Một buổi sáng, mặt trời lên rực rỡ, tốp quản
giáo hôm nay nai nịt gọn gàng. Họ vào từng nhà. Quản giáo kêu nhà trưởng Hoàng
ra chỉ thị:
- Anh cho tập hợp anh em lên hội trường học tập.
Mọi người đang chuẩn bị đi lao động như mọi ngày. Nghe tin đi học tập, có người
nhảy cởn lên la to:
- Rồi, đến rồi, phải thế chứ. Học tập xong chuyến này là về, anh em tin tôi đi.
Lời nói đó của Lập, một tân thiếu uý, anh còn nắm chức vụ trung đội trưởng một
trung đội bộ binh. Lập hay lạc quan «tếu», hay loan những tin tức thuận lợi cho
ngày về. Trong đầu óc Lập non choẹt về sự phán đoán. Lập thường nhìn sự việc
bằng hiện tượng hơn là bản chất.
Lập nói tiếp:
Có một số người muốn đáp lại lời Lập, nhưng lại bận lo chuẩn bị mặc áo quần đi
học tập nên họ im. Soại cũng vui trong lòng. Biết đâu đấy! Quan trọng nhất
trong việc tập trung là học tập. Học tập là tẩy não, là xóa đi cái nhìn cũ
trong đầu và tiếp thu lấy cái mới, cái cách mạng, cái giải phóng dân tộc, cái
tự do, độc lập và hạnh phúc. Mà nay đã đến ngày đó. Chắc là ngày về cũng gần kề
thôi.
Trong lúc bận áo quần, Soại hỏi Niệm:
- Bạn nghĩ thế nào, sau đợt học tập này?
Niệm cũng đang mặc áo. Cái áo bao cát anh vừa thực hiện. Cái áo khô, cong lên,
trông nực nội, nóng bức. Nhưng Niệm đã rách hết áo quần. Từ Quy Nhơn chạy vô
Sài Gòn anh đem theo mấy bộ đồ, rồi gói đi «học tập» luôn. Gần một tháng lao
động ngoài trời, mồ hôi mồ kê đổ ra như tắm, làm áo quần mục đi.
Niệm nói:
- Bây giờ mình theo chủ nghĩa hoài nghi. Bắt đầu tin lời ông Thiệu nói. Để coi
thử sao?
Soại lắng đi cái tin tưởng, cái háo hức vừa mới bùng lên trong đầu.
Hoàng nhà trưởng. Dương B trưởng, hối hả, hấp tấp, vừa chạy đầu này, chạy đầu
kia, hối thúc anh em nhanh lên, nhanh lên. Mười phút sau, cả đội chuẩn bị xong,
tập họp ở trước sân nhà.
Người quản giáo đứng trước anh em, lên tiếng:
- Hôm nay bắt đầu cho đợt học tập chính trị, các anh sẽ đến hội trường tham dự
học tập. Các anh phải nghiêm túc tiếp thu những cái mới. Có được sớm trở về
đoàn tụ với gia đình hay không là do các anh. Tôi thấy các anh vẫn còn lề mề,
lao động thì chây lười. Tôi dặn các anh, đến hội trường dự học tập các anh phải
nghiêm túc, không được nói chuyện ồn ào, trò chuyện riêng, các anh quán triệt
hết chưa?
Mọi người đồng thanh, nghe rõ. Tất cả đi theo quản giáo.
Dương bước ra khỏi hàng, anh hô, một, hai, ba, bốn như đi diễn hành, cho toán
đi đều hàng, như những ngày còn học ở quân trường. Trong đầu óc Dương lúc nào
cũng đầy đặc óc chỉ huy, toán đi phải có «khí thế».
Dương lên tiếng :
- Anh em đi đều bước nhé, tôi hô các anh em đi theo lệnh tôi, một, hai, ba,
bốn, một, hai, ba, bốn, một, hai, bước đều, bước.
Trong toán, anh em đang đi tự do, nghe tiếng
hô của Dương tự nhiên chập choạng. Có tiếng xì xào:
- Đi tự do đi, đều bước cái con mẹ gì. Đi tù
mà cứ như đi diễn hành vậy. Đụ mẹ!
