuất
là những thủ đoạn thường được dùng để bắt các nạn nhân Việt Nam phải phục
vụ". Các mạng lưới tội phạm có tổ chức của Việt Nam và Trung Quốc đã đưa
những người dân Việt Nam, chủ yếu là trẻ em, sang Vương quốc Anh và Đan Mạch,
buộc họ làm việc trong các trang trại trồng cần sa.
Khi được
hỏi về phản ứng của Việt Nam trước báo cáo của Bộ Ngoại Giao Mỹ, về tình hình
buôn bán người trên thế giới, Phó Phát Ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng “khẳng định” như sau:
Tôi xin
khẳng định Chính phủ Việt Nam hết sức quan tâm và đã có những biện pháp, chế
tài cụ thể kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn nạn buôn bán người, đã thông qua
Luật Phòng chống mua bán người và Chương trình hành động quốc gia phòng, chống
mua bán người giai đoạn 2011-2015.
Điều bà
Hằng “khẳng định” - xem ra - không được tương hợp với những sự kiện đã
được ghi nhận. The Guardian, số ra ngày 23 tháng 5 vừa qua,
có bài tường thuật (“3,000 children enslaved in Britain after being
trafficked from Vietnam”) của hai ký giả Annie Kelly và Mei-Ling McNamara.
Xin ghi lại vài đoạn ngắn, theo bản dịch (“3.000 trẻ em bị buôn bán từ
‘đất nước Hồ Chí Minh’ sang Anh làm nô lệ”) của blogger Nguyễn Công Huân:
Giống như
nhiều trẻ em Việt Nam khác, Hiền đã được đưa đến Anh để sống một cuộc đời nô lệ
hiện đại. Em cuối cùng phải vào tù về tội trồng cần sa...
|
Ảnh: theguardian
|
Chuyến đi
của Hiền tới Anh Quốc bắt đầu khi em bị bắt cóc khỏi làng lúc 5 tuổi bởi một
người nói rằng ông ta là chú của em. Như một đứa trẻ mồ côi, em không còn lựa
chọn nào khác ngoài làm theo những mệnh lệnh của người khác. Em đã mất năm năm
đi qua nhiều quốc gia bằng đường bộ, hoàn toàn không biết mình đã đi qua những
đâu, từ Việt Nam qua biên giới giữa Pháp và Anh để tới một căn nhà ở London. Ở
đây em phải làm nô lệ trong nhà trong 3 năm, nấu ăn và dọn dẹp cho nhóm những
người Việt đi ra vào ngôi nhà em bị giam giữ...
Trong lời
khai với cảnh sát, Hiền nói rằng em vẫn không hiểu chính xác loại cây em trồng
là cây gì, mặc dù em hiểu rằng nó rất có giá trị. Em chăm sóc đám cây, sử dụng
thuốc trừ sâu khiến em bị ốm, và chỉ rời căn hộ khi em giúp chuyển các cây cần
sa này tới nơi khác để sấy khô. Em bị khóa trong nhà, bị đe dọa, bị đánh đập và
bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
"Tôi
không bao giờ được trả tiền để làm việc đó", em nói. "Tôi đã không ở
lại đó vì tiền mà vì tôi sợ và tôi hy vọng toàn bộ điều này sẽ sớm kết
thúc."
Khi cảnh
sát đến, họ tìm thấy Hiền một mình với đám cây cần sa. Em kể câu chuyện của
mình cho cảnh sát, nhưng vẫn bị gửi đến trại dành cho tội phạm trẻ tuổi ở
Scotland, nơi em trải qua 10 tháng tạm giam, bị buộc tội trồng cần sa. Em chỉ
được thả sau khi có sự can thiệp của một công tố viên hoàng gia dẫn đến việc em
được xác định là nạn nhân của nạn buôn người...
Hiền đang
cố gắng để xây dựng lại cuộc sống của mình sau khi được tị nạn ở Scotland,
nhưng đang gặp khó khăn để tìm thấy bình an sau nhiều năm chấn thương.
