Con cá đá Xiêm mua từ tháng hai, chết một tuần nay rồi. Như vậy là từ khi về nhà tôi, nó sống được 7 tháng và nó đã được giữ vai chính trong truyện “Mùa Phấn Hoa Anh Túc” của tôi.
Người bán cá
bảo nó có thể sống lâu hơn nữa cơ. Nhưng một tuần đi xa nhà, trước khi đi tôi
quên thay nước, khi về thấy nó bơi uể oải trong bình nước đục tôi biết ngay là
nó bị bệnh trong nước bẩn rồi. Tôi vội thay nước và nhớ thay thường xuyên. Nó
sống, nhưng cái giải đuôi như lụa của nó không uốn lượn phất phơ nữa. Nó bơi lừ
đừ, cái đuôi thỉnh thoảng mới đưa nhè nhẹ, như một ông lão đi chậm chạp, cầm
cái quạt giấy, thỉnh thoảng mới phất phơ. Tôi biết là nó sắp sửa phải vào Hospice
rồi. Cuối cùng, một buổi sáng nó nằm im dưới đáy bình, trên mấy cái lá rong
xanh như một người bình thản đặt đầu trên gối lụa.
Tôi đem nó
ra ngoài vườn, bới sơ dưới gốc cây Mộc Lan một hố nhỏ bằng cái chén ăn cơm, cho
nó nằm vào, lấp đất lên. Cái thân bé nhỏ mong manh của nó chỉ cần mấy hôm sẽ
tan vào đất.
Cái bếp của
tôi tự nhiên vắng ngắt, im lặng mặc dù Biga (tên hai đứa bé đặt cho cá) trước
đây chẳng bao giờ cất tiếng hát. Tôi đang nghĩ không biết sẽ trả lời hai đứa
cháu ngoại thế nào khi chúng sang chơi, hỏi "Biga đâu?"
Một tuần
không có Biga tôi không có bạn trong bếp, cái bình thủy tinh trong suốt nơi tôi
cho vào đó một cụm thủy trúc nhỏ có Biga bơi bơi nay chỉ còn nhìn thấy đám rễ
vàng hoe. Nhà của Biga hay được để giữa cái bàn ăn nhỏ trong bếp này, tôi
thường vừa nấu ăn vừa thỉnh thoảng ngắm nghía. Nhất là buổi sáng, một mình
trong cái bếp yên tĩnh, vừa ngồi nhâm nhi cà phê vừa hỏi chuyện Biga vài ba
câu, vừa nghe chim hót trên cây mộc lan ngoài vườn, đôi khi tôi nhớ đến câu thơ
hay.
Xuân gần
tàn/ Hoa tràn lệ/ Con mắt cá rưng rưng. Đó là một vần thơ Hài Cú của Basho. Tôi đã đọc cho
Biga và tôi cùng nghe.
Đối với tôi
những con vật be bé hiền lành hay những loài hoa cỏ nho nhỏ, nhất là những loại
nhắc đến quê nhà, rất cần thiết, tôi không thiếu chúng nó lâu được.
Sáng nay tôi
ra Pet Shop dán mũi vào mấy cái chậu cá vàng, nhìn mãi, biết là mình
không mua được vì nhà không có hồ cá (lý do không biết đặt máy lọc nước và thay
nước) lại dán mắt vào mấy cái hộp nhựa nhỏ đựng riêng rẽ từng con cá đá. Loại
này không thể hai con sống chung một bồn với nhau được, khi cả hai cùng phái.
Chúng nó sẽ đá nhau tới chết, Fighting Fish mà. Đó là lý do tại
sao Biga phải sống cô đơn.
