Trong
những câu chuyện về biển, mộ gió là một trong những điều khi nói đến, bất kỳ ai
cũng cảm nhận được sự bi ai của kiếp người. Mộ gió là nơi gọi hồn trở về đại
dương mênh mông sau khi người đi biển đã đặt cược đời mình với biển cả.
Từ đời
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1563 -1635 ), cùng với lời khuyên của học giả Đào Duy
Từ (1572-1634), biển được lưu tâm là nơi đánh dấu bờ cõi Việt Nam, nhưng cũng
là nơi mà những người lính – ngư dân đầu tiên đi mà không hẹn ngày về. Mộ gió
có từ đó. Những ngày Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa cũng là những ngày mà người
ta vẽ lại hình người bằng đất sét, thương nhớ thịt xương đã nằm sâu dưới đáy
biển hay trong bụng cá. Lúc đó, kẻ thù của ngư dân chỉ là bọn cướp vặt hoặc là
thời tiết chứ chưa đầy hiểm nguy như hôm nay, bởi những chiếc tàu Trung Quốc dữ
tợn vượt hơn tất cả.
Mộ gió
hôm nay, lại nhiều hơn bao giờ hết. Nhìn những nắm đất xếp cạnh nhau trãi dài
trên bờ cát mới thấy thiên nhiên không thể khốc liệt bằng con người. Con người
không có bão táp không tay như sẳn sàng nhấn chìm đồng loại của mình, sẳn sàng
tàn phá mọi thứ không phải vì quá nghèo khó, không phải vì thù hận, mà chỉ điên
cuồng vì thách thức và cưỡng đoạt. Những ngôi mộ gió giờ không còn lính, chỉ
những người đàn ông hiền lành đi biển, mong kiếm thêm bữa cơm cho gia đình
mình. Những ngôi mộ gió đó uất nghẹn và bàng hoàng không hiểu vì sao mình lại ở
đây.
“Giờ thì
ít ai dám đi biển xa. Cách bờ biển mình chừng 12 hải lý tàu cá Trung Quốc nó
đậu dày đặc. Mà không biết nó có phải là tàu cá chi không vì cần thì tụi nó rút
súng bắn đùng đùng như cơm bữa”, một người dân miền Trung kể với chúng tôi,
những người ở thành phố vẫn ăn cá mà thật là thờ ơ, ít khi nào hình dung sự
sống và cái chết chung quanh thuyền cá Việt hôm nay ra sao.
Trên bãi
biển mà chúng tôi thấy, những chiếc tàu đánh cá vội vã trở về lúc bình minh ở
bãi. Họ đi và canh cánh nỗi sợ hãi ngay trên mép biển của mình, sẳn sàng quay
đầu chạy khi xa xa có bóng cờ của Trung Quốc láng giềng. Giờ thì lệnh cấm đánh
bắt của Trung Quốc ban hành, ngư dân Việt Nam cũng thì thầm nhắc nhau vì không
khéo, đó là những chuyến đi đầy mạo phạm không có ngày về. Tổ quốc trong lời
thì thầm. Tổ quốc mộ gió.
Chuyện mộ
gió hôm nay với ngư dân không chỉ là sự thương tiếc cho người ở lại biển, mà
còn là sự cảnh báo: Biển không còn bình yên bởi con người và trò chơi chính
trị. Biển bị bao vây trong những cái bắt tay và nụ cười hữu nghị cộng sản, trao
về mộ gió.
Tôi gọi
điện thoại cho một ngư dân ở Quảng Ngãi, khi nghe tin Việt Nam có nghị định mới
(71/2015 ) về chuyện tàu hải quân Việt Nam được phép dùng vũ khí để truy đuổi
những tàu nước ngoài xâm phạm lãnh hải. Người đi biển này im lặng một hồi rồi
nói “liệu mọi thứ rồi sẽ tốt hơn không?”. Chuyến đi dọc miền Trung mới đây, tôi
chợt nhận ra rằng người miền Trung trực tính, hay nói và dễ gần… như đã thay
đổi. Họ hay nói lãng sang chuyện khác và né tránh về những câu chuyện biển mà
họ đang sống chết với nó. Ở trên biển, họ lo sợ tàu Trung Quốc, nhưng ở trên
bờ, họ ngại ngùng điều gì đó thật khó hiểu. Thậm chí, có người lỡ bộc bạch, đã
canh cánh gọi vào 2, 3 lần chỉ để dặn rằng thôi đừng nhắc gì về những điều ông
đã nói. Ngay cả trong đời sống, nỗi niềm của những ngư dân Việt cũng đã chôn
vào mộ gió sao?