Rồi nhiều tiếng chữi thề tiếp theo cất lên
sau đó. Ngô Hoàng vội chạy tới hỏi ý quản giáo, quản giáo vừa nói vừa chỉ tay.
Ngô Hoàng chạy về trước hàng quân, nói lớn :
- Thôi anh em cứ đi tự do, bước đều nhau là
được rồi.
Dương quê cơ. Anh im lặng bước đi. Ai cũng
biết giữa Ngô Hoàng và Dương có hiềm khích nhau. Dương chỉ là B trưởng, tức là
dưới quyền Hoàng, thế mà Dương có nhiều lúc lấn lướt, gặp quản giáo là Dương
lăn xăn báo cáo, làm ra vẻ tích cực lắm. Anh thường có ý kiến, có nhận xét, đề
nghị về cách sinh hoạt của anh em trong đội. Quản giáo nhiều lúc cũng tin lời
Dương. Ngô Hoàng đâm ra cay cú.
Tất cả anh em toàn trại được tập trung vào
hội trường. Hội trường là một căn nhà rộng, lợp bằng tranh do anh em tập trung
bên lán trại B thực hiện. Anh em vô rừng, rừng Tây Ninh đầy đặc tranh và cây
gỗ. Anh em đốn gỗ, cắt tranh, cả mấy đội làm việc hàng tháng mới dựng nên hội
trường này. Mùi tranh mới, còn nồng.
Hội trường được trang trí sơ sài, nhưng đầy
đủ ý nghĩa. Một tấm màn đỏ kéo ngang qua làm cái nền. Màu đỏ mới trông vào ai
cũng rờn rợn. Bức tượng bán thân của ông HCM bằng thạch cao màu trắng để một
bên. Một bên là khẩu hiệu «Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do».
Anh em từng đội được dẫn vào ngồi dưới đất
theo thứ tự. Các quản giáo chạy đi chạy lại. Vệ binh mang súng đứng bên ngoài
lố nhố. Cũng ba mươi phút sau mới bắt đầu.
Một người bộ đội mang quân hàm Thiếu tá, lên
đứng trên bục gỗ. Ông tự xưng là người của Ủy Ban Quân Quản thành phố, lên nói
về chiến thắng vẻ vang của cách mạng và tội ác của ngụy quân, ngụy quyền đối
với nhân dân. Ông nói tràng giang đại hải, dùng những từ rất mới, nên Soại nghe
qua lạ tai. Ngày trước, có đôi lần Soại nghe lén đài phát thanh Hà Nội hay đài
Giải Phóng Miền Nam, anh có nghe những từ này, nhưng nghe qua rồi bỏ. Hình như
cái lén lút hay kích thích con người. Bây giờ nghe người thiếu tá giảng viên
nói, anh lại thấy khó chịu, nhưng anh phải ngồi im. Nếu như đây là một giảng
đường đại học, anh đã bỏ về.
Anh em có nhiều tiếng xì xào nho nhỏ, hình
như ai cũng có cảm giác tương tự như Soại. Nhất là khi người giảng viên nói qua
tội ác Mỹ Ngụy. Soại thấy mình như bị va chạm một điều gì đó thuộc về nhân
phẩm. Tội Ác? Thật sự trong chiến tranh, chuyện bắn giết nhau để giành lấy
chiến thắng, bên này hay bên kia. Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ là chính nghĩa, nhưng
đó cũng chỉ là những nhân danh. Bây giờ thì lý là ở kẻ mạnh, là ở phe của những
người chiến thắng.
Cuối cùng, sau khi nghỉ giải lao mười lăm
phút, người giảng viên tiếp tục nói đến Bản Tự Khai Lý Lịch. Cũng là chuyện
bình thường mà cả đội đã làm nhiều lần, có người khai xong, bị trả về làm lại.