Tôi thấy con
cá với cái đuôi màu đỏ có nhãn là Rose petal khá đẹp nhưng giá tới
hai mươi đồng. Hôm trước tôi mua Biga có bẩy đồng. Đắt quá! Tự nhiên tôi không
muốn nuôi cá nữa, có lẽ tôi vẫn còn quyến luyến với Biga, nên lấy cớ đắt rẻ, vì
chưa muốn con cá khác thay thế nó. Tôi lang thang ra chỗ Ếch Phi Châu. A, mấy
con ếch này từ Phi Châu sang mà sao nó không đen, da nó có màu kem. Tôi hỏi mua
hai con. Anh chàng bán hàng hỏi:
- Bà có hồ
nước ấm không? Chúng cần ở trong nước bẩy mươi độ.
- Tôi không
có.
- Như thế thì đừng mua.
- Tôi không có hồ ấm, nhưng tôi sẽ cho
nước ấm mỗi ngày và tôi sẽ để nó ở trong bếp nơi tôi nấu ăn. Nếu cần, tôi sẽ
đặt đèn cho nó cả ngày.
Anh ta nhìn
tôi với cặp mắt không mấy thiện cảm, tôi lờ đi, nói:
- Anh lấy cho tôi hai con.
Anh ta miễn
cưỡng mang cái bao ni-lon lại vớt hai con ếch to bằng hai con dế dũi cho vào,
đưa cho tôi với câu nói:
- Đáng nhẽ bà không có hồ ấm tôi không
bán, vì giống này ở Phi Châu chỉ quen nóng thôi.
Tôi thấy anh
ta khó chịu nên trả lời nhẹ nhàng.
- Anh đừng lo tôi ở xứ nóng sang đây,
tôi cũng phải tập quen với cái lạnh. Hai con ếch này sẽ có ngày chúng bắt tôi
cho thêm đá vào nước đấy.
Anh ta hừ
nhẹ một tiếng trong họng, đưa bịch cá cho tôi không nói thêm một câu. Tôi lờ đi
như không biết, vẫn cám ơn ngọt ngào.
Tôi mang
ngay hai anh chàng Phi Châu về. Cái nhà của Biga bây giờ chỉ còn cây thủy trúc
nhỏ. Dọn hai chàng này vào không được. Ếch cần có cái sàn rộng hơn. Tôi lại
chạy đi mua một cái bình hình chữ nhật, ra vườn tìm ba hòn đá, cần một hòn
mỏng, để làm nóc, tôi biết ếch thích leo trèo và thích có hang. Tôi kiếm được
một miếng gạch vỡ, rửa sạch tất cả, xếp thành hình cái hang nhỏ trong đáy bình.
Đổ nước âm ấm, thả hai con ếch vào, đứng ngắm:
Ao cũ / Con
ếch nhẩy vào / Vang tiếng nước xao.
Hai con ếch
dọn vào nhà mới không phải ao cũ, nhưng được nghe ngay thơ Basho, chúng thật là
may mắn.
Chúng may
mắn hay tôi may mắn. Tôi nhớ mùa hè năm ngoái, tôi mua được một cụm bèo Nhật ở
một nhà bán cây kiểng Mỹ. Khi nó nở một bông hoa tím tôi hạnh phúc đến bàng
hoàng như mang được cả quê hương đến nơi này. Bao nhiêu câu hát về hoa Lục Bình
theo nhau chạy về trong trí nhớ. Thế mới biết cái hồn viễn xứ mạnh thật. Khi
sống xa quê những vật nhỏ bé, tầm thường nào mang hình ảnh quê nhà đều có tác
dụng rất mạnh với mình.
Hai con ếch
Phi Châu này không hiểu tại sao da không đen, chắc chúng đã mấy đời lai giống.
Tôi nhớ mấy năm về trước tôi mua được một con da đen bóng nó sống với tôi được
sáu bẩy tháng mới mất, nó mất cũng chỉ vì tôi vắng nhà mười ngày, không ai săn
sóc nó, nếu không chắc nó còn sống lâu hơn. Tôi thích mấy con ếch vì nó làm tôi
nhớ đến mấy con ếch nhỏ màu xanh biếc như cánh bèo ở ao quê nhà vào thời thơ
ấu. Con ếch đó to và đẹp hơn loại ếch kiểng Phi Châu này nhiều.
