Đôi lời người viết.
Xin
để lại đây những ngày tháng nhục nhằn trong trại tù Cải tạo, tuy trong
đó có những ý nghĩ, quan điểm và nhận xét riêng của cá nhân nhưng mục
đích hoàn toàn không phải để tranh luận, mà chỉ muốn thuật lại những sự
thật không thể quên trong đời.
*
Học tập mười ngày.
Tôi
chở vợ đến cổng trường Pétrus-Ký lúc năm giờ chiều, và hai vợ chồng
chia tay. Mặc dù cả hai chúng tôi đều sinh trưởng ở Sàigòn suốt từ thuở
ấu thời, lúc đó tôi vẫn cảm thấy vợ mình thật bé nhỏ và lạc lõng, lòng
chợt thương nhớ nàng vô hạn, dù chúng tôi chỉ vừa xa nhau chưa đầy một
phút, và bóng nàng còn chưa khất hẳn. Nhìn nàng thật mỏng manh tội
nghiệp trên chiếc xe đạp một mình quay về nhà. Chiếc xe đạp nhỏ này là
kỷ niệm quí giá duy nhất còn lại của hai vợ chồng sau ngày ba mươi tháng
tư 1975. Khi chúng tôi mới lấy nhau, tôi thích chở nàng bằng chiếc xe
đạp này chứ không dùng xe gắn máy.
Khi
bóng nàng khuất hẳn, tôi quay mình thẫn thờ đi vào khuôn viên nhà
trường trình diện cải tạo. Đúng như thông báo của ủy ban quân quản thành
phố Sàigòn “mang theo mười ngày lương thực. Học tập tốt sẽ được trở về
với gia đình”. Lòng tôi như chùng xuống, ân hận đã không chờ thêm một
lúc nữa hãy trình diện, như vậy còn được ở bên cạnh vợ thêm vài tiếng
nữa. Tội cho vợ tôi mới lấy chồng hồi giữa tháng một, đầu tháng năm đã
phải xa nhau. Chính tôi cũng cảm thấy mắt mình nhòa đi, hỏi nàng sao
khỏi đau buồn.
Đầu
óc miên man những lo nghĩ mông lung, không rõ rồi họ sẽ đối xử với mình
ra sao. Người vào trình diện càng lúc càng đông, khoảng chín giờ tối đã
dầy ắp các phòng học. Mười một giờ đêm, những lo nghĩ mông lung ban đầu
của mọi người đã biến thành nỗi lo sợ nặng chĩu vì tiếng máy của đoàn
xe vận tải Molotova vừa ngừng ngoài cổng trường. Chắc chắn chúng tôi sẽ
bị di chuyển đi một nơi xa xôi nào đó, không phải chỉ học tập mười ngày ở
trong phạm vi Sàigòn Gia Định như một số anh em đã bàn tán hồi chập
tối.
Tháng
năm trời Sàigòn dù về đêm vẫn oi ả không dịu bớt chút nào, những chiếc
Molotova căng bạt bít bùng, làm sao chúng tôi chẳng lo sợ? Bắt đầu lên
xe từ mười một giờ đêm, đến gần hai giờ sáng mới xong, chúng tôi bị dồn
vào những chiếc Molotova tối thui. Mỗi xe nhét khoảng ba chục anh em và
hai bộ đội trang bị AK47 ngồi ở hai góc cuối xe chỉa súng nhăm nhăm. Anh
em ngồi chặt cứng như những bó giò, muốn xoay trở một chút thật là cả
một vấn đề khó khăn. Không khí trong xe rất ngột ngạt, phần vì hai họng
AK đen ngòm, phần vì xe được bao kín mít, ngay cả đằng sau chỗ hai tên
bộ đội ngồi cũng có phủ bạt, không để hở. Tinh cảnh này càng làm cho sự
lo sợ của mọi người tăng lên gấp bội. Đi học tập sao lại phải bịt kín
mít, và di chuyển đêm, để che mắt dân chúng?
Đêm
Sàigòn dạo này đường phố vắng tanh vắng ngắt. Vốn từng được mệnh danh
thành phố về đêm, đèn mầu luôn rực sáng, xe cộ tấp nập, du khách dập
dìu. Từ ba mươi tháng tư, Sàigòn ban đêm đã hoàn toàn đổi hẳn, không
khác nào một bãi tha ma. Có phải Sàigòn vẫn còn kinh hoàng vì cái ngày
đau thương ba mươi tháng tư? Hay Sàigòn đã kiệt sức qua những máu lửa
ngụt trời? chán chường cho cuộc đổi thay? Và chuyến ra đi âm thầm của
chúng tôi, Sàigòn không hề hay biết.
Tiếng
xì xào chuyền tai nhau, bắt nguồn từ hai anh bạn ngồi ở hai góc phía
đầu xe, họ đã nhận ra lộ trình chuyến đi qua khe hở nhỏ của miếng bạt
phía trước. Từ Pétrus Ký, đoàn xe theo đại lộ Cộng Hòa ra đường Lê Văn
Duyệt hướng thẳng về phía Tây Ninh. Họ đưa chúng tôi lên biên giới
Kampuchia!
Tám
giờ sáng hôm sau đoàn xe vào Trảng Lớn, căn cứ pháo binh của Sư Đoàn 5
Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi tạm trú ở đây và được chia ra thành
từng nhóm:
Nhóm một, gồm các sĩ quan từ cấp Thiếu tá trở lên.
Nhóm hai,
cấp trung úy trở xuống của các binh chủng Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến,
Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Tình Báo, và Chiến Tranh Chính Trị.
Nhóm ba, từ Trung úy trở xuống của hai Quân chủng Không Quân, Hải Quân và các binh chủng Thiết Giáp, Pháo Binh.
Nhóm bốn, từ Trung úy trở xuống của các binh chủng Bộ Binh, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân.
Riêng
cấp đại úy cũng có một số được xếp vào nhóm hai ở các trại tù trong
miền nam. Tuy nhiên nếu là đại úy thuộc Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến,
Biệt Dộng Quân và Chiến Tranh Chính Trị, đều bị đưa vào nhóm một với cấp
tá. Sau này tôi được biết Việt Cộng đã liệt các vị thuộc nhóm một vào
thành phần Ngụy quân cấp cao cực kỳ ác ôn, và đưa ra các trại tù cải tạo
miền bắc, nhóm hai thành phần cực kỳ ác ôn có nhiều nợ máu, nhóm ba
Thành phần cực kỳ ác ôn, nhóm bốn Thành phần ác ôn.
Sau
thời gian tạm trú khoảng một tháng, đội ngũ đuợc chia xong. Đại đội họ
gọi là đội, trung đội là B, tiểu đội là A. Chúng tôi bị đưa đi lao động
khổ sai khắp các trại tù dọc biên giới Việt, Miên, Lào. Tôi thuộc tiểu
đoàn đến trại Long Khánh. và cuộc đời tù binh thực sự khởi đầu từ đó.
Quê hương ta rừng vàng biển bạc.
Đến
Long Khánh lúc chập choạng tối. Theo một vài bạn tù cho biết, đây vốn
là trại gia binh của sư đoàn 18 bộ binh lúc trước. Một ý nghĩ khôi hài
chợt hiện đến làm tôi chua xót cuời thầm. “Có ai như chúng tôi, khăn gói
tự động trình diện để được vào tù, mặc dù mình chưa hề làm nên tội lỗi
gì“.
Dù
không tin vào bản thông cáo mười ngày học tập, khi đi trình diện, tôi
vẫn ngây thơ nghĩ: mình chỉ phải xa nhà cùng lắm là khoảng một tới ba
tháng, nên đã chuẩn bị hành trang thật nhẹ nhàng. Mang theo vỏn vẹn chỉ
một bộ quần áo cùng hai bộ đồ lót để thay đổi, một ít đồ dùng lặt vặt
như bàn chải, kem đánh răng , khăn lau mặt. Tất cả để trong một túi
nylon cho nhẹ. Một buổi trưa rất nóng ở Trảng Lớn, tôi vào một lô cốt
tránh nắng đã tìm được một đôi giầy vải, một chiếc ba-lô và một xấp năm
bao cát. Tất cả đều còn mới. Ba-lô và đôi giày vải đã trở nên vật dụng
tiện lợi và cần thiết nhất cho tôi những ngày tháng sau này.
Tuần
lễ đầu chúng tôi ổn định chỗ ăn ở, thu dọn trại mà lòng lúc nào cũng
băn khoăn không biết số mạng mình rồi sẽ ra sao? Long Khánh là vùng cao
nguyên. Trời nắng hè, bụi đất đỏ luôn phủ đầy cây lá và mọi vật dụng nhà
cửa. Khi mưa xuống, đất dính bết vào giầy dép, làm cho chân người đi
càng lúc càng nặng. Ngày đầu mới đến, trời đã đổ một cơn mưa thật lớn.
đôi dép cũ không còn chịu nổi nữa, quai dép sau nhiều lần tuột lên tuột
xuống đã đứt mất. Tìm một miếng gỗ thông mỏng, tôi hì hục mãi, đẽo được
một đôi guốc gỗ. Không hiểu vì sao guốc gỗ lại ít bị dính đất, và chuyện
đi đứng đã dễ dàng hơn. Một tuần lễ sau chúng tôi được báo chuẩn bị hôm
sau lên hội trường học tập. Mọi người đều mừng rỡ, nghĩ đã đến lúc học
tập tất cũng sẽ có lúc học xong. Nghĩa là chúng tôi còn hy vọng có ngày
về.
Do
một thượng úy ủy viên chính trị từ trung đoàn xuống giảng bài đầu tiên
với tựa đề thật bóng bẩy: “Quê hương ta giàu đẹp nhân dân ta anh hùng”.
Anh cán bộ chính trị này thao thao bất tuyệt trên hội truờng:
“Quê
hương ta rừng vàng biển bạc. Cả ba miền bắc, trung, nam, đều không
thiếu gì sông biển bạc, và rừng rậm vàng tươi…. Nhân dân ta anh hùng,
lại có sự lãnh đạo tài tình trong bao nhiêu năm của bác và đảng … Đảng
là đỉnh cao trí tuệ của loài người đã lãnh đạo khéo léo đánh cho Mỹ cút
ngụy nhào … bộ đội ta có óc sáng tạo khi đánh Mỹ, chỉ với súng lục và
súng trường đã bắn rơi cả máy bay B52 của địch …”.
Tôi
nghe tới đó ngẩn người tự nghĩ: “Không lẽ anh cán bộ ủy viên chính trị
này coi chúng tôi là trẻ nhỏ thất học? Nhìn anh ta với vẻ thành khẩn
nghiêm nghị, chắc hẳn đang say xưa với việc thuyết giảng. Không hiểu anh
ta có thực sự hiểu mình đang nói gì? hay chỉ học thuộc lòng bài viết
sẵn và đọc thao thao như thế. Có một điều tôi dám quả quyết: anh ta
tuyệt đối tin tưởng những gì mình đang nói. Đến mục nêu câu hỏi, tôi đã
liều đứng lên.