Người giảng viên nói:
- Bây giờ muốn cân đo sự thành thật của các
anh, các anh sẽ làm tiếp Bản Tự Khai. Lần trước các anh đã làm nhiều rồi nhưng
chưa đạt. Cách mạng biết rõ hết về quá trình hoạt động của các anh nhưng muốn
thử các anh thành thật đến mức độ nào, nên lần này, Bản Tự Khai các anh phải
khai rõ ràng từng giai đoạn hoạt động của mình, như chức vụ, quân hàm, công
tác…
Ông còn nói thêm nhiều nữa nhưng Soại cảm
thấy mệt quá, sức nóng của hơi người đông đảo làm anh muốn ngạt thở. Anh thấy
sức khoẻ của mình sa sút hẳn, nhất là đôi chân. Đôi chân sưng húp, đó là kết
quả của bệnh phù thủng. Anh thấy tê cả phần dưới, những lúc đi lao động đôi
chân hoạt động còn đỡ nhức nhối hơn là ngồi nghe như thế này. Mấy người bạn
ngồi bên anh, nói nhỏ:
- Nữa rồi, lý lịch, lý lịch hoài. Ghi một mẫu
để nhớ rồi cứ theo đó mà viết ra. Cách mạng dùng chữ trước sau như một mình
cũng chơi chữ trước sau như một. Đụ mẹ, ly lịch ba đời cứ khai hoài, ông bà cha
mẹ chết rồi cũng nằm không yên chỗ.
Người bạn kế bên hích tay người đang nói, anh
nháy mắt về phía Dương, Dương đang ngồi nghe một cách chăm chú.
Theo chương trình, suốt buổi chiều và buổi
tối, anh em được chia từng tổ, ngồi học tập, thảo luận, triển khai bài giảng
của giáo viên đứng lớp, rồi phát biểu ý kiến của mình. Vì là buổi học tập đầu
tiên nên bắt buộc ai cũng có ý kiến. Dĩ nhiên là chia phiên nhau. Ý kiến anh em
chung chung. Chỉ có Dương là gay gắt. Anh kết án quân đội cũ tham nhũng, hối
lộ, quân phiệt. Anh em ngồi nghe, có người che miệng ngáp.
Theo thời khóa biểu, suốt một tuần, từ thứ
hai đến thứ sáu, buổi sáng lên lớp nghe giảng bài, buổi chiều về phòng họp từng
toán thảo luận, đến chiều thứ sáu là thu hoạch. Mỗi người được phát một cây bút
lá tre và một bình mực, như những lần khai lý lịch trước.
Đến ngày thứ hai thì các buổi học tập trở nên
sôi động. Đám cải tạo tuy lặng lẽ nhưng vẫn nghe và hiểu những điều đang tiếp
thu. Buổi chiều trời nóng oi nồng. Không có một chút gió nào. Không gian như
khô lại. Đám cải tạo ngồi dưới nền xi măng. Nhà trưởng Ngô Hoàng điều hành buổi
thảo luận. B trưởng Dương làm thư ký. Khuôn mặt ai nấy đều căng ra, không biết
có phải vì bịnh phù thủng hay vì đề tài nóng bỏng.
Đề tài «Từ Chủ Nghĩa Thực Dân Cũ đến Chủ
Nghĩa Thực Dân Mới». Trên Hội trường, giáo viên giảng huấn đã giảng rằng:
"Bắt đầu chủ nghĩa thực dân là các đế
quốc châu Âu như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, muốn tìm thị trường buôn
bán nên đem quân đến các nước Á Châu, trong đó có Việt Nam, Lào, Campuchia,
Thái Lan và Trung Quốc, đi kèm theo mũi súng của quân đội viễn chinh đế quốc là
các ông cố đạo truyền bá đạo Chúa. Vì bản chất của người Á Đông là theo Phật
hay đạo Khổng, các ông cố đạo nhân danh Chúa, đã làm công cụ cho lực lượng đế
quốc. Vua Gia Long đã cỏng rắn cắn gà nhà, cho Pháp đến Việt Nam xuyên qua các
ông cố đạo như giám mục Bá Đa Lộc."
Đề tài nóng vì đụng chạm đến tôn giáo. Anh em
ngồi xếp bằng. Ai cũng muốn nói lên suy nghĩ của mình. Có người đồng tình, có
người không. Tuy nhiên, anh em ai cũng biết, đây là buổi học tập chính trị của
cộng sản nên những suy nghĩ của mình không thể phát biểu ở đây. Tốt hơn là ngồi
nghe hơn là nói.