Đôi khi tôi
tự hỏi, mấy con cá mang nhãn hiệu của nơi xuất xứ thật ra đã bao nhiêu đời được
gây giống bên ngoài quê hương gốc của nó. Hai con ếch Phi Châu này chắc chắn từ
đời ông sơ, ông cố nó sinh ra ở Phi Châu không phải đời nó, nên nước da mới
trắng nhợt thế này.
Tôi nghĩ đến
thân phận di dân. Con người cũng vậy thôi, chỉ đời cha, đời ông mới được người
cùng quốc gia ở quê nhà gọi là “kiều bào” nhưng đời cháu, đời chắt, họ đánh rơi
ngay hai chữ đó trên mỗi bước họ đi. Họ nhận (hay họ chính là) người của quốc
gia họ sinh ra và trưởng thành.
Điều
đó tự nhiên đến nỗi chẳng ai còn nhớ ra để mà buồn, vì các ông bà cố và cha mẹ,
họ hàng xa xưa của họ đã qua đời hết rồi. Đôi khi họ có lúc tìm lại, như tìm
một sự kiện để làm một bản văn hay một luận án ra trường. Xong việc đó, mọi
việc lại cất vào ngăn lưu trữ, họ lại sống cái đời đang sống. Tôi nhớ hồi mới
sang Mỹ, gặp một phụ nữ Á đông ở chỗ làm. Hỏi chị người nước nào, chị thản
nhiên nói “người Mỹ”. Chị sinh ra ở Mỹ, trưởng thành ở Mỹ, ông nội và bố chị
cũng sinh ra ở Mỹ. Như vậy ông cố chị là người đầu tiên tới đây, đến chị là đời
thứ bốn, cho nên chị không nói được tiếng Hoa. Chị nói, cả gia đình tôi, sống
theo tập quán của người Mỹ, chúng tôi thưởng thức những ngày lễ hội của Trung
Hoa như tất cả những người Mỹ khác mà thôi, không ai quan tâm đến mình phải là
người Hoa nữa.
Hồi đó mới
sang, còn trẻ, tôi nghe ngạc nhiên lắm, nghĩ thầm trong đầu “Đúng là mất gốc”.
Bây giờ lớn
tuổi, cách suy nghĩ cũng khác đi, niềm tin vào năm tháng thấy mong manh quá.
Thử tưởng tượng năm 2100, tám mươi lăm năm nữa, đứa bé Syrian được sinh ra ở Ý,
ở Đức, ở Mỹ, vào năm 2015 lúc đó là một người già 85 tuổi, chắc sẽ nói về Syria
như kể truyện cổ tích cho con cháu nghe mà thôi. Và sẽ bắt đầu bằng: Ngày xa
xưa gần một thế kỷ, ông cố của ta đã tới đây….
Phải chăng,
chúng ta sống trong thời đại của tỵ nạn và tuổi của lưu vong(*)
Tôi nhìn hai
con ếch mang nhãn Phi Châu với màu da vàng nhợt nhạt, nhớ đến con cá Xiêm, bất
giác nghĩ đến phận mình, phận của bao nhiêu con người nữa, khác chi như cá, như
ếch, như bông hoa lục bình trôi từ một sông nước quê nhà tạt vào xứ sở xa xăm.
Trần Mộng Tú
Tháng
9/16/201
- Theo báo cáo năm 2014, của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR) vào thời điểm
cuối năm 2013 có hơn 51 triệu người đang chạy trốn hoặc bị trục xuất, trong đó
có hơn 33 triệu người đàn ông, phụ nữ và trẻ em di tản trong khu vực các quốc
gia riêng của họ ("người tản cư nội địa"). Wikipedia.
(*) We live
in the age of the refugee, the age of the exile. -Ariel Dorfman