Câu chuyện đi thăm Tướng
Đỗ Kế Giai tại một nhà dưỡng lão ở Garland, Texas, đã ám ảnh tôi suốt một đêm
khó ngủ. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật vào cuối Tháng Mười Hai Dương Lịch, trời
đã bắt đầu se lạnh, bãi đậu xe trống vắng bóng xe, gần như không có một người
khách thăm viếng. Nhưng ông bà cụ già, ngồi trên xe lăn, dồn ra phòng khách,
trên lối đi vào, với đôi mắt đờ đẫn không nhìn ai, hay gục mặt nhìn xuống thân
mình, trong thói quen chờ đợi, hy vọng có một người thân của mình hiện ra trên
ngưỡng cửa với một nụ cười, bó hoa hay món quà trên tay.
Tôi biết trên thế giới Tây phương có
nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà
không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng
lão. Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên
chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào
đó.
Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào
chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế, được cho ăn
mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần
truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu.
Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công
việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.
Có những đứa con nại cớ bù đầu với
công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho
cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. Gần đây người ta lên tiếng
hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm
nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm
vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già! Người ta thường kêu than không có thời
giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời
trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương
trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. Đó là chưa kể thời gian
“bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn
với bạn bè.
Người ta có thể mỗi năm tổ chức
những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng
“nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.
Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm
mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ, phải
chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông
coi. Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước
tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến. Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm,
bên ráo con lăn,” không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói
khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.
Con biết giờ đây, “một ông già bằng
ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.
Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân
xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. Một
đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc
la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó. Trái lại, một ông già còn biết buồn,
biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của
mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có
khi còn hơn thế nữa!
Thói quen của người đời, người ta
thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối
với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp
lại.
Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe
tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già,
các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và
đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?” Trong cái tổ ấm
cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những
cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. Con búp
bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con
gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn
còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai. Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp
lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước
con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ.
Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà
cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con
về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu?
Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình
bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời
sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê
người, không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái
ấm ra đi.
Nhưng có lẽ mọi điều không phải như
vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông.
Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim
rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.
Những ngày lễ lớn năm nay, cô con
gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một
mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi,
cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở
về nhà.
Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân
yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải
chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có
con, thì không có cô bên cạnh.
Nhưng cũng còn may. Cách đây mười
mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già
trong nhà dưỡng lão. Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất.
Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày
ở xa!