- Nhờ Cán bộ nói rõ thêm chỗ nước ta rừng vàng biển bạc một chút nữa tôi không hiểu rõ lắm.
-
Thế là anh nghe giảng không được tập trung lắm rồi nhá. Trong bài tôi
đã nói rõ ràng, miền bắc nước ta sông ngòi rất nhiều ngày đêm chảy ra
biển không ngừng. Mà biển nước ta thì lạ lắm, mênh mông lúc nào cũng
lóng lánh như bạc, đẹp không thể nào tả xiết được. Rừng thì bao phủ khắp
cao nguyên bắc phần chạy dọc miền trung vào trong nam chỗ nào cũng có
rừng. Rừng nước ta rất nhiều loại gỗ quí như gõ, trắc, gụ, lim vân vân.
Các loại gỗ qúy này mầu sắc vàng tươi xuất cảng ra nước ngoài rất được
ưa chuộng.
Anh còn hỏi gì khác nữa không?
-
Máy bay B52 bay rất cao, súng lục chỉ có thể bắn được xa nhất là khoảng
năm chục thước, nếu bắn ngược lên cao, tầm bắn có thể còn ngắn hơn thế
nữa, vậy làm thế nào mà súng lục bắn rơi được máy bay?
-
Đó là tại các anh không biết đấy thôi. Các đồng chí anh hùng lái máy
bay Mig của ta đã sáng tạo ra một cách để diệt các máy bay Mỹ. Khi ra
trận họ tìm một cụm mây to rồi nấp vào trong đấy tắt máy nằm chờ, như
thế còn tiết kiệm cả xăng nữa đấy nhá. Bất thình lình khi chiếc máy bay
B52 vừa trờ đến là đồng chí ấy mở máy rồi bay ra chẹt ngay đằng đầu mà
bắn làm cho chúng nó không kịp giở tay và bị rơi rất nhiều. Về sau tụi
giặc lái Mỹ hoảng vía không dám bay cao nữa, cứ khi nào vào đến vùng thả
bom thì nó bay xà xà xuống thật thấp, và bị quân dân ta dùng súng
trường và súng lục bắn rơi. Chính tôi cũng đã dùng khẩu súng này hạ được
một chiếc hồi chiến dịch mùa hè đấy nhá. Nói đến đây anh cán bộ giảng
viên chính trị đưa tay trỏ vào khẩu K54 đang đeo bên hông với vẻ mặt đầy
kiêu hãnh.
Đánh tư sản.
Bỗng
dưng sáng nay Long Khánh trở lạnh . Những làn gió sớm cao nguyên lùa
vào trại làm mọi người đều rùng mình. Tôi lặng lẽ đi làm, đầu óc suy
nghĩ vẩn vơ. Đi chung toán với Tạo, Tạo nguyên là trung úy nhẩy dù, rất
gan dạ, khi còn trẻ thường hay ngang tàng phá phách coi trời bằng vung.
Sáng nay Tao tuy có hơi co ro nhưng vẫn tươi cười xông xáo như thường
lệ, quả không hổ danh thiên thần mũ đỏ.
Nguyên
cả A không ai là không nao núng sau buổi tối qua, chỉ có anh bạn dù này
là không tỏ vẻ gì chán nản cả. Tôi cẩn thận đảo mắt nhìn quanh, khi
chắc chắn không ai ở gần có thể nghe được đối thoại của chúng tôi mới
hỏi.
“Chắc mày biết rành khu này hả Tạo?”
Tạo cũng đảo mắt vòng quanh như tôi rồi tủm tỉm
“Vùng này, trước đây tao đã dẫm nát cả rồi“.
Tôi
và Tạo không những cùng chung A, chỗ ngủ còn ở ngay bên cạnh nhau nữa,
vì vậy tuy mới hơn ba tháng mà tình bạn đã thân thiết lắm.
Đưa
tay rờ gấu áo, thấy chiếc nhẫn cưới vẫn nằm ẩn an toàn trong đó, lòng
cảm thấy ấm lại đôi chút. Chiếc nhẫn cưới này tôi quyết không nộp ra.
Hôm
qua chúng tôi được lệnh phải nộp tất cả tài sản cá nhân cho tiểu đoàn
cất giữ. Bao gồm mọi thứ như đồng hồ đeo tay, nhẫn cưới, dây chuyền,
tiền mặt v . . v . . . Chỉ trừ quần áo và đồ ăn. Tôi nghĩ: tù nhân, mạng
còn chưa biết sống nay chết mai ra sao, lo gì đến những vật ngoại thân
đó, tuy vậy nhưng lòng lại ấm ức. Nộp tiền có thể cho là đúng đi, vì
trong trai tù kín mít cũng không thể mua bán gì được, nhưng đồng hồ hay
nhẫn cưới cũng phải nộp thì vô lý qúa. Thủ tục gom đồ nộp cũng không
minh bạch, không có danh sách liệt kê các món đồ và tên người nộp. Nếu
sau này học tập xong được cho về, liệu cán bộ có chịu lục tìm trong đống
đồ lung tung như thế không? và nếu chịu tìm, làm sao có thể tìm ra được
món đồ không có ghi tên đây? biết bao nhiêu cái đồng hồ giống hệt như
nhau? Nhẫn cưới hoặc dây chuyền lại càng khó phân biệt hơn? Nếu tìm
không ra rồi mới tính sao? Thêm nữa, các món này có bảo đảm còn nguyên
vẹn cho đến lúc chúng tôi về hay không? Hoặc mấy ngày nữa chúng tôi lại
chuyển trại thì sao đây? Cuối cùng tôi đã quyết định dấu chiếc nhẫn cưới
vào gấu áo, dấu đồng hồ vào quai ba-lô và may lại như cũ.
Buổi
chiều nộp đồ xong cũng đã gần tối. Đêm đó khoảng hai giờ rưỡi sáng bỗng
có lệnh di chuyển. Chúng tôi được lệnh ra sân tập họp với tất cả hành
trang trong vòng mười lăm phút để lên xe. Cũng may tôi không có nhiều
thứ lỉnh kỉnh. Một tấm chăn tự làm bằng vải bao cát mà tôi đã nhặt được
từ Trảng Lớn, một chiếu nylon nhỏ mang theo từ ngày đầu trình diện, một
lon sữa Guigo dùng để nấu nước uống. Tôi nhét tất cả vào ba-lô, ra sân
nhìn quanh mới có hai ba người. Lạ thật, mới vừa ổn định trại và dù đã
bắt đầu học tập chính trị, nhưng mới có một bài sao đã di chuyển? và
chuyển trại sao không thấy xe cộ gì cả? mấy nghi vấn này của tôi không
bao lâu đã được giải đáp ngay.
Các anh mỗi người đứng cách xa nhau một khoảng nhỏ và bày hết đồ của mình ra trước mặt. Mọi thứ đều phải mở ra sẵn sàng.
Khi
mọi người đã đủ, cuộc khám xét bắt đầu. Đại đội của tôi do một thiếu úy
cán bộ Việt cộng làm đại đội trưởng. Anh cán bộ này bắt chúng tôi phải
lộn trái hết các túi áo túi quần để xét. Một số anh em hồi chiều còn dấu
tiền và dây chuyền không chịu nộp, giờ không những bị lấy hết mà hôm
sau còn bị họp kiểm thảo: Nặng tư tưởng tư bản, không tin tưởng vào cách
mạng. Ba-lô của tôi cũng bị lộn trái ra lục kỹ lưỡng. Té ra chúng tôi
chẳng có di chuyển đi đâu cả. Đây chỉ là cách để chúng tôi phải lộ hết
những đồ còn dấu chưa chịu nộp hồi sáng cho họ lột sạch, vì họ không tin
chúng tôi chịu dễ dàng nộp hết mọi thứ.
Tối đó mọi người phải lên hội trường họp. Cả tiểu đoàn nghe chửi về tội không thật lòng tin tưởng vào đảng và nhà nước.
“Các
anh đã dấu diếm không chịu nộp hết những đồ tiểu đoàn ra lệnh nộp. Đây
là vì các anh đã không tin tưởng cán bộ, không tin tưởng đảng và chính
sách của nhà nước. Như vậy làm sao các anh học tập mau tốt được? Hơn thế
nữa, những của cải của các anh đang có cũng do bóc lột nhân dân mà ra,
nay còn luyến tiếc, chưa dứt được đầu óc tư bản. Các anh phải kiểm điểm
lại. Tối nay về họp A thảo luận cho kỹ càng. Có từ bỏ được những tư
tưởng tư sản thì các anh mới học tập tiến bộ được”.
Sau
này, tôi không hề nghe có người tù cải tạo nào ra về được trả lại những
gì đã nộp. Qủa thật là một lối ăn cướp thật tinh vi. vừa ăn cướp vừa la
làng, kết quả tội vẫn đổ lên đầu chúng tôi.
Học tập.
Thời
gian ở Long Khánh, chúng tôi không đi lao động xa trại quá một cây số.
Làm những việc lặt vặt trong phạm vi doanh trại, như cuốc đất làm vườn,
trồng trọt, hoặc làm cỏ khai hoang. Có lẽ vì còn đang ở giai đoạn đầu.
Các sư đoàn bộ đội sau cuộc chiến chiếm miền nam chưa hoàn toàn ổn định.
Việc tổ chức quản trị các trại cải tạo chưa được sắp xếp hoàn tất.
Học
tập cải tạo chính trị chỉ là một cách nói bóng bẩy của đảng Cộng Sản
Việt Nam để trấn an người dân Sàigòn nói riêng, và dân miền nam nói
chung. Thật sự chúng tôi không có bài học nào nói về thể chế chính trị,
về nền hành pháp, hoặc tư pháp của chính quyền đương thời. Cũng không hề
nói gì về sự thành lập của đảng cộng sản và nhà nước Việt cộng. Không
nói về hiến pháp cũng như quyền lợi và trách nhiệm của người dân, không
hề nói về chủ thuyết cộng sản. Tất cả đều tập trung vào ba mục đích
chính.
1-
Bắt chúng tôi phải công nhận đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ chí Minh sáng
lập, là đỉnh cao trí tuệ loài người, đã đánh đuổi Mỹ ngụy, lo cho dân
tộc ấm no hạnh phúc. Chúng tôi phải tuyệt đối tin tưởng vào đường lối
đảng đề ra không thắc mắc, lại càng không được chỉ trích, vì chỉ trích
là phản động gây rối.
