Trên những bìa rừng biên giới cùng CAO QUANG THẢO USA
Năm 1973 anh đi lính thú ở Pleiku. Vốn không
quen ở trong trại lính, anh thuê môt căn phòng nhỏ trong một ngôi làng
của người dân tộc ở cầu 3, gần phi trường Cù Hanh. Ngôi làng lèo tèo mấy nóc
nhà bám đầy bụi đỏ, tất cả đều tạm bợ, cứ như thể khi mạng sống con người còn
chẳng ra cái gì thì chắng có gì đáng cắm sâu xuống mặt đất cả. Đêm đầu tiên ngủ
trong căn phòng này, nửa đêm anh nằm mơ thấy khoảng năm hay sáu đứa trẻ con dân
tộc trần truồng, chúng bò lê, chơi giỡn rồi cười trên thân thể an. Trưa hôm
sau, ra bờ suối sau nhà để tắm, anh thấy trong vườn chuối sau nhà có rất nhiều
ngôi mộ nhỏ, có ba cái nằm sát ngay vách phòng anh… Tắm xong vào nói
chuyện với bà chủ nhà, bà cho biết trước đây chỗ này là cái nghĩa địa của
người dân tộc, đa phần là mộ trẻ con. Anh chợt nhớ đến mấy đứa trẻ ở truồng đùa
chơi trên người anh tối hôm trước. Chúng nghĩ anh là một đụn cát chăng? Trẻ con
vốn thích nghịch cát. Mãi đến mấy chục năm sau, mỗi lúc nhớ lại cái giấc mơ
này, anh vẫn còn thấy tron vẹn cái vẻ đáng yêu của nó, cái thân tình gần
gũi của những đứa trẻ đã chết với một thằng lính xa nhà.
Sát vách phòng anh trọ là một ổ điếm. Không
khó để nhận ra tất cả các cô đều trôi dạt về đây từ những vùng quê tan nát lửa
đạn. Tất cả đều xanh xao, gầy ốm, buồn tênh. Các cô hay ngồi dựa lưng vào vách
ván như những con búp bê già. “Hãy làm lễ Phục sinh cho những cô gái giang hồ”,
câu thơ của Blaise Cendras vẫn thường hay thoáng hiện trong cái đầu khô máu của
anh dạo đó. Những ngày lính tráng lãnh lương, nơi đây kẻ vào người ra nhộn
nhịp, vui hẳn lên, cho dù thỉnh thoảng vẫn có những tiếng lằng nhằng vì tiền nong
sao đó.
Có một lần, đầu tháng lãnh lương, anh gợi ý
với Nguyễn về chuyện ngủ với gái điếm một đêm cho vui. Nguyễn nói: Thú thật với
anh, tôi cũng thích lắm nhưng do nhát nên cũng thấy ngại. Trước khi vào lính,
hắn sống trong một dòng tu, chỉ cần nhìn cái mặt nghiêm cẩn của thằng này cũng
có thể nhận ra hắn đã từng phục vụ Chúa. Dẫu sao thì cái thằng này cũng
khá hơn mấy cha nội khác, chẳng bao giờ dám thú nhận là mình nhát, lúc nào cũng
“Chúa giữ mình để khỏi sa vào sự cám dỗ”. Cuối cùng thì hắn cũng vượt qua qua
được cái nhát bẩm sinh, quên Chúa một đêm để tìm đến một thiên đường khác. Cho
dù, có thể đây là một thứ thiên đường lầy lội nhưng không tệ một chút nào. Từ
lâu rồi, anh đã nghiêm ra rằng, những tay tu xuất khi đã vượt qua được những
nỗi nhát sợ thì lại hăng máu khó ai bằng, một thứ dồn nén bị xì hơi, một đập
nước tràn bờ.