Ngày cuối cùng trong đợt học tập là thu
hoạch. Như người trồng lúa đến ngày gặt lúa. Như người trồng khoai trồng đậu
đến ngày thu hoạch thì đem cuốc ra đào khoai, hái đậu đem về nhà. Nay thì một
tuần học tập là một tuần gieo giống, cày xới thảo luận, rồi đến cuối tuần
thì thu hoạch kèm theo là làm Bản Tự Khai quá trình hoạt động của bản thân, để
xem qua việc học tập của anh em tiến bộ đến đâu?
Soại cũng chăm chú luay hoay viết bài thu
hoạch, anh viết như bài đã học, nào chế độ cũ là ngụy quyền không đại diện cho
ai, quân đội cũ là ngụy quân, phục vụ cho ngụy quyền. Tướng tá thì tham những,
hối lộ và quân phiệt, phần đông là xuất thân từ quân đội Pháp, phục vụ cho thực
dân Pháp, là kẻ thù của dân tộc, đã chiếm và cai trị Việt Nam hàng trăm năm.
Anh viết một mạch theo dòng suy nghĩ tuôn
tràn. Có những lúc cảm hứng anh viết văn hoa bóng bảy thêm lên như là viết một
truyện ngắn, nhưng nó cũng rỗng tuếch chẳng đâu vào đâu. Đến lúc viết bản tự
khai, anh khai ở đơn vị không tác chiến, làm việc ở văn phòng, không dính dáng
đến chiến tranh chính trị, an ninh hay tình báo. Anh ghi chú ngày giờ và từng
đơn vị anh phục vụ trong một tờ giấy nhỏ, anh biết sẽ còn khai lý lịch dài dài
nên phải viết làm sao cho trùng khớp, trước sau như một.
Buổi tối nằm một mình, anh hơi ân hận những
điều mình đã khai. Anh đã dấu đi quân trường Mẹ, nơi anh xuất thân. Anh đã ở đó
trên hai năm, đã luyện tập để trở thành người sĩ quan hiện dịch, với bao nhiêu
cực khổ cam go, anh đã hãnh diện cùng bạn bè đồng khóa khi quỳ xuống ở Vũ đình
trường trong ngày xuống núi. Nhưng anh nghĩ lại, trong chiến tranh, trong tác
chiến, có những lần hành quân bắt được tù binh, hàng binh địch, họ đã vứt bỏ
cấp bậc, chức vụ, để không ai chú ý, để lẫn trốn. Trong chiến tranh, chuyện gì,
việc gì, cũng trở nên bình thường.
Những ngày mới ra trường với biết bao hoài
bão, bao nhiêu lý tưởng đầy ắp trong lòng, mình sẽ làm một điều gì đó theo như
những lý thuyết đã học. «Đem Đại Nghĩa để thắng hung tàn, lấy Chí Nhân mà thay
cường bạo». Soại ra trình diện đơn vị với hai người bạn đồng khóa. Từ sư đoàn
chuyển về trung đoàn. Tư lệnh sư đoàn lúc đó là tướng công, gương mặt ông bạnh
ra như là một con heo nọc, lúc này tướng công đang bị báo chí đánh tơi bời vì
tội đã hiếp dâm một em bé. Trung đoàn trưởng là đại tá Nghìn, tốt nghiệp trường
Võ Bị. Ông lúc nào cũng nghiêm nghị, mặt không bao giờ có một nụ cười. Ông leo
lên từ cấp thiếu úy lên đến đại tá. Đã giữ nhiều chức vụ chỉ huy từ trung đội
trưởng trở lên. Con người như vậy cứ ngỡ là rất lý tưởng cho một sĩ quan hiện
dịch. Nhưng khi có trong tay quyền hạn lớn, ông trở nên ăn chơi, quân phiệt và
tham nhũng. Khi về trình diện trung đoàn, tất cả 4 tân thiếu úy cùng khóa vào
trình diện ông. Ông ngồi phía trong một cái bàn dài, rộng. Sau khi mỗi người
trình diện ông xong, ông chỉ nói một câu: «Các anh biết là đơn vị bộ binh chẳng
có gì cần phải là công tác chiến tranh chính trị cả. Các anh về làm đại đội phó
ở đơn vị tác chiến dưới đại đội lẻ.»
Chào ông trung đoàn trưởng đi ra, lòng Soại
nghe một nổi buồn từ đâu ụp đến, không phải anh sợ hành quân gian khổ, nhưng
anh thấy như lý tưởng của mình như là một ảo vọng.