2-
Phải tự nhận, là những người đã làm tay sai cho Đế Quốc Mỹ, giết hại
đồng bào. Nay được cách mạng khoan hồng cho đi học tập cải tạo.
3- Phải tích cực lao động đóng góp cho xã hội chủ nghĩa. Và phải tuyệt đối an tâm học tập.
Thấm
thoát đã hơn năm tháng qua. Không hiểu các bạn khác ra sao? Riêng tôi
những ngày tháng này thật buồn thảm. Nhớ nhà, thương cha mẹ và đàn em
nhỏ, không rõ cuộc sống dưới chế độ mới cơ cực như thế nào? Và nhất là
thương nhớ người vợ mới cưới. Ngày cũng như đêm, khi làm việc cũng như
lúc ngồi nghỉ. Lúc nào đầu óc cũng có bóng dáng người vợ mà tôi hết lòng
yêu thương. Không hiểu bây giờ nàng đang làm gì ? Ở đâu ? Có được bình
an? hay đang phải vất vả vật lộn với cuộc sống kìm kẹp khó khăn mà Đảng
Cộng Sản Việt Nam áp đặt lên đầu người dân miền nam? Nàng có nhớ đến tôi
như tôi hiện đang nhớ nàng quay quắt.
Mỗi
ngày lao động một gắt gao, nặng nhọc thêm. Lao động khiến chúng tôi
không còn thì giờ rảnh rang suy nghĩ. Thời gian dường như muốn dừng hẳn
lại. Phần ăn mỗi ngày một ít đi, ăn uống thiếu thốn khiến mọi người
không còn sức phản kháng, dù chỉ là phản kháng bằng lời nói. Ba tháng
đầu chúng tôi còn được phát gạo. Không hiểu gạo đã chôn ở đâu? từ bao
lâu? hạt gạo vừa vàng vừa xốp. Khi vo gạo nấu cơm nếu chà mạnh tay một
chút, hạt gạo lập tức vỡ tan ra thật dễ dàng. Những anh em phụ trách nấu
ăn trong ngày thường đổ đầy nước vào chảo gạo thật lớn, quấy sơ sơ mấy
vòng cho gạo lắng xuống rồi gạn nước. Một số những con sâu gạo mập mạp
ngộp nước nổi lên được gạn đi. Gạn như thế khoảng hai ba lần, chảo gạo
có thể nấu, vì nếu làm nhiều lần gạo sẽ hết cám. Có một số anh em nay đã
bị phù thủng rất cần vitamin C trong cám. Ban đầu, ban nấu ăn còn ngồi
nhặt sâu. Những con sâu không biết sống trong các bao gạo này từ bao giờ
đã to gấp bốn năm lần hạt gạo, chúng nhả tơ làm tổ dính quyện những hạt
gạo vào thành một cục to bằng đầu ngón tay cái.
Sau
vì nhặt sâu vừa mất qúa nhiều thời gian, lại tốn mất nhiều gạo, vì số
lượng sâu nhiều vô kể, nên anh em đã đồng ý không nhặt sâu nữa. Sau vài
lần gạn nước cho bớt sâu, còn lại cứ để nguyên thế mà nấu. dù sao thì
cũng là sâu gạo! lúc đầu ăn còn thấy sợ, sau đói qúa cũng phải nuốt
tuốt. Ăn riết rồi cũng quen. Ngày hai buổi sau khi lãnh cơm, chia mỗi
người được hơn một chén nhỏ. Nếu để cả sâu hy vọng chén cơm có thể đầy
thêm một chút. Buổi sáng được phát nửa chén cháo toàn nước, đi làm đến
giữa trưa. Thức ăn mỗi tháng một lon muối hột đen ngòm những đất, muốn
dùng được phải hòa tan ra nước, lọc sạch rồi đem đun sôi. Hai tháng một
lần mỗi A được phát một bó rau muống. Bắt đầu khoảng hai tháng nay,
chúng tôi không còn được phát rau nữa. Gạo cũng đã hết, và thay bằng
Bo-Bo. Lúc đầu ăn Bo-Bo không quen nên chúng tôi càng đói thêm. Tuy
không quen nhưng nhờ bo-bo còn mới nên những anh em bị phù cũng dần dần
được lành lại.
Hy
vọng ba tháng học tập của tôi đã thực sự trở thành hão huyền. Vả lại
lao động và họp kiểm thảo càng ngày càng gắt gao. Một chút rảnh rỗi nhớ
về gia đình và người vợ mới cưới cũng không đủ, còn thời gian đâu để
nghĩ về chuyện khác.
Liên
tục một tuần nay, theo lệnh cán bộ. Tối nào tôi cũng bị đưa ra A để anh
em phê bình kiểm thảo về tội dám chất vấn cán bộ chính trị về thời gian
học tập, làm lung lạc tinh thần của anh em cải tạo. Nguyên sau buổi học
tập về đề tài “Tất cả những ai trong quân đội VNCH đều là tay sai đế
quốc Mỹ và đều có tội với nhân dân“. Tôi đã nêu lên câu hỏi:
-
Thưa anh, khi nhà nước ra thông cáo cho toàn thể chúng tôi đem theo
lương thực đủ ăn muời ngày, đi học tập trở thành công dân tốt của xã hội
mới. Học tập tốt, sẽ được thả về đoàn tụ với gia đình. Chúng tôi đã thi
hành triệt để, trình diện đúng ngày. Nhưng nay đã hơn sáu tháng, vẫn
chưa nghe nói gì cả. Vậy học tập thế nào là tốt? Và bao giờ chúng tôi
mới được thả? Hay nhà nước đã quên thông cáo lúc trước?
-
Anh xuyên tạc thông cáo của nhà có ý định tuyên truyền để làm xao động
lòng anh em phải không nào? Nhà nước nói đem theo lương thực đủ ăn mười
ngày, đâu có nói các anh sẽ đi học tập mười ngày. Anh rõ ràng là ngoan
cố không chịu an tâm học tập chỉ mong ngóng ngày về. Tối nay về họp A,
anh phải kiểm thảo lại lỗi lầm của mình cho thông suốt“.
Tôi
nghĩ thầm, tên cán bộ này đã nói hắn có thể dùng súng K54 để hạ được
máy bay B52, làm sao mình có thể lý luận lại với hắn. Hơn nữa vậy cũng
coi như câu hỏi đã được trả lời, tôi đành ngồi xuống. Cũng chỉ vì câu
hỏi đó tôi đã bị chú ý, và sau này bị hành hạ khổ sở.
Ngụy phá hoại làm nổ kho đạn.
Cả
tuần nay trời nắng gắt, cỏ xung quanh trại vàng khô, nhất là phía bên
kia hàng rào, chỗ dẫy Barrack luôn luôn đóng kín cửa, sau này tôi mới
biết đó là kho đạn, cỏ khô dầy, cao ngang đầu gối. Sát vòng rào kẽm gai,
tháng trước chúng tôi đã đào một giao thông hào khá rộng, lấy đất gánh
về giữa trại vun luống trồng khoai lang và khoai mì. Đào giao thông hào
cạnh vòng rào trại không phải chỉ để lấy đất, bởi chúng tôi có thể cuốc
đất vun thành luống ngay tại chỗ, mục đích có lẽ nhằm làm nản chí những
ai trong chúng tôi mang ý định vượt trại, vì sẽ phải vượt thêm một
chướng ngại vật nữa, Và cũng có lẽ nhằm làm cho chúng tôi thêm mỏi mệt,
không còn nghĩ đến việc chống đối, hay bạo động. Vừa phải làm việc nặng
quần quật cả ngày lại thêm ăn uống thiếu thốn, dù ai to lớn khoẻ mạnh
cách mấy, tất cũng phải mềm nhũn thôi.
Hôm
nay tôi lãnh công tưới rau cho B. Ra phía sau trại lấy thùng và đòn
gánh, thoáng thấy một bộ đội đang châm lửa đốt cỏ khô phía ngoài hàng
rào. Nắng gắt mấy ngày liền, cỏ cháy rất mau. Khi tôi tưới được gần hai
luống rau, bãi cỏ bên hông barrack cháy đã gần phân nửa, trong đám cháy
thỉnh thoảng có tiếng đạn nổ. Lẫn trong cỏ có những viên đạn, có khi
nguyên cả dây dạn đã rớt từ hôm ba mươi tháng tư trong lúc hỗn loạn, lâu
lâu chúng tôi vẫn thường thấy khi làm cỏ. Do đó lửa cháy, đạn phát nổ
không làm chúng tôi mấy ngạc nhiên. Chợt có tiếng nổ làm mọi người đều
giật mình, vì tiếng nổ khá lớn, và chỉ vài giây sau lại có thêm những
tràng nổ tiếp tục dòn dã, khiến mọi nguời đều dừng tay ngẩng nhìn. Chỗ
đang cháy nguyên dây đạn đại liên phòng không 50 ly đang nổ, đầu đạn bay
tứ tung. Một viên bay xẹt ngang đầu làm tôi theo phản xạ tự nhiên vội
cúi rạp xuống. Có mấy viên khác bay thẳng vào dẫy Barrack, và sau đó, cả
dẫy Barrack cũng bắt đầu phát nổ. Tôi quăng thùng nước tại chỗ, ngồi
sụp xuống giữa hai luống rau. Kho đạn chính thức bắt đầu nổ khoảng mười
giờ trưa. Anh em tù ai cũng bỏ dụng cụ làm việc chạy tìm chỗ núp.
Đủ
mọi loại đạn lớn nhỏ, đạn đại liên phòng không, đạn súng cối 60 và 81
ly, đạn đại pháo 105, 155 ly của Việt Nam Cộng Hòa, đạn súng cối 61 và
82 ly, đạn hỏa tiễn chống chiến xa B40, B41, hỏa tiễn 122 ly của Việt
Cộng. Đạn bay tứ tung. “Phịch”, tôi đang nằm giữa hai vồng lang chợt
nghe tiếng trái đạn rớt rất gần, vội ngẩng nhìn. Một viên đạn cối 81 ly
rớt ngay trước mặt, chỉ cách khoảng hai thước. Lăn vội qua vồng lang bên
cạnh, hai tay ôm kín đầu, chờ một phút sau viên đạn vẫn chưa nổ. Chắc
số tôi chưa đến lúc chết, trái đạn không nổ. Tôi liền chồm dậy cắm đầu
chạy ra phía giao thông hào. Nhẩy xuống đó thấy có sẵn một số anh em
khác nhanh chân tới trước. Đạn nổ suốt ngày, mãi đến gần nửa đêm mới
hết. Không hiểu đây là kho đạn cũ của Việt Nam Cộng Hòa để lại hay kho
đạn mới do Việt Cộng vừa gom vào? mà đạn có đủ mọi loại của cả đôi bên.