Có một lần, trong lúc hứng chí sao đó hắn
nói: “Nếu những thằng lính thú ở Pleiku phải làm một buổi lễ Tạ ơn, tụi nó phải
Tạ ơn những cô gái giang hồ. Cái cuộc sống chó chết ở nơi này sẽ ra sao
nếu không có những nàng tiên đó. Rồi hắn nghêu ngao hát một đoạn trong
bài “Còn Một Chút Gì Để Nhớ”: “Anh khách lạ đi lên đi xuống/ May mà có em/ Đời
còn dể thương… Mai xa tít trên đồn biên giới/ Còn một chút gì để
nhớ để thương”. Nghe ra cũng có lý. Cái thành phố nhỏ nắng bụi mưa bùn
này, cái hơi thở cho nó như thể được tạo nên bởi những người lính cùng những cô
gái giang hồ. Họ tìm đến nhau như tìm đến cái hơi ấm cuối cùng cón có hơi hám
nhân loại, ở một nơi mà sự sống với cái chết chỉ cách nhau một bước, sự mong
manh của sinh mạng con người thì đếm từng giờ.
Gần một năm sau Nguyễn chết ở một tiền đồn
gần Tu-mơ-rong. Mùa mưa năm đó mưa trắng trời. Phải mấy ngày sau trực
thăng mới bốc xác nó về để ở nhà quàn gần Quân y viện Pleiku. Trừ quần áo bê
bết bùn đất, mặt mày tái ngắt vì lạnh, khuôn mặt lúc chết của hắn trông
thật thanh thản, không hề oán thán, hân thù. Sự thanh thản không dễ gì nhìn ra
trên khuôn mặt con người lúc sống thì lại rất dễ nhìn ra sau khi chết. Chẳng
biết Chúa có dành cho thằng này một chỗ nằm nào trên thiên quốc của người
không, còn quê hương thì đã dành cho nó chỗ nằm gần một khóm dừa, cạnh một khúc
sông có bốn mùa mưa nắng ở miền Tây.
Cũng như cái ổ điếm sát vách phòng anh ở chỉ
tấp nập nhộn nhịp vào ngày lính lãnh lương, căn phòng anh trọ cũng chỉ có một
chút hơi hám sự sống lúc những thằng bạn Nhảy toán từ biên giới trở về. Tụi này
được huấn luyện khá đặc biệt. Mỗi tháng ba hay bốn lần gì đó, được trực thăng
thả xuống dọc đường mòn Hồ Chí Minh để theo dõi sự chuyển quân của bộ đội Bắc
Việt. Anh làm việc suốt ngày với tụi này bằng điện đàm, gởi đến chúng những chỉ
thị của quân khu, nhận tin của chúng gởi về rồi tổng hợp, phân tích, đánh giá,
để phòng hành quân lên một kế hoạch nào đó.
Chẳng có cái thứ lính nào chóng chết cho bằng
mấy thằng Nhảy toán. Mỗi lúc còn về được Pleiku là chúng sống vội sống vàng như
thể muốn vắt cho đến giọt sống cuối cùng, sợ ngày mai không còn kịp nữa. Mỗi
lúc chúng về là ngày hôm sau chúng rước về những cô gái chẳng biết nhặt được ở đâu.
Các cô tự nhận mình ở trong nhóm “Tình Cho Không Biếu Không”, cô nào cũng đeo
trên cổ một chiếc Thánh Gíá. Mỗi lúc làm tình thì các cô tháo sợi dây có Thánh
Gíá ra để trên mặt bàn. Mãi sau này anh mới biết các cô ở một xóm đạo dưới Tuy
Hòa trôi giạt về đây. Cuộc chiến dạo đó khiến tất cả đều trôi giạt như những
cọng lục bình, dễ khiến anh có cảm tưởng đây là những món quà mà Chúa gởi tặng
mấy thằng lính sống nay, chết mai. Trước giờ lâm tử, Amen. Chắc là Chúa cũng
lấy làm hài lòng với sự tận hiến của bầy chiên lạc này. Đó là những ngày lục
đục nấu ăn, ca hát, lục đục làm tình thâu đêm suốt sáng.