Và tháng ngày sau đó là lội suối trèo đèo, ăn
ngủ trong rừng từ tháng này qua tháng khác. Khi lên hành quân chưa đây hai
ngày, Soại nghe tin người bạn cùng khóa, thằng Bút chết. Một năm rưởi sau,
thằng Dân chết. Soại bỏ ngành anh đã học để làm người lính tác chiến thật sự.
Thời gian đã biến đổi anh và đã dạy cho anh một bài học thực tế, ở ngoài đơn vị
tác chiến, người sĩ quan phải có quyền, phải nắm chức vụ trưởng. Nếu không, chỉ
là người vô dụng. Phần đông, những sĩ quan leo lên chức đại đội trưởng là đã
quân phiệt, chữi thề, đánh lính, ăn lương khô hành quân của lính, lính ma, lính
kiểng. Anh không còn con đường nào khác là phải bỏ ngành để lên làm cấp trưởng.
Anh thương những thằng bạn cùng khổ với anh,
thương những người lính dưới quyền mà cái chết của họ được đếm trong từng tíc
tắc. Mới cười nói đó, mới ước mơ đó, mới kể chuyện tiếu lâm đó, mà nghe một cái
ầm, tiếng nổ từ một quả mìn của địch gài, sẽ tung lên những thân xác người
lính. Họ chết trong ngắt ngứ, không toàn thây. Sau tiếng nổ, những người lính
còn sống sót sẽ đi nhặt nhạnh ở chung quanh, đâu đó một cánh tay, một cái chân
hay một cái đầu bê bết máu. Cái chết không trối trăn, không dặn dò.
Soại chỉ còn lại niềm tin ở những người đồng
đội cùng anh trong chốn tử sinh. Cuối năm đó anh nghe tin trung uý Tín chết khi
đang hành quân ở mặt trận Quế Sơn. Tín là khóa đàn anh của Soại. Tìn đã về làm
việc ở Bộ chỉ huy trung đoàn một thời gian, nhưng sau lại bị đại tá Nghìn đổi
ra đơn vị tác chiến vì không chung đủ số vàng cho ông. Soại nghe tin mà hụt
hẩng cả người.
Bây giờ anh là người bại trận. Anh sẽ khai gì
đây. Hồ hởi phấn khởi trước sự thắng lợi của phía bên kia? Như những người đục nước
thả câu trong những ngày sau ba mươi tháng tư bảy lăm, đeo băng đỏ, bận đồ bà
ba đen, đi trên những chiếc xe jeep căng đầy biểu ngữ hô hào chiến thắng, kết
tội kẻ thua. Anh không có cái lòng ấy. Dù gì anh đã lớn lên, hít thở không khí
ở miền Nam, đã chịu sự giáo dục dưới những mái trường thân yêu, anh không thể
đành lòng lên án một chế độ đã qua. Con người, chỉ có con người là có lỗi.
Những nhân vật, những con người, khi quyền hành quá lớn đã làm họ đi chệch
đường vì tham vọng. Sự đào thải sẽ cuốn họ trôi đi như những giòng nước bẩn, sẽ
trôi đi ra biển, để lại cho dòng sông sự im lặng, lóng trong.
Nhưng Soại vẫn nghe lòng mình không yên ổn.
Xã hội lúc nào cũng có sự lẫn lộn giữa người và người, giữa tốt và xấu. Ai cũng
mặc lên mình chiếc áo gấm trang trọng. Làm sao phân biệt được ai. Như Dương,
như Hoàng. Mới một tháng trước đây còn đứng trước hàng quân oai phong lẫm liệt,
mà nay đã quay mặt lại chữi quân đội thậm tệ, không còn danh từ nào tệ hơn.
***
Đảng phái: Không.
Trước đây, Soại không tham gia đảng phái nào cả. Kể cả đảng Dân Chủ của ông
Thiệu một thời bành trướng đến tận cùng thôn ấp, lấy lực lượng chính quyền và
hệ thống giáo dục làm nòng cốt. Tổ chức, ra mắt rầm rộ, cùng khắp. Nhiều sĩ
quan, bạn bè anh đã tham gia, nhưng anh từ chối. Anh thấy đây là một đảng cầm
quyền chẳng ra ngô khoai gì cả. Với lại, lúc đó anh đang hành quân suốt năm,
suốt tháng, còn thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện «chính chị, chính em».