Trong
vụ nổ kho đạn, tiểu đoàn tôi có anh bạn đại úy bắc sĩ quân y chết. Trái
lựu đạn rớt trúng ngay chỗ núp, nổ liền khiến anh không kịp tránh,
miểng lựu đạn xuyên giữa ngực, anh đã chết liền tại chỗ. Hai tiểu đoàn
bên cũng có mỗi tiểu đoàn hai người chết. Người cán bộ đốt cỏ, chết vì
trúng đạn đại liên 50 ly ngay từ phút đầu. Anh em chúng tôi bị thương
nặng nhẹ rất nhiều. Mấy ngày sau lên tiểu đoàn khai bệnh xin thuốc trị
thương được phát mỗi người một gói muối hột. Vẫn biết, dù khai bất cứ bị
bệnh gì cũng thế, từ sốt rét ngã nước, cảm cúm, tiêu chảy, đến trật gân
gẫy xương, hay ói mửa trúng độc, đều chỉ được phát duy nhất một thứ
thuốc đó là muối hột. Nhưng trong tù không có thuốc sát trùng, chúng tôi
đành khai bệnh lấy muối pha nước rửa vết thương.
Ba
ngày sau, Cán bộ tiểu đoàn tập họp chúng tôi lên hội trường để giải
thích về vụ nổ như sau: Các anh đã chính mắt thấy rõ ràng đấy nhá, bọn
Mỹ Ngụy thật là độc ác, đã bị đập tan từ lâu mà vẫn còn tìm đủ mọi cách
để phá hoại. Chúng đã cho đặc công lén lút làm nổ kho đạn. Tuy tiểu đoàn
đã bắt được hai tên phá hoại, nhưng kết quả một cán bộ đảng viên cũng
đã chết. Và trong các anh cũng có mấy người chết vì vụ nổ này.
Cả
tháng sau đó, chúng tôi họp A vẫn phải học tập về tội ác Mỹ Ngụy đã làm
nổ kho đạn. Sau này trong một dịp thăm nuôi, vợ tôi cho biết vụ nổ đã
làm xao động dân chúng ngoài trại. Nhà nước Việt Cộng loan báo cùng dân
chúng Sài Gòn: có một bọn ngụy quân phá hoại làm nổ kho đạn trong trại
tù, nhưng cán bộ quản trại đã bắt được bọn phá hoại và bảo vệ an toàn
cho cải tạo.
Cây Cà Chớn.
Những
ngày cuối năm 1975, với tôi, là những ngày lê thê nhất trong đời. Tết
Mậu Thân khi Việt Cộng tràn vào Sàigòn, cướp đi mùa xuân an lành, vui
tươi của người dân miền nam. Đường phố tấp nập, dập dìu muôn mầu áo bay
lượn của các cô gái, chen lẫn mầu sắc của hàng ngàn đóa hoa trong chợ
hoa dọc đường Nguyễn Huệ, hòa với những cánh bướm chập chờn trong nắng,
như muốn đua sắc cùng những bông hoa biết nói, gợi lên nỗi rộn rã tưng
bừng đầy êm ấm vào lòng người, đã thay bằng im lặng, vắng vẻ, đầy lo âu.
Thỉnh thoảng một vài người vội vã trên đường về, khuôn mặt vừa lo âu
vừa hốt hoảng. Những tiếng pháo nổ vang thay bằng tiếng súng AK47 và hỏa
tiễn pháo kích. Cái tết máu lửa đó vĩnh viễn nằm trong tiềm thức tôi.
Nhưng những ngày đó vẫn không dài lê thê ảm đạm như những ngày tết trong
tù cải tạo.
Chúng
tôi đều là những người đã dày dạn khói lửa. Có người từng trải qua
những giây phút thập tử nhất sinh xác chết cận kề, vẫn không hề nháy mắt
cau mày. Có người trọn đêm dài chong mắt trên biển vắng hải hành, đưa
chiến hạm tuần tiễu bảo vệ vùng biển quê hương, và đôi mắt vẫn đầy tinh
anh. Nay trong vòng rào trại tù, hình như mắt anh em ai cũng rưng rưng
uất nghẹn. Anh Lạc, người lớn tuổi nhất trong tiểu đội được cử làm anh
nuôi, phát cho mỗi chúng tôi một vắt cơm nếp anh đã nấu từ tờ mờ sáng.
Hôm qua mỗi tiểu đội được lãnh một lít nếp, cán bộ nói đó là nhờ lòng ưu
ái của đảng và nhà nước.
Tết
năm trước, tuy chiến tranh đang đè nặng trên toàn quốc, SàiGòn vẫn tưng
bừng đón xuân. Tôi đã chở vợ, lúc đó còn là người yêu chưa cưới, đi
Lăng Ông xin xâm. Nhìn nàng tha thướt trong tà áo lụa vàng, thật vui
tươi, thật hồn nhiên mà lòng tôi cũng nao nức rộn rã. Giờ đây xa nhau
tôi mới nhận thức được, nàng chính là nguồn sống của đời mình. Nhớ đến
nàng, miếng cơm tôi vừa bỏ vào miệng bỗng như nghẹn ở cổ, mắt tôi mờ hẳn
đi. không muốn các bạn thấy mình bật khóc, và nhìn quanh ai cũng rưng
rưng. Tôi bỏ nắm cơm xuống chỗ đầu nằm, chạy vội ra ngoài rủ Tạo đi coi
đấu cờ tướng cho khuây khỏa. Trại được nghỉ lao động ba ngày tết, đã tổ
chức các trận đấu bóng chuyền, túc cầu, cờ tướng, giữa các B với nhau
cho anh em vui tết. Tôi vẫn thấy những ngày tết này thê lương và dài
dằng dặc, vui sao được mà vui! Tết này gia đình tôi ngoài đó có vui vẻ
như xưa? Vợ tôi đang ở đâu? Nàng có vui vẻ hồn nhiên như ngày chúng tôi
còn bên nhau? Khi tôi đi nàng vừa có mang, nay đã sanh chưa? Nếu đã
sanh, sức khỏe mẹ con nàng ra sao? Đứa con đầu lòng của chúng tôi là
trai hay gái? Chắc dễ thương lắm? Những câu hỏi này cứ quẩn quanh trong
đầu ngày đêm không thể giải đáp. Lòng nhớ nhung người vợ trẻ làm tôi cứ
thẫn thờ, và tết đã trở nên vô nghĩa.
Cái
tết buồn thảm ấy rồi cũng qua đi. Chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc sống nhục
nhằn. Ngày ngày làm việc nặng nhọc quần quật từ sáng tới tối, còn phải
nghe những lời trái tai vô lý của những người cai tù thâm hiểm, phải làm
vẻ ngu khờ gật đầu đồng ý để sống cho qua kiếp tù đày. Sống với niềm hy
vọng mong manh, một ngày nào đó sẽ được thoát về. Nhiều lúc tôi có cảm
tưởng như mình đang bị bao vây giữa một đám người tiền sử ngô nghê,
không văn hóa. Với vũ khí trong tay họ cưỡng ép chúng tôi phải tin chung
niềm tin với họ.
Nhưng
chính họ cũng không hiểu rằng họ đã bị giới lãnh đạo đầu độc lâu ngày,
nhồi vào đầu họ những hiểu biết nông cạn vô lý, hoặc có khi còn đi ngược
hẳn với lý lẽ thông thường. Cán bộ chuyền radio vào loa trên cột cao
hai góc trại, suốt ngày đi làm mệt mỏi, tối về phải nghe những lời dối
trá bịp bợm của bọn cầm quyền Việt Cộng trên đài phát thanh tới nửa
khuya, thiệt là dở khóc dở cười. Một phút trước đài loan tin: năm nay
dân ta chịu nhiều thiên tai, ba tháng trước miền Trung có bão lớn dọc từ
Thanh Hoá xuống Thừa Thiên. Tháng trước bão lại thổi qua miền Thanh Hóa
Nghệ Tĩnh, và tuần này khắp đồng bằng miền nam đang bị lụt lớn. Một
phút sau đài đã trắng trợn tuyên bố: kết quả vụ thu hoạch lúa mùa năm
nay so với năm ngoái, miền bắc tăng gấp ba, miền nam tăng gấp đôi.
Một
buổi chiều , tôi và Tạo vừa tưới xong mấy cây cà chua, đang định cùng
nhau ra giếng lấy thêm nước. Một cán bộ đi ngang qua lên tiếng khen
thưởng:
- Hai anh này giồng được mấy cây cà chua chất lượng đấy nhỉ. Các anh có bón phân nhiều không mà cây lắm quả thế?
Tôi đảo mắt nhìn quanh trước khi trả lời
- Chào cán bộ. Tôi chẳng phải tưới phân gì cả đâu, chi tưới độc có nuớc đái thôi đấy!
-
Ờ, thế thì phải rồi! Trách gì cà anh cấy sai quả, nhưng quả lại không
được to. Các anh phải tưới phân thì quả mới to được. Ở ngoài Bắc có
nhiều người giồng cà chua, tưới phân đúng cách quả ra to gần bằng quả
bóng đá vậy đấy.
Tạo nhìn tôi, nháy mắt và nói:
-
Ô! Tôi biết loại cà mà cán bộ nói rồi! Nhưng loại cà này khó trồng lắm!
Ở miền Nam hình như đã bị mất giống rồi. Nghe bà nội tôi nói loại cà đó
tên là “cà chớn”.
Nghe
Tạo nói, tôi giật mình đảo mắt nhìn quanh nghĩ bụng “cái anh chàng Nhẩy
Dù này quả nhiên rất gan lì”. May mắn, vẫn chỉ có hai chúng tôi cùng
anh cán bộ đang mỉm cuời khoái chí kia, nếu không, “Ang-ten“ nghe được,
chắc chắn hai đứa tôi sẽ phải ốm đòn.
- Anh này nói đúng rồi đấy, đúng là cà chớn đấy.
Hú vía!!! mọi người ai nấy đều bận với công việc đang làm, không chú ý đến cuộc nói chuyện của chúng tôi.
Lon Guigo đựng cơm.
Tôi
thuộc đại đội một, Hạ ở đại đội ba. Tuy là bạn cùng khóa Hải Quân nhưng
chúng tôi không mấy thân, nay dù ở cùng trại tù, gặp nhau cũng chỉ chào
hỏi sơ sài. Vả lại từ chỗ tôi qua chỗ Hạ, phải đi ngang trạm gác và bộ
chỉ huy cán bộ coi tù, nếu không vì đi công tác lao động, hay vì chuyện
cần thiết, thường ai cũng ngại đi ngang đó.