Từ hồi nào đến giờ, buồn với chán theo anh
như một người bạn thiết. Anh cám ơn định mệnh đã gởi đến anh hai thằng bạn đời
này. Nó thường xuyên gợi ý một cách kín đáo là trước mặt vẫn còn những chân
trời rộng mà anh có thể tự do cào bới để làm đầy cuộc sống của anh theo cách
này cách nọ. Những bữa tiệc trần gian mà thỉnh thoảng mấy tay Nhảy toán đãi anh
có cơ may thắp sáng cái vực thẳm chập chờn ngày đêm trước mặt.
Mùa hè năm đó, đại đội Trinh Sát của Quân khu
2 phải về Tuy Hòa để bảo vệ một cuộc bầu cử gì đó. Trời tối mà vẫn chưa tới nơi
nên phải căng lều bên một bãi biển, ngủ đỡ một đêm rồi sáng mai đi tiếp. Chỗ
đóng quân gần sát môt cô nhi viện. Gần như tất cả những đứa trẻ sống nơi đây
đều đến từ những làng quê mà đạn bom đã xóa sổ. Buổi tối hôm đó, ngôi trên bãi
khuya, nghe lũ nhỏ đọc kinh giọng ê a, buồn ngủ. Lẫn trong tiếng kinh cầu là
tiếng lao xao của những con sóng dập vỗ vào bờ xa, dễ khiến anh có cảm tưởng đó
là những hồi kinh siêu độ cho những tuổi thơ mất đường chân trời giữa lòng một
quê hương chết nắng.
Đã không biết bao lần, xuôi ngược giữa dòng
đời, giữa một buổi trưa cao nguyên, anh bỗng nghe ra tiếng kêu thầm của những
ngấn tích đã trôi xa từ những dư âm đã chìm lắng của những năm tháng đã trôi
giạt về trời. Thế rồi một hôm, anh quyết định làm một chuyến hành hương về lại
một nơi anh đã từng sống những năm tháng buồn như nắng, trên chuyến đi
dài dọc từ Pleiku lên Biển Hồ.
Chư Pao, Kontum, Dak Tô, Tân Cảnh… Những nơi
anh từng làm việc, từng ghé đến, từng đi qua, đã có những người bạn sống và
chết ở những nơi đó, đủ để anh nhận ra dấu vết của cuộc chiến dạo đó đã bị xóa
sạch. Chỉ có cái chết của mấy người bạn dạo đó là vẫn còn tươi máu trong cái đầu
của anh. Anh nhận ra điều này từ nỗi vắng im của trời đất. Sự ra đi nào cũng để
lại một nỗi vắng im giữa đất trời, cả nỗi vắng im trong cái đầu anh nữa.
Buổi chiều hôm đó, đang đi lơ ngơ trước Nhà
thờ Gỗ trên Kontum, thấy hai cô gái, cho dù da họ rất trắng, anh vẫn đoán cả
hai là người dân tộc. Anh hỏi cả hai có phải là người dân tộc hay không, một
đứa nói: Dạ, tụi con là người dân tộc Ba Na, quê tụi con ở gần Tu-mơ-rông, tụi
con về dưới này học Trung Cấp Sư Phạm. Anh hỏi cuộc sống trên đó lúc này ra sao,
cả hai đều nói cực lắm chú ơi. Chỉ cần nghe đến địa danh này, anh chợt nhớ
Nguyễn. Anh nói với hai đứa là trước 1975 anh từng qua lại chốn này, có một
người bạn chết ở trên đó trước năm 1975. Cả hai đều nói lúc đó tụi con chưa
sinh ra. Rồi chúng hỏi anh từ đâu đến. Tôi từ Đà Lạt đến và muốn đãi hai đứa
một chầu vì hai đứa làm tôi nhớ lung tung. Mấy đứa thích ăn món gì nào? Tụi con
thích ăn bánh xèo. Vậy thì đi tìm một cái quán nào gần đây đi mấy con.
Ngồi trong quán, nhẩm tính lại, anh nhận ra
rằng cuộc chiến tranh dạo đó đã nuốt gần hết những người bạn của anh vào bụng
nó. Mọi thứ vừa đủ đề anh hiểu tại sao cho mãi đến hôm nay, anh vẫn chỉ là một
kẻ lơ ngơ giữa trăm miền xuôi ngược.
Dalat- Kontum 11/ 2015