Nhưng anh cũng loay hoay suy nghĩ đến Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hình như ở quê
anh, những gia đình khá giả, tiểu tư sản, đều gia nhập đảng này. Khi anh còn bé
dại, anh đã nghe nói đến những người trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã làm nên
những kỳ tích anh hùng. Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Ký Con, Nhượng
Tống…Anh mê những hình hình ảnh lãng mạn cách mạng của họ, những con người mà
thể hiện là nhân vật Dũng trong truyện Đôi Bạn và Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Và
cả Nhất Linh nữa, anh cũng mê sự nghiệp văn chương của ông, và cả sự nghiệp
hoạt động cách mạng của ông nữa.
Soại lớn lên trong một gia đình phú nông, cha anh là một thầy dạy học miền quê.
Cha anh là hình ảnh những ông đồ nho còn sót lại của thời phong kiến qua thời
đệ nhất cộng hòa. Cha anh để lại cho anh hình ảnh một con người của giai cấp
trung lưu, yêu nước thụ động và chỉ có những ý nghĩ lãng mạn trong đời sống
thường nhật.
Anh lại nghe lòng mình rộn lên những cảm xúc dạt dào của những ngày mới lớn.
Việt Nam Quốc Dân đảng lập chiến khu Nam Ngãi chống chế độ Ngô Đình Diệm. Đó là
hình ảnh thuở thiếu thời của Soại. Anh bảy Phát, anh tám Cẩn, anh Phước đã
thoát ly lên rừng núi của ba xã Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà, lập chiến khu
kháng chiến, gọi là chiến khu Sơn-Cẩm-Hà.
Ôi! Chiến khu, chiến khu.
«Lãng mạn cách mạng» quá đi mất thôi. Như chiến khu Ba Lòng của Đại Việt, và
trước đó, chiến khu Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật, chiến khu Ba Đình của Đinh
Công Tráng.
Sau đó, Việt Nam Quốc Dân Đảng đầu hàng chính quyền Ngô Đình Diệm và bị khủng
bố đến tận cùng. Chỉ có một số ra làm việc cho chính quyền mới, còn lại, tất cả
đều ở trong thế đối lập. Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn còn ẩn chứa trong anh những
hình ảnh tuyệt vời.
Soại lại nghĩ đến phong trào học sinh sinh viên tranh đấu ngày anh còn học
trung học. Đó là những ngày sau cách mạng 1.11.1963. Chính quyền Ngô Đình Diệm
sụp đổ kéo theo những khủng hoảng chính trị ở chính trường miền Nam. Phong trào
Phật giáo tranh đấu, biểu tình, bãi khóa liên miên. Các bạn anh đã khoác lên
mình bộ áo tranh đấu. Nào Trà, nào Chiến, nào Nhẫn, nào Tuyết. Những thằng bạn
hiền hậu ngồi trong lớp chăm chú học hành và học giỏi, mà giờ đây đã đứng trên
những chiếc xe, giữa chợ đông người đăng đàn diễn thuyết. Họ giăng biểu ngữ, hô
hào biểu tình, họ phát biểu kêu gọi. Đoàn biểu tình đông đảo, tiếng gào thét
vang rân trời. Tất cả đã đem nhiệt huyết tuổi trẻ của mình ra để đấu tranh, cho
dân chủ, tự do, chống độc tài, quân phiệt. Nhưng họ không ngờ là họ bị giựt
dây. Tuyết và Chiến, trên một chuyến xe đò đi từ Tam Kỳ ra Đà Nẵng đã bị nghĩa
quân bắt đem đi thủ tiêu. Những bạn còn lại bỏ trường bỏ lớp mà đi. Nhẫn bị bắt
lên ty Cảnh Sát, nằm trong trại giam gần mấy tháng trời, ghẻ lở đầy mình, sau
nhờ có người thân làm việc cho chính quyền bảo lãnh Nhẫn mới được thả ra.