Lúc
còn ở quân trường , Hạ thường trầm lặng ít nói, không phá phách đùa
giỡn. Đôi khi bị các bạn chọc phá, Hạ chỉ cười bẽn lẽn. Khi ra trường,
Hạ nhận đơn vị đầu tiên là giang đoàn 70, thuộc Hải Đội 5 Lực Lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân. Năm 1973, trong một dịp đơn vị tôi hộ tống tàu
dầu vào tiếp tế cho căn cứ Nam Căn. Gặp Hạ lúc đó thấy anh đã thay đổi
nhiều. Tuy vẫn dáng gầy gầy nhưng nước da đã sam đen, trông khoẻ mạnh
hẳn ra. Anh đã hoàn toàn mất hẳn cái dáng công tử yếu đuối của ngày mới
nhập ngũ ở trại tạm trú Bạch Đằng Hai. Có lẽ những tháng năm lăn lóc dày
dạn chiến trường, với những trận chạm trán sống chết cùng Việt Cộng ở
vùng đầm lầy nước mặn đã nung đúc anh trở nên rắn rỏi với đầy nét cương
nghị.
Chiều
nay đột nhiên Hạ đến thăm và ngỏ ý muốn đổi tấm chăn của anh cùng nải
chuối chín lấy chiếc áo mưa. Anh nói vì không có áo mưa, mùa hè Long
Khánh lại hay mưa tầm tã suốt ngày, khi đi lao động thường bị ướt. Tôi
đưa tặng Hạ tấm poncho mới đã nhặt được khi còn ở trại Trảng Lớn. Hạ
không chịu lấy không, nhất định ép tôi phải nhận vật trao đổi. Kết quả
tôi đành nhận tấm chăn, dù sao tôi cũng đang cần chăn, và bẻ mấy quả
chuối cùng ăn với Hạ cho anh ta vui. Nhìn thấy mắt Hạ sáng hẳn lên khi
cầm chiếc poncho trong tay tôi cũng cảm thấy an ủi.
Ba
giờ rưỡi sáng đêm đó, toàn trại bỗng có lệnh điểm danh bất thuờng. Khi
các đại đội đã tập họp đầy đủ ngoài sân, cán bộ vào lục lọi trong trại
rất kỹ luỡng, tuy không rõ vì sao, nhưng chúng tôi cũng đoán được đã có
chuyện bất thường xẩy ra trong đêm. Sáng sớm khi chuẩn bị đi lao dộng,
nghe anh bạn B trưởng nói tôi mới biết đêm trước đã có năm người trốn
trại, trong số đó có Hạ. Thì ra Hạ cần áo mưa và ép tôi nhận tấm chăn là
vì thế. Tôi thầm mong cho anh trốn thoát, đừng gặp trở ngại. Một tuần
sau, trong số người trốn trại có ba người bị bắt lại cùng với Hạ.
Hạ
bị bắt lại hai ngày sau thì tôi bị gọi lên tiểu đoàn. Trong lòng hồi
hộp không biết vì chuyện gì, khi bị dẫn vào phòng kín có bốn tên bộ đội
đeo AK đứng canh bốn góc, tôi biết lần này thiệt dữ nhiều lành ít.
- Cách mạng khoan hồng cho anh học tập cải tạo sao không biết hối cải còn định trốn?
- Tôi còn đang đứng đây mà, đâu có trốn trại đâu?
- Chúng tôi biết rõ anh móc nối, trốn trại mà vẫn còn chối hả. Anh phải nên khai cho rõ ràng đi, đã móc nối được những ai nào ?
Nếu chúng biết rõ ràng sao còn phải tra hỏi mình làm gì? chứng tỏ chúng chỉ nghi ngờ và muốn tìm cách chặn đầu mình thôi.
Tôi không hề có ý trốn trại, cũng chẳng có móc nối hay tổ chức gì cả.
Chưa
dứt lời bỗng như có ai đập mạnh vào lưng làm mắt tôi hoa lên. Chắc hẳn
tôi đã bị tên đứng phía sau dộng một báng AK ngay lưng trong lúc đang
nói. Tôi không còn nhìn rõ tên bộ đội trước mặt, mắt tôi đã mờ hẳn đi,
và đầu óc choáng váng, ngã chúi về truớc. Tuy thế tôi vẫn thoáng thấy
tên đứng phía trước đưa chân đá cho tôi bật ngược dậy. Theo phản ứng tự
nhiên tôi vòng tay ôm ngực và co người lại bảo vệ chỗ nhược. Bị cú đá đó
bật nghiêng người qua phải, tôi chưa kịp gượng lại đã bị tên bên phải
đạp bồi một đạp vào vai, tôi té qụy xuống.
- Mày vẫn còn ngoan cố à? thế ai đã tiếp tế áo mưa cho thằng Hạ trốn trại nào?
Thấy
tên cán bộ đã đổi giọng lỗ mãng mày tao, không biết hắn vì tức giận đã
không làm được cho tôi khai theo ý muốn, hay vì muốn tỏ sự hung hãn để
tôi sợ mà khai. Tôi chờ một chút, để trấn tỉnh rồi mới trả lời:
-
Tại tôi có dư một cái áo mưa, anh Hạ dùng chuối để đổi, tôi thích chuối
mới chịu đổi thôi, chứ đâu có biết anh ta chuẩn bị đồ dùng vượt trại
đâu.
Đúng đã có “angten” mách lẻo nên tụi nó mới biết chuyện tôi đưa áo mưa cho Hạ.
Trong
lúc bị đánh, tôi được biết, họ liệt tôi vào thành phần ngoan cố không
chịu hối cải học tập, còn có ý nêu những câu hỏi bóp méo chính sách cải
tạo của cách mạng, cố tình sách động, gây hoang mang cho anh em. Bằng
chứng là trong buổi học tập chính trị đầu tiên, tôi đã chất vấn cán bộ
về lệnh học tập muời ngày. Giờ đây còn thêm tội tổ chức tiếp tế cho
người trốn trại.
Tôi
trước sau chỉ nói: Vì mình không hiểu rõ nên mới hỏi như thế, không
phải cố ý bóp méo hay sách động chi cả, và cũng không hề giúp ai vượt
trại hết. Có lẽ họ chỉ nghe “angten” báo cáo thấy tôi đưa poncho cho Hạ,
nên tra hỏi xem tôi có là đồng lõa muốn trốn trại với Hạ không, và cũng
nhân dịp này moi luôn việc tôi đã hỏi khó tên cán bộ chính ủy Trung
đoàn, để có thêm cớ đập tôi một trận nhừ tử. Sau ba ngày liên tục tra
hỏi đánh đập, cuối cùng đánh chán cũng không hỏi được gì hơn, đành thả
tôi về trại.
Hạ
bị nhốt trong một “connect” ngoài bãi đất trống sau trại. Giờ trưa ở
vùng cao nguyên nắng lửa mưa dầu này, trời nóng như nung. Connect bằng
sắt vuông vức mỗi bề khoảng hai thước, dù có một anh em nào đó lén chặt
đâu được hai tàu lá dừa úp lên trên nóc, tôi nghĩ nhiệt độ bên trong
chắc vẫn nóng khủng khiếp lắm, rất có thể làm người bị nhốt điên lên
được.
Mỗi
ngày hai lần, một anh em cải tạo do bộ đội có súng hộ tống đưa cơm cho
Hạ và cũng chính với lon Guigo đựng cơm này, Hạ phải dùng để đi đại tiện
khi cần. Hai tháng sau, Hạ bị chuyển đi đâu không rõ, nhưng cho đến nay
tôi không còn được tin gì của anh nữa.
Kàtum hết về.
Cuối
năm đó tôi chuyển đi Katum. Đây là một trong những trại lao động khủng
khiếp hàng đầu của tù cải tạo trong miền nam Việt Nam lúc đó. Kàtum
thuộc Quận Bổ Túc tỉnh Tây Ninh, Trại nằm sâu trong khu rừng gìa, gần
biên giới Việt Miên.
Đoàn
xe chở chúng tôi mỗi lúc một sâu vào rừng. Khi xe ngừng, trời đã xế
trưa. Có lẽ đây là một khu xóm cũ của người Thượng đã bỏ hoang vì chiến
tranh. Nhìn quanh, tôi còn thấy dấu vết của mấy chòi tranh sót lại đã
rách bươm.
Tuy
sinh ra ở ngoại ô Hà Nội, nhưng khi mới lên năm đã theo gia đình chạy
trốn Cộng Sản, di cư vào Nam năm 1954, vì thế có thể nói là tôi sinh
trưởng tại SàiGòn. Cuối năm thứ nhất Luật Khoa, thi rớt phải nhập ngũ.
Tôi đã tình nguyện vào Hải Quân. Đời lính toàn lênh đênh trên biển cả,
nếu có thấy rừng chỉ là nhìn từ xa chứ đâu bao giờ biết đến rừng rú như
thế này. Xuống Molotova, xung quanh rừng dầy bạt ngàn. Chỗ chúng tôi
đứng là một khoảng trống nhỏ, có hai chòi tranh đã rách nát lâu đời. Bên
phải là một trảng trống lớn, cỏ tranh cao ngang thắt lưng. Bên trái là
khu rừng chồi thưa, lỗ chỗ mấy hố bom B52 từ bao giờ nay đã đầy nước.
Tôi có cảm tuởng như mình đang bị đi đày với án khổ sai biệt xứ. Chúng
tôi căng bạt dưới gốc cây ở tạm tuần lễ đầu, sau đó mới đốn cây, đào gốc
dọn chỗ đắp nền nhà, chia nhau vào rừng chọn cây đốn làm cột, kèo, chặt
le làm rui mè, cắt tranh đánh tấm lợp mái, dựng nhà.
Dụng
cụ dùng trong tiểu đoàn toàn bộ chỉ có 5 con dao, 3 cuốc, và 3 xẻng.
Chúng tôi tìm được ngoài bìa rừng một ít cọc sắt hàng rào kẽm gai, đập
dẹp biến chế thêm dao, xẻng, cuốc. Những cây to một hai người ôm, chúng
tôi đốn xuống, đào gốc, và dọn chỗ làm nền nhà, đều dùng các dụng cụ
này.
Ba
tháng tới trạI, tôi có cảm tuởng đã như ba năm. Ban đêm dù mệt nhoài vì
phải làm việc quần quật suốt ngày, tôi vẫn thao thức khó ngủ. Tối nào
cũng nằm trằn trọc nhớ mãi người vợ nhỏ yêu thương đang vất vả cô đơn,
và nghe tiếng tắc kè trong bọng cây kêu từng hồi như tiếng thở dài não
nề: “TTTTắắc… kèè… TTTắc...kkèè... Tắắc...kkèèèèèèè...“ Có vài bạn nói:
Nghe càng lâu càng giống như “hhhhhếết… vvềề…. Hhhếết…vvềề….
Hết…vvềềềềềềềềề..“ Tít ngoài xa, vẳng tiếng vượn hú lanh lảnh, càng làm
tăng cái cảm giác cô quạnh cho phận tù nhân hơn nữa. Mãi đến thật khuya
tôi mới có thể thiếp đi trong mệt nhọc.