Thật võ
đoán, nếu liên hệ chuyện tàu hải quân Việt Nam được dùng vũ khí với chuyện có
đến 4 tàu cá của ngư dân Việt bất ngờ bị “tàu lạ” liên tục tấn công ở vùng biển
Kiên Giang, kề với người bạn láng giềng tính tình khó đoán Campuchia. Nhưng
chắc chắn phải có điều gì đó khiến các vụ tấn công dã man này hoàn toàn khác,
so với những vụ cướp và tấn công vặt trước khi Việt Nam có tuyên bố mạnh hơn
trên biển. Các “tàu lạ” này xông thẳng và nhắm bắn trực diện vào ngư dân. Anh
Ngô Văn Sinh, 38 tuổi, người cha của một gia đình, người đứng lái tàu, đã bị
những “kẻ lạ” biết nói tiếng Việt bắn thẳng vào mặt và chết ngay trên buồng
lái. Kể từ khi Campuchia có vẻ gần hơn với Trung Quốc, biển Việt Nam ở phương
nào cũng đầy nguy nan.
Mọi thứ
dường như hiện rõ hơn, chứ không khó khăn để phỏng đoán. Cách thức của “kẻ lạ”
tấn công ngư dân Việt chẳng khác gì tàu cá Trung Quốc áp sát bờ biển miền
Trung. Ông Lê Thế Hưng, đại tá Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Đà
Nẵng nói rằng từ đầu năm đến nay, lượng tàu Trung Quốc tiến vào biển Việt Nam
ngày càng có thái độ nguy hiểm. Ngoài chuyện đánh bắt, tàu Trung Quốc còn đưa
máy móc vào thăm dò biển Việt Nam, uy hiếp, cướp tài sản của tàu cá Việt… Thậm
chí tàu đánh bắt gần bờ hướng Hoàng Sa cũng bị tàu Trung Quốc rượt đuổi và
cướp.
Kiên Giang
không có mộ gió, vì lâu nay, nơi này chỉ là vùng làm ăn thanh bình của cực Nam
nước Việt. Nhưng có lẽ đến lúc người dân đi biển ở đây nghĩ về mộ gió, thứ mà
biển đã muốn giữ lại con người hiền lành chăm chỉ, chỉ trả lại gió – như cái
kết buồn của những số phận vô danh và luôn yêu đất nước này.
Một người
quen từng kể về câu chuyện bà mẹ hóa điên khi đứa con trai út đi biển, và không
trở về. Bà hay ngồi trên mộ gió của con mình và hát như một bài hát ru vào vô
tận. Giọng hát miền Trung à ơi mà tôi đã được nghe khi đi qua vùng đất này –
liệu có đổi giọng thành những giọng hát miền Nam hay miền Bắc vào những ngày
sắp tới? Những tiếng hát Việt Nam đau thắt trong vòng vây của tình hữu nghị.
Để ghi
lại những gì mình thấy, tôi hỏi ông chủ nhà trọ rằng nơi đây có internet không.
Ông ngớ người ra giây lát rồi nói “Dạ chụ, nơi đây không cọ internet, chỉ có
wifi thôi”. Thật buồn cười và dễ thương. Người miền Trung vậy đó, hiền lành và
chất phác với đời sống. Con cá không có tổ quốc, nhưng người đi biển biết mình thuộc
về nơi nào. Họ không quá dũng cảm để chọn hy sinh nhưng ra khơi là bổn phận
sinh tồn mà họ không thể làm khác.
Vì vậy,
dù bên tai có văng vẳng tiếng hát ru Việt Nam của bà mẹ hoá điên trên mộ gió,
ngư dân Việt lại vẫn im lặng giong buồm ra biển – như một cách để tự nhận
thấy mình thật cô đơn, ngay trên chính tổ quốc của mình.