Đó là một thời của tuổi thanh xuân, những người thanh niên đã trải lòng minh ra
để làm một cái gì đó, nhưng tất cả đã bị điều hành, chỉ huy, lèo lái của những
thế lực. Nên khi biết ra mình bị lợi dụng thì Trà phải bỏ trường mà đi, Nhẫn ra
tù cũng tấp vô Sài Gòn, những đứa khác vào quân đội. Quân đội là chỗ an toàn
nhất để trú thân, tránh sự trả đủa của chính quyền đương thời. Một thời buổi
nhiểu nhương nhưng đầy hào khí. Đó là cái «lãng mạn cách mạng», bầu nhiệt huyết
của tuổi trẻ.
Chiến tranh lan rộng, mọi thanh niên đều phải thủ một thế đứng, bên này hay bên
kia. Nguyễn Thanh Vân, Trình Nhữ, Trình Anh, Nguyễn Văn Tường, Trần Ngọc Thản
«nhảy núi». Một số ít tiếp tục lên đại học, còn thì vào lính. Bên nào cũng cần
những tay súng nã đạn vào quân thù. Bắn chậm thì chết. Miền Bắc ào ạt tuyển
quân, miền Nam ra lệnh Tổng Động Viên trên toàn quốc. Những thiếu niên mới lớn
bị xúc vào quân trường rồi thảy ra chiến trận. Miền Bắc thì đi B. Đường Trường
Sơn, lũ lượt hàng trăm ngàn binh lính bộ đội miền Bắc tràn vào miền Nam.
Soại tình nguyện vào quân đội trong lúc anh đang đi dạy học. Thật ra thì không
còn con đường nào khác. Dạy học rồi cũng bị động viên vào Thủ Đức, học sáu
tháng ra chuẩn úy với cái quai chảo trên cầu vai. Làm trung đội trưởng với mấy
chục người lính tiền tiêu, dễ chết như chơi. Thời buổi chiến tranh chuyện chết
chóc là chuyện thường ngày. Soại quyết định thi vào trường hiện dịch. Anh sẽ
học ở đó hai năm, biết đâu khi ra trường tình hình sẽ đổi khác, biết đâu gió sẽ
xoay chiều.
Nhưng có phải anh tình nguyện đi sĩ
quan hiện dịch vì lý do đó thôi sao? Hay vì Nại Hiên. Mối tình của Nại Hiên đã
làm anh choáng váng. Cùng học chung một trường trung học. Nại Hiên như một hình
bóng rất xa ngoài tầm tay. Nại Hiên áo dài trắng học trò, Nại Hiên hát hay, múa
giỏi. Nại Hiên làm bàng hoàng trong anh nổi khắc khoải không rời. Nhưng có phải
vì thế thôi sao? Nại Hiên có một người đàn ông theo đuổi, đó là một người xuất
thân từ trường Võ Bị. Có phải sự tranh hơn của anh, muốn cho mình cũng được làm
người hùng trong tim Nại Hiên nên anh tình nguyện thi vào trường hiện dịch? Để
anh có những chiều thứ bảy, chủ nhật, bát phố cùng em trong những bộ đồ dạo phố
mùa đông, mùa hè? Hay thành phố sương mù Đà Lạt đã quyến rủ anh trong những
mộng tưởng xa vời? Thành phố sương mù. Thành phố núi. Hoàng triều cương thổ.
Tất cả những lý do đó đã đưa anh đến Đà Lạt. Còn tình yêu Tổ Quốc, Lý Tưởng?
chỉ lờ mờ, mơ hồ trong tâm tưởng anh như một sợi chỉ mong manh, xuyên suốt, ẩn
sâu trong huyết quản, trong tâm thức. Chỉ bùng lên như lúc này đây, trong trại
tập trung, anh mới thấy mình có một thời quá nông cạn trong suy nghĩ, trong
đánh giá kẻ thù. Còn kẻ thù thì lọc lừa, hung bạo bao nhiêu?
Đêm vẫn lặng lẽ trôi qua một cách mệt nhọc. Khu Trảng Lớn rộng chứa đầy mấy
ngàn người tập trung cải tạo. Đêm im ắng và buồn tẻ. Soại vẫn thao thức trong
cơn đau nhừ của tinh thần. Anh cố gắng ngủ mà đôi mắt vẫn mở toang. Nhớ về vợ
và các con thật xa vời vợi, như đã là ngàn trùng xa cách.
Trần Yên Hòa