Đồng hồ không người lái.
Tôi
lãnh nhiệm vụ đi cắt tranh sáng nay. Chỉ tiêu đủ mười lăm tấm nộp trong
ngày. Húp vội chén nước cháo, rồi xách gậy và liềm đi ngay vào rừng.
Tôi biết, bên trái khu rừng chồi trước trại, rừng rất dày, nhiều gai Mây
và Song, nhưng chỉ là một giải rừng hẹp, tuy rậm rạp khó đi, nhưng nếu
chịu khó len lỏi qua được phía bên kia sẽ thấy một trảng tranh lớn, vẫn
còn nhiều tranh dài có thể đánh tấm. Đến đó sẽ không phải đi tìm xa và
không sợ thiếu thời gian. Tuy nhiên tôi vẫn muốn vào rừng sớm một chút,
hôm qua khi chặt le về phát giác cây cám to đã có qủa chín nằm khuất
trong cánh rừng le bên phải khu rừng chồi. Đêm qua gió khá lớn, nhất
định sẽ có trái chín rụng đầy mặt cỏ, có trái rừng ăn no, còn có thể để
dư cho buổi chiều. Tù cải tạo lúc nào bụng cũng đói meo, có dịp kiếm
được ít trái cây rừng nhét bụng, khi nào tôi chịu bỏ qua. Toán lao động
vừa ra khỏi trại, tôi tách rời anh em, rảo bước như chạy về phía khu
rừng chồi. Băng ngang giải rừng song tới gần cây cám, từ xa đã ngửi mùi
thơm ngào ngạt của trái chín. Dưới gốc cây có hai anh bạn ở trại khác
cũng vừa chạy tới. Chúng tôi lục tìm trong cỏ nhặt những trái chín rớt
xuống đêm qua. Tôi được khoảng mười trái, ăn ba còn lại bỏ cả vào túi và
đi cắt tranh, tính chiều nay về trại sẽ chia cho Điển mấy trái. Điển là
bạn học cùng trường trung học, tôi đã gặp hôm mới tới đây.
Khi
ra lại khu rừng chồi để băng ngang qua bên kia, tôi thấy có một bộ đội
tách rời toán tù chặt cây và lẽo đẽo theo sau tôi quẹo phải. Qua rừng
chồi, xuyên ngang giải rừng rậm đầy gai góc hắn ta vẫn theo sau. Tới
trảng tranh hắn ngồi trên một gốc cây đổ chăm chú nhìn tôi cắt tranh.
Khi tôi ngưng lại uống nước xả hơi, hắn tới gần hỏi:
- Anh này cắt tranh cũng khá chất lượng đấy nhỉ! Anh ở đội nào thế?
- Chào anh, Tôi ở đội một.
- Anh cho tôi mượn xem cái đồng hồ anh đang đeo được không?
Tôi
vốn đang lo không biết hắn muốn gì mà vác súng theo tôi cả buổi, giờ
hiểu ra mới biết hắn mê cái đồng hồ đeo tay. Tôi gật đầu và tháo đưa cho
hắn coi. Hắn ta ngắm nghía một lúc và hỏi?
- Đồng hồ này cũng khá đẹp đấy, mười ba nến, hai cửa sổ, nhưng mà đồng hồ này của anh có người lái không?
Tôi ngẫn người không biết hắn ta nói gì. Mười ba nến hai cửa sổ là sao?
- Tôi không biết thế nào là có, hay không có người lái? Nhưng đồng hồ này của tôi chạy rất đúng giờ.
- Thế anh lúc xưa trong quân đội ngụy cấp bậc gì?
Nghe
hỏi vậy, tôi lại càng không hiểu tên này muốn gì. Cấp bậc của tôi có
liên quan gì đến việc này? Tôi vẫn biết trong đầu óc bộ đội, tù cải tạo
chúng tôi cấp bậc càng cao tội càng lớn. Nhưng tại sao khi không lại hỏi
cấp bậc của tôi?
- Xưa tôi là Trung úy.
-
Trung úy ngụy các anh sao mà dốt thế! đồng hồ không người lái mà cũng
không biết. Này nhá! đồng hồ không người lái là mình không phải lái gì
hết cả, cứ để mặc nó cũng vẫn chạy như thường đấy.
- Ồ, vậy đồng hồ của tôi không người lái.
- Anh có bán không? tôi mua cho anh giá cao.
- Tôi không bán.
Nghĩ
nếu có tiền cũng chẳng xài gì được trong tù, nên dù hắn ta nói thế nào
tôi cũng không chịu bán. Thích quá, hắn giữ lại ngắm nghía mãi mới chịu
trả. Sau lần đó, tôi bỏ đồng hồ trong túi và không bao giờ đeo ở tay
nữa, sợ sẽ gây nhiều chú ý.
Trăn của nhân dân.
Một
sáng sớm, Điển và tôi đi rừng lấy cột nhà. Tiêu chuẩn cột phải thẳng,
phải tương đối đều, không thể gốc quá to ngọn quá nhỏ, vì sẽ rất khó đục
mộng đặt kèo, đường kính từ hai mươi hai đến hai mươi lăm cm, dài bẩy
mét và phải là gỗ tốt.
Các
loại cây Dầu, Chai hay Bứa đều là những cây cao thẳng tắp, muốn tìm
được cây thẳng dài trên bẩy thước thiệt không khó khăn chút nào, khi hạ
xong chỉ cần róc một chút vỏ phía dưới gốc làm chỗ nắm và kéo ngược lên
trên, nguyên lớp vỏ sẽ lột ra thành từng dây dễ dàng nhanh chóng, không
như các loại cây khác, muốn lột vỏ, phải dùng một khúc gỗ đập vào thân
cây, vỏ ở chỗ bị đập sẽ dập nát ra, đập như thế trên toàn bộ cây cột mới
chặt cho hết vỏ, thường đập khoảng ¼ cây đã ê ẩm cả cánh tay. Chai,
Bứa, cũng như Dầu, nhựa cây tuôn ra rất nhiều ngay lúc lột vỏ, khiến cho
cây nhẹ hẳn đi, vác từ rừng về trại tuy cũng rất mệt nhưng không đến
nỗi đôi vai bị tê nhức tới ngày hôm sau như vác các loại cây nặng khác.
Khổ một nỗi, các loại cây đó đều không được nhận, vì gỗ của nó rất được
mối ưa thích. Cây rừng tươi, gỗ tốt thường rất nặng, phải hai hay ba
người mới vác nổi về trại.
Mãi
gần trưa chúng tôi mới tìm được một cây trường vừa ý. Mở ngàm cho cây
đổ đúng hướng và hì hục thay nhau chặt. Cây ngả, tôi đo đủ bẩy thước và
chặt ngọn. Khi đo tôi thấy có con trăn lớn, dài gần ba thước bị đè chặt
dưới ngọn cây đang cố tìm cách thoát ra. Có lẽ lúc nó đang trên cây, cây
ngả chạy không kip nên bị đè. Chúng tôi liền đập chết trăn và tiếp tục
chặt ngọn, lóc vỏ cây, sau đó cuốn trăn vào cây và dùng dây rừng cột
chặt, hớn hở cùng nhau về trại. Hai chúng tôi bảo nhau: sẽ có thịt cho
nguyên tuần lễ sắp tới. Về đến ngang chòi canh cổng trại, Người bộ đội
gác cổng chỉa súng chặn chúng tôi lại và sừng sộ:
- Hai anh kia đứng lại ngay cho tôi coi nào, sao hai anh dám bắt trăn của nhân dân?
-
Con trăn này trong rừng. Lúc chúng tôi chặt cây thấy nó kẹt chết dưới
cây đổ nên lấy về, chúng tôi đâu có bắt trăn của dân đâu.
- Anh còn ngoan cố hả! trăn trong rừng là của nhân dân đó biết không?
- Anh nói thế tôi thấy không đúng! Trong khu rừng này đâu có nhà dân, mà dân đâu có ai nuôi trăn bao giờ.
-
Rừng là tài sản của dân, vậy trăn trong rừng cũng là của nhân dân chứ
còn gì nữa. Bọn tù các anh quen thói bóc lột của nhân dân vẫn không
chừa. Mau đưa con trăn cho tôi ngay.
- Nếu vậy chúng tôi đem thả nó ở chỗ đã bắt được.
-
Bộ đội chính là từ nhân dân mà ra. Các anh đã học tập chính trị bao
nhiêu lâu nay còn chưa thông suốt sao. Cứ để con trăn xuống đó, tôi đem
nó lên báo cáo cho cấp trên biết không?
Điển
và tôi đành hậm hực tháo trăn bỏ xuống đất. Dù uất ức cũng phải chịu.
Làm sao cãi được với những lý lẽ chày cối như thế, lại thêm họng AK đen
ngòm nữa. Đã tưởng sẽ có một ít thịt, nhưng miếng thịt đã như đến miệng
vẫn còn bị họng súng móc ra mất
Tự túc lương thực.
Chúng
tôi phá rừng làm rẫy, trồng khoai mì, khoai lang theo kế hoạch tự túc
lương thực. Câu nói “quê hương ta đất đai mầu mỡ” quả nhiên rất đúng cho
lúc này. Những gốc mì lên nhanh như thổi, chẳng bao lâu các dải đồi đã
biến thành cánh rừng mì xanh ngát cao gấp hai người dứng, và chúng tôi
đã có thêm công tác nhổ khoai mì. Nghe thật nhẹ nhàng, nhưng khi vác bao
khoai len lỏi trong rừng mì ra chỗ cân nộp cho đội thật không dễ dàng
như tôi tuởng. Đất tốt, mỗi gốc mì ít nhất cũng có trên bốn năm củ đâm
ngang. Gò lưng nắm gốc mì kéo lên phải vận dụng toàn bộ sức lực mới keo
nổi, mà sức thì đã mỏi mòn từ mấy năm nay. Nhất là khi trời vừa tạnh
mưa, tay còn dính đất khi bẻ các củ khoai bỏ vào bao, gốc cây mì trở nên
trơn tuột như lươn, nắm nhổ được lên càng phải tốn sức nhiều hơn nữa.
Áp
dụng đúng chủ thuyết xã hội chủ nghĩa, mọi tài sản đều là của chung,
các đội nộp toàn bộ số khoai thu hoạch cho tiểu đoàn, và tiểu đoàn sẽ
phân phối đồng đều trở lại theo tiêu chuẩn làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn
ít. Sau mỗi lần thu hoạch, tiểu đoàn cho chúng tôi một tuần khoai mì
điểm tâm thay cho nước cháo. Cán bộ nói đó là lòng ưu ái của đảng đối
với anh em cải tạo. Hàng bao nhiêu tấn khoai không cánh đã bay mất nhanh
hơn cả ảo thuật.