"Tôi vẫn còn lo lắng rằng những kẻ buôn người có thể tìm thấy tôi và đến
nhà tôi. Nhưng bây giờ tôi biết rằng tôi sẽ phải tìm kiếm sự giúp đỡ [từ cảnh
sát]," em nói. "Tôi nghĩ rằng có công lý ở đây, nhưng tôi cũng ước
rằng họ không giam giữ tôi trong tù trong thời gian lâu như vậy. Bằng cách kể
lại chuyện cuộc đời mình, tôi muốn mọi người hiểu những gì tôi đã trải nghiệm ở
đây."
Ở những
nơi khác thì những đứa bé VN khác, đôi khi, còn phải “trải nghiệm”
qua những cảnh đời tàn tệ hơn nhiều. Chắc chắn, không ai có thể quên
được hình ảnh của những bé thơ Việt Nam được tìm thấy trong những
nơi bán dâm ở Cambodia.
Hai em gái Việt (tám và mười tuổi)
trong một động mãi dâm
ở Svay Pak, cách Sứ Quán Việt Nam tại
Phnom Penh
chừng 10 cây số. Nguồn: Shanghai Star.
Cảnh sát Cam Bốt đưa một em bé
Việt Nam 11 tuổi
ra khỏi nhà thổ ở khu đèn đỏ
Toul Kork thuộc Phnom Penh.
Ảnh và chú thích: ECPAT
Khi được
phóng viên RFA hỏi về những sự kiện và hình ảnh trên, nhà phân tích
độc lập về vấn đề buôn bán trẻ em vào đường mãi dâm - ông Aaron Cohen - đã đưa ra nhận định như sau:
“Tôi tự
hỏi tại sao chính phủ Việt Nam không tạo áp lực với Cambodia về vấn đề đó. Tôi
nghĩ là chính ông đại sứ Việt Nam ở Phnom Penh biết rõ các em gái nhỏ tuổi ở
nước mình bị bán qua Cambodia mà không cố tìm cách ngăn chặn. Quả thực điều này
tôi không hiểu ra.”
Tôi cũng
không hiểu được thái độ (cũng như cách hành xử) của những nhân viên
sứ quán Việt Nam ở Moscow, sau khi nghe lời cáo buộc của Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng - Giám Đốc Điều Hành BPSOS
và đồng sáng lập viên Liên Minh CAMSA:
“Trong 4
năm qua, Liên Minh CAMSA (Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Ở Á Châu, chú thích
của người viết) đã can thiệp hay giải cứu và giúp đỡ cho trên 4 ngàn nạn
nhân, kể cả khoảng 300 nạn nhân Việt bị buôn sang Nga làm lao nô hay làm nô lệ
tình dục. Trong tất cả các trường hợp ở Nga này, thủ phạm là những người Việt được
bao che bởi một số giới chức ở Toà Đại Sứ Việt Nam ở Nga.”
Cũng
liên quan đến sự kiện này, trong bản tin của BBC (“Nạn Buôn Người Việt Vào Nhà Chứa Ở Nga”) nghe
được vào hôm 25 tháng 4 năm 2015, có đoạn:
BBC Việt
Ngữ đã liên lạc qua điện thoại với ông Nguyễn Đông Triều, Tham tán công sứ của
Đại sứ quán Việt Nam ở Nga, để hỏi về cáo giác này nhưng ông đã từ chối không
trả lời và yêu cầu BBC "hỏi cơ quan chức năng nào khác".
Ông Triều
cũng nói:
"Tôi
không có trách nhiệm trả lời nhà báo,"
"Những
cái gì cứ gửi tới cơ quan có thẩm quyền."
Khi được
hỏi ông làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam, và nếu Đại sứ quán Việt Nam không
phải là cơ quan có thẩm quyền thì cơ quan thẩm quyền mà ông nói là cơ quan nào,
ông Triều đã bỏ máy.
Những
ông “Tham Tán Công Sứ” (như ông Nguyễn Đông Triều) này hẳn không hề
thiếu trong tất cả những Toà Đại Sứ Việt Nam, ở khắp mọi nơi. Xứ
sở này, lẽ ra, phải được xếp vào danh sách loại III về nạn buôn người
thì hợp lý hơn.
Và tôi
cũng còn nói cho hết lẽ vậy thôi chớ ở một đất nước mà những
“đồng chí lãnh đạo” sẵn sàng bán rừng, bán đảo, bán (tuốt luốt)
mọi thứ tài nguyên thì họ có nề hà chi cái chuyện buôn người.
13.08.2015
Tưởng Năng Tiến