Ngay
từ ngày đầu cải tạo, bữa ăn luôn luôn thiếu lại không có chất dinh
dưỡng, sức lực anh em càng ngày càng lụn bại. Bụng đói triền miên đó là
chuyện thường, khi bị thương các vết thương phải mất thời gian lâu gấp
đôi gấp ba mới có thể lành. Cóc, nhái, thằn lằn, chuột, bọ, rắn rết, hay
bất cứ con vật gì có thể cung cấp chất thịt cải tạo viên đều không
chừa. Đã có nhiều anh em chết vì ngộ độc cóc tía, nấm độc v.v...
Sau
Khi việc dựng nhà ở, hội truờng cho trại tạm xong, chúng tôi đắp lò
rèn, đúc dụng cụ mộc. Cưa, đục, bào, đủ loại. Từ đó, chuyển sang đóng đồ
dùng trong nhà. Lúc đầu bàn ghế còn thô sơ bằng gỗ tròn, dùng trong hội
trường và nhà ở, dần dần chúng tôi phải vào sâu trong rừng tìm hạ các
loại gỗ quí, như gõ, cẩm lai, Trắc v.v… Nghề dậy nghề, kỹ thuật đóng đồ
gỗ của anh em cải tạo càng ngày càng cao. Mặc dù toàn bộ dụng cụ dùng
đều do tự chế, chúng tôi vẫn xẻ ván từ những cây to hai ba người ôm,
đóng thành những bộ sa-long, bàn ghế, tủ dựng quần áo, hay những chiếc
giường thật đẹp, không thua gì những đồ bày bán trong các tiệm đồ gỗ nổi
tiếng dọc đường Hồng Thập Tự ở Sàigòn trước năm 1975. Đồ sản xuất rất
nhiều, cán bộ lấy đem về nhà riêng, hoặc đem bán kiếm tiền. Tiểu đoàn
nào sản xuất được nhiều cán bộ tiểu đoàn đó giầu, lâu ngày trở thành một
phong trào ganh đua giữa các cán bộ. Thi nhau bắt cải tạo đóng đồ gỗ
đem bán.
Lần
đầu tiên chúng tôi được viết thư cho gia đình cũng từ trại KàTum. Trước
khi viết thơ, cả tiểu đoàn phải học tập về điều lệ và nội dung bức thơ
được chấp thuận cho gởi. Những thơ không hội đủ tinh thần sẽ bị giữ lại.
1-
Nội dung không được than thở, trái lại phải động viên tinh thần thân
nhân, khuyên họ luôn nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp chính quyền địa
Phương
2- Cổ võ tinh thần người thân khuyên họ phải tin tưởng vào chính sách cải tạo của đảng Cộng Sản Việt Nam.
3- Cho thân nhân biết, cải tạo viên được đối đãi tử tế, được cấp phát quần áo và lương thực rất đầy đủ.
Thăm nuôi.
Ba
tháng trước, Chúng tôi được lệnh dựng một khu nhà tranh ngoài bìa rừng
cách trại khoảng năm cây số. hai dẫy dài nối đuôi nhau thành hình chữ L,
nằm lọt ở giữa là một căn nhà nhỏ, ba vách, vách trước để trống quay về
hướng hai dẫy nhà dài, tất cả nằm trong một vòng rào kín, nay được biết
đó là khu thăm nuôi. Căn nhà nhỏ nằm gần cửa hàng rào, làm chỗ cho thân
nhân khi đến trại vào đăng ký. Lúc dựng căn này, tôi đã thấy hơi lạ,
cán bộ muốn chúng tôi để trống bức vách nhìn ra hai dẫy nhà dài. Đến
ngày có người nhà lên thăm tôi mới hiểu. Từ căn nhà nhỏ có thể dễ dàng
kiểm soát mọi động tĩnh bên hai dẫy nhà ngang.
Đa
số khi viết thơ về gia đình, ai cũng xin đồ ăn. Không ngoại lệ, tôi
cũng xin nhà một lọ mắm ruốc, nghĩ thứ đó rẻ và có thể để được lâu không
hư, một chai nước mắm, thuốc ngừa sốt rét, và một chút mật gấu nếu có.
Được báo có người nhà tới thăm, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì sắp được
gặp mặt người thân, lo vì không biết vợ con tôi có đi được không? Từ bao
lâu nay tôi luôn mong ước được thấy lại người vợ mà tôi ngày đêm nhung
nhớ. Chuyến thăm đầu, có ba tôi và đứa em trai. Nhưng tôi vui mừng hơn
cả có lẽ vì có vợ tới, nàng còn bồng cả con gái đầu lòng của chúng tôi
theo nữa.
Gia
đình tôi quây quần cả bên cái bàn trong một gian của dẫy nhà ngang.
Trong góc gian phòng, có bộ đội đeo AK ngồi canh nên chúng tôi đặc biệt
cẩn thận từng lời nói. suốt hai tiếng đồng hồ tôi không rời vợ và đứa
con gái vừa được hơn ba tháng. Nàng cứ nhìn tôi mà khóc chẳng nói được
gì. Ba tôi đã gìa nhiều, ngày tôi đi ông còn rất trẻ trung . nay mới năm
mươi mà tóc bạc trắng như đã trên lục tuần. Ông cứ thắc mắc mãi, vì sao
tôi xin mật gấu. Cuối cùng tôi hạ nhỏ giọng cho ông biết tôi bị tra tấn
cần mật gấu để trị nội thương . Vợ tôi nghe được, nước mắt càng dàn
dụa. Hai tiếng thăm nuôi sao ngắn qua, giống như chỉ hai phút. Lúc chia
tay tôi không ngăn được cảm xúc. Ba tôi cũng bùi ngùi dặn tôi nên bảo
trọng. Vợ tôi bịn rịn chẳng muốn rời. Đường từ khu thăm nuôi về trại sao
dài thăm thẳm. Các bạn khác vì xin quá nhiều đồ ăn phải gồng gánh nặng
nề, có người phải đi dây chuyền hai gánh nên đi thật chậm. Tôi chỉ có
một bao nhỏ xách tay cũng được nên không khó nhọc lắm trên đường về.
Tôi ở Katum ba năm, được thăm nuôi hai lần , mỗi lần ba tiếng . Lần thứ nhì vợ tôi đi cùng mẹ và đứa em gái lên trại.
Canh da trâu.
Sang
nay tiểu đoàn họp sớm, chúng tôi không những không phải đi rừng, còn
được phát mỗi người một bộ đồ kaki mới. Tiểu đoàn ra lệnh:
1-
Hôm nay không phải lao động, nhưng mọi người không đuợc mặc đồ cũ, rách
rưới. Trong vòng 2 ngày, bất cứ lúc nào, sẽ có phái đoàn quốc tế gồm
đại diện các nước Nga, Anh, Pháp, Hòa lan, Bungary tới thăm trại.
2- Trong trại phải hoạt động bình thường, và vui vẻ cười nói, không được nhăn nhó chán nản.
3-
Cấm tuyệt đối không được tự ý tiếp xúc trò chuyện hay nêu câu hỏi với
phái đoàn. Cán bộ đã chỉ định người và chuẩn bị sẵn các câu hỏi cho mấy
người này.
4- Đặc biệt nếu ai dùng tiếng nước ngoài như Anh, Pháp v.v… nêu câu hỏi hay nói gì với phái đoàn sẽ bị trừng phạt nặng nề.
5- Người đã được chọn sẵn, phải nêu đúng những câu hỏi cán bộ soạn trước, không được sửa đổi lệch lạc .
Sau
khi họp, về trại nghỉ nguyên ngày. Thật bất ngờ, các anh em trong tổ
anh nuôi được lệnh đi lãnh đồ ăn. Mỗi đội ba ký lô da trâu và một rổ rau
muống. Đã mấy năm không có thịt cá chi hết, nay bỗng có canh rau muống
nấu da trâu, cộng thêm một bộ đồ kaki mới, còn được nghỉ xả hơi khỏi lao
động. Đúng là đảng có lòng ưu ái cải tạo. Nhưng suốt hôm đó chẳng có ma
nào tới. Gần trưa hôm sau mới thấy phái đoàn gồm ba nguời ngoại quốc
được cán bộ đón đi xem hội trường. Họ đứng nói chuyện trên hội truờng
một lúc, sau đó đi thăm nhà cán bộ rồi ra về. Không thắc mắc, không thăm
viếng, không có câu hỏi cũng chẳng có trả lời.
Sau
buổi đóng kịch hụt, ngoài việc lao động từ sáu giờ sáng đến sáu giờ
tối, Kàtum không còn gì đáng nhớ. Tôi ở trại này khoảng trên ba năm,
cuối năm thứ ba có mười mấy anh em được thả, số còn lại chuyển về Thành
Ông Năm Hóc Môn. Tôi về Hóc Môn càng buồn hơn, một số bạn được đi phép
năm ngày thăm nhà, tôi không có may mắn đó. Trại gần thành phố nên được
canh giữ rất kỹ luỡng, không có lao động xa, chỉ làm việc trồng trọt dọn
dẹp lặt vặt trong vòng rào trại. Tôi giết thời gian ở đây bằng cách học
guitar với Linh, một anh bạn mới quen. Một buổi tối tôi buồn và nhớ vợ,
ra sau dẫy nhà ngủ, ngồi một mình dưới gốc cây hát cho vơi sầu. Bài
“chiều hành quân”, Linh nghe được đem cây đàn dã chiến ra đệm cho tôi.
Từ đó chúng tôi thường quây quần lén hát nhạc vàng cho nhau nghe. Tạ Kỳ
Linh, là con trai lớn của nhà văn Tạ Tỵ, chúng tôi đổi ngược tên thật
của anh lại thành “Tinh Kỳ lạ” cho hợp với cái tài chơi đàn xuất chúng,
dù chỉ với cây đàn do chúng tôi tự dùng ván thông và gò nhôm làm thành.
Ngoài ra tôi còn cắt nhôm làm kẹp tóc, lược, lắc đeo tay và khắc hình
hay chữ trên đó. Khoảng mấy tháng ở đây vì ít phải lao động cực nhọc sức
khoẻ tôi đã phần nào hồi phục.
Hơn
ba năm từ ngày Cộng Sản chiếm Sàigòn, thành phố tráng lệ của miền Viễn
Đông. Chúng tôi, những người con hiên ngang gánh vác trách nhiệm bảo vệ
tự do cho miền Nam đã không dứt áo ra đi, đã không nỡ xa rời quê mẹ. Dù
sao cũng vẫn cùng một giống nòi Hồng Lạc. Đất nước hợp nhất, không còn
chiến tranh. Chiến tranh dứt thù hận cũng tiêu tan. Ở lại dù có khổ sở
thế nào cũng vẫn là người dân nước Việt sống trên quê hương Việt Nam.
Không lẽ Việt Cộng nay đã lấy được trọn cả nước lại đi giết tập thể hàng
trăm ngàn người dân chúng tôi sao?
Vì
ý nghĩ đó, chúng tôi đã tự nguyện ở lại đem thân vào chốn lao tù, làm
việc khổ sai đày đọa, cách biệt hẳn với xã hội bên ngoài. Nhưng hỡi ôi!
Việt cộng dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam không giết
chúng tôi tập thể. Chúng chưa muốn người dân Việt Nam kinh hãi, và nhìn
rõ bộ mặt thật của Cộng Sản. Đảng đã thâm hiểm hơn gấp trăm gấp ngàn
lần, đã đánh lừa gom những người con ưu tú của miền Nam vào các trại tù
khổng lồ, và che mắt mọi người bằng mỹ danh trại “Cải Tạo”. Xã hội sẽ
không còn người chống đối phản kháng những việc làm bán nước hại dân của
chúng. Trong trại tù chúng không những hành hạ bắt làm việc nặng nhọc
ngoài sức chịu đựng của con người, còn cướp hết những lương thực sản
phẩm do tù nhân làm ra để họ ngày một đói, không chết vì rừng thiêng
nước độc, bệnh hoạn không thuốc men, cũng chết dần vì thiếu đói, vì kiệt
quệ, hao mòn trong lao động khổ sai, triền miên. không còn lầm lẫn nào
lớn hơn lầm lẫn này. Cái ý nghĩ cùng một giống nòi Hồng Lạc mới mỉa mai
làm sao!!! Cuối năm thứ tư tôi bị chuyển đi Phước Long.
Phước Long.
Phước
Long là vùng cao nguyên, Trại cải tạo nằm sâu trong rừng, về sáng sương
mù và khí lạnh rất lâu tan. Những khu rừng lồ ô thường nằm dưới thung
lũng, thấp và thiếu ánh sáng nên ẩm ướt càng thêm ẩm ướt, lá lồ ô rụng
thành một lớp dầy, lâu ngày mục nát rất thích hợp cho vắt sinh sống. Tôi
ghét cay ghét đắng công tác lấy lồ ô, không phải vì nặng nhọc, chỉ vác
hai cây dài đã nặng quằn vai, trong trại tù, có công tác nào mà không
nặng nhọc? cũng không phải vì rừng lồ-ô ở khá xa trại, chặt dủ bốn cây
vác về đã mất hơn hẳn nửa ngày còn mệt bở hơi tai, nghỉ nguyên buổi
chiều cũng không lại sức. Tôi ghét đi lấy lồ ô vì rừng lồ ô đầy vắt. Bất
cứ ngừa cách nào, bó chặt tay áo, cột kín ống quần v.v.. đều không thể
tránh bị vắt cắn. Mỗi lần đi lấy lồ ô ít nhất cũng bị năm ba con hút no
máu to phồng, đó là chưa kể hàng chục con khác mới vừa bắt đầu hút máu
đã bị phát giác và bị giết ngay tại chỗ, thật khốn khổ hơn nữa nếu không
may ta bị một con chui vào tai hay hậu môn.
Có
lần chặt xong hai cây, róc sơ cành lá cho khỏi vướng, tôi gò lưng, è
cẳng kéo ra ngoài trống chỗ có ánh sáng mặt trời, vì biết vắt rất kỵ ánh
nắng, cảm thấy trên mu bàn chân vừa ngứa vừa đau vội cởi giầy ra xem,
vừa lột được chiếc vớ tôi đã rùng mình, tóc gáy dựng dứng. Một cảm giac
ớn lạnh thật khó tả, suốt đời tôi không bao giờ quên, chạy doc xương
sống làm trán toát mồ hôi. Thấy trên bàn chân chín, mười con vắt bu kín
đang đua nhau hút máu, con nào cũng đã căng tròn. Tôi vội vàng dùng luỡi
dao gạt hết xuống, bằm nát, rồi lấp đất lên để khỏi phải nhìn máu của
chính mình loang đầy mặt đất.
Một
lần khác, nộp lồ ô xong trời đã chiều, ra giếng tắm, cởi áo mới thấy
con vắt to căng tròn máu rớt từ sau lưng xuống, vì quá no không còn hút
thêm được đã căng tròn như một viên bi nên tự động rớt ra.
Chúng
tôi đã gầy gò vì thiếu ăn lâu ngày, bị mất máu như thế, với tôi là một
cực hình ghê sợ nhất. Cái tệ hại bị vắt cắn không những chỉ mất số lượng
máu đã bị hút, chỗ vắt cắn thường rất lâu lành, máu vẫn tiếp tục chảy
dù con vắt đã bị chúng ta lấy ra. Trên miệng vắt tiết ra chất chống đông
máu. Khi vắt đã nhả, trung bình phải mất ít nhất từ hơn nửa tiếng đến
một tiếng máu mới có thể ngừng chảy.
Từ
khi đến Phước Long, Tinh Kỳ Lạ và tôi ở khác đội, ít có dip gặp nhau.
Việc học đàn với anh phải tạm gác lại. Các bạn cùng đội biết tôi từng mê
chuyện kiếm hiệp Kim Dung, mỗi tối đều tìm cách mời tôi kể lại, họ nấu
chè hoặc bất cứ món ăn gì có thể tìm được, đặc biệt để dành cho “thầy kể
chuyện”. Tối nay buổi kể chuyện cũng tạm ngưng vì tập họp điểm danh bất
thường. Hồi sáng đi cuốc cỏ ruộng mì tôi có gặp Linh, tôi chỉ chào hỏi
qua loa và nhận ra Linh có vẻ vội vã. Không rõ như thế nào, nhưng Linh
đã âm thầm sắp xếp với vợ qua mấy lần nuôi, và hôm nay chị Linh chạy xe
Honda vào tận khu rừng thưa mang quần áo civil cho anh thay, hai người
giả trang dân trong vùng cùng nhau trốn thoát về SàiGòn. Sau này tôi có
đến khu chung cư Minh Mạng thăm nhưng không gặp linh, lúc đó đã đi Cà
Mâu dò đường vượt biên, gặp chị Linh, tôi có gởi lời hỏi thăm anh. Nghe
đâu anh cũng vượt biên an toàn và nay đang định cư tại Mỹ.
Xuyên Mộc, trại cuối cùng.
Chuyển
về Xuyên Mộc chúng tôi ai cũng mặt mày ủ dột. Đây là trại tù do Công an
coi. Ngày đầu vào trại một cán bộ khi tập họp chúng tôi đã tuyên bố rõ
ràng: Các anh ngụy quân ngụy quyền chuyển về trại này đều thuộc thành
phần còn ngoan cố, học tập lâu vẫn không có kết quả tốt. Đã qua nhiều
lần thanh lọc còn lọt lại. Những ai học tập tốt đều đã được cho về đoàn
tụ với gia đình. Còn các anh có thể phải ở đây mãi mãi.
Ở
Xuyên Mộc khoảng năm tháng, người Thiếu úy cán bộ đại đội gọi tôi lên
để nói chuyện rieng. Trong lòng hồi hộp không biết mình đã ăn nói sơ hở
gì để ang-ten báo cáo. Kinh nghiệm mấy lần, khi bị gọi lên gặp riêng với
cán bộ lần nào tôi cũng mang cái thân ốm đòn trở về. Cũng may lần này
anh chàng cán bộ đại đội trưởng này cho tôi biết anh ta nghe một người
bạn tù giới thiệu, tôi khéo tay, biết vẽ và xủi đồ nhôm. Anh ta muốn nhờ
tôi xủi hình một cô gái và đóa hoa hồng vào mặt hộp quẹt máy cho anh.
Tôi nhận lời ngay vì đây là dịp may khỏi bị đào đất khiêng cây hoặc làm
những việc nặng nhọc khác. Hết quẹt máy này anh ta đưa quẹt máy khác,
hết quẹt đến vòng, lắc, kẹp tóc v.v… Một thời gian mấy tháng tôi luôn
được ngồi trong gốc cây mát làm đồ riêng cho anh ta. Một hôm đang cùng
các bạn đào gốc cây anh ta lại đến gọi tôi ra nói chuyện riêng. Lần này
vừa mở lời đã chặn đầu: Anh phải làm tốt một việc sau đây, tháng sau anh
sẽ được đề nghị cho về, và nhớ phải giữ kín chuyện tôi nói với anh hôm
nay, nếu không anh sẽ bị giữ lại học tập thêm. Tôi rất ngạc nhiên, hôm
mới vào trại có một cán bộ đã nói tụi tôi có thể sẽ phải học tập suốt
đời ở đây. Anh ta tiếp: Trong vòng một tuần anh phải viết cho tôi bài
báo cáo về tất cả những hanh dộng va tu tuởng sai trai phản dộng của mọi
nguời trong đội. Nếu bản báo cáo tốt anh sẽ được về. Tuyệt đối không
được dấu diếm che đậy chuyện gì cả .
Đêm
đó tôi trằn trọc mãi. Thi ra hắn muốn mình làm ang-ten. Thiệt là khôi
hài, muốn tôi làm ăng-ten bán rẻ anh em, đừng hòng tôi làm chuyện đó!
Nhưng nếu lỡ hắn ta nói thật thì sao đây? nghĩa là nếu tôi không viết
báo cáo hắn có thể giữ tôi lại không? Không thể bỏ uổng dịp may hiếm có
cũng không thể làm hại anh em. Vợ con tôi ở ngoài đang trông đợi tôi về,
còn có gia đình tôi nữa. Thật là một đòn thâm độc. Suy nghĩ mãi tôi đã
quyết định chờ tới ngày chót mới viết báo cáo. Trong báo cáo tôi viết:
Tôi nhận thấy các bạn trong đội người nào cũng cố gắng hết sức lao động,
học tập, chăm chỉ. Người nào cũng nôn nóng mong học tập mau về. Họ cố
gắng nhiều quá nên mệt nhọc, công việc có hơi chậm lại. Ban đêm họ đều
mệt, ngủ say không bàn tán xì xào gì được cả .
Một
tuần sau, buổi sáng sớm khi tiểu đoàn tập họp đi lao động, 12 người
được giữ lại trại cho lãnh giấy ra về trong đó có tôi. Về đến nhà gặp
cha mẹ vợ con mấy tháng sau có người dắt mối nhờ lái ghe vượt biên. Tôi
không ngần ngại nhận lời ngay. Cuối năm 1980 may mắn đã đưa được gia
đình thoát nạn tới Indonesia và đi định cư năm 1981 . Một thời kinh
hoàng tủi nhục của đời người đã qua, nay nhớ lại tôi vẫn còn kinh tởm
cộng sản vô cùng.
Dung2