Mỗi sáng, tôi vẫn có mặt dưới đường hầm khoảng 7.30. Tứ thời bát tiết đều
vậy, nếu có sai biệt năm bảy phút là lỗi của chuyến buýt mang tôi tới đó, chứ
người ngợm tôi đã như con robot chạy đúng lập trình. Battery chưa hỏng hóc yếu
kém và hình như vi trùng chưa đến hồi thâm nhập làm rối loạn những mạch điện
trở.
Trạm đợi trong đường hầm metro khá dài, có thể muốn làm vui mắt, người ta đã
kiếm cách treo dọc những tấm poster quảng cáo đủ mọi thứ có thắp đèn đằng sau
và tôi luôn đứng chôn chân đối diện với một cô gái mặc áo tắm hai mảnh. Da dẻ
rám nắng, cơ thể săn chắc với hậu cảnh là một bãi biển xanh tiệp màu trời. Cuba
hay Mexico thì chẳng rõ nhưng chắc hẳn chốn ấy không có tuyết rơi như chốn này.
Nóng toát mồ hôi chứ chẳng cảm mạo ho hen run từ trong xương run ra. Năm bảy
lớp áo xống đùm đụp mà ngó qua một kẻ điện nước đầy đủ thiếu đường lột truồng
đang trửng giỡn với biển mặn nhằm quảng cáo cho công ty du lịch đường hàng
không thì ngẫm cũng oái ăm, nhỉ!
Cũng chỗ này đứng trông sang, cảnh quang bên nọ non tháng là đổi thay. Trước,
tôi dòm ra một dãy condo đường bệ tân kỳ, bán hoặc cho thuê. Thoáng cái, tấm
bích chương quảng cáo phim “Ngày Tận Thế” 3D rùng rợn trám chỗ. Nhàm con mắt
tình này huống nọ mãi thao diễn thì giờ đây là đóng khung một kẻ da thịt phì
nhiêu bẹo hình bẹo dạng. Mỗi sáng sớm tôi được rửa mắt và tai tôi chừng như
đang nghe có tiếng sóng vỗ rì rào từ bên đó tràn qua. Tôi nhớ biển, nhớ da diết
một địa danh và tôi đã bần thần vì chốn đó mang trùng với tên em: Thuận An.
Tới bảy giờ bốn mươi a.m thì em xuất hiện. Mỗi ngày chúng tôi hẹn hò nhau ở
trạm này để cùng lên tàu điện chạy đến chỗ làm. Với tôi, đó là thứ điểm tâm
cung cấp nhiều năng lượng trước khi lao động. Tàu lao đi, băng qua sáu trạm thì
đến chỗ buộc phải không còn đứng bên nhau, Thuận An biết nơi tôi cày bừa xa
ngái phải lắc lư thêm bốn trạm nữa mới tới và em nói, như vậy thiệt cho anh
quá, phải 9 giờ mới bắt đầu, đi sớm thế anh biết cách gì để đốt thời gian? Anh
sẽ vào quán gọi một cốc cà phê, nếu trời ấm anh sẽ bảo “mang đi” rồi cầm ly
giấy ra ngoài hàng hiên đứng hút thuốc. Nóng hay lạnh thì quanh quán cà phê ấy
luôn có đàn chim không rõ lai lịch vẫn tụ bầy trên giây điện lãnh lót hợp xướng
một bài, anh nghĩ là tình ca, nghe sướng đôi tai. Đôi tai mà trước đó nó hứng
đọng lời em nhắn gửi: Hút thuốc có hại cho sức khoẻ, chừng nào thì anh nghe lời
em để từ bỏ thuốc. Tây đầm chúng thường hôn nhau, chúc nhau một ngày lành trước
khi tạm biệt. Anh đứng yên và em quay bước khi cửa tàu mở, chỉ ngần ấy thôi,
đôi ta chưa thể làm khác hơn. Qua sông, nếu chẳng có cây cầu bắt ngang thì
người muốn quá giang phải luỵ đò. Sức người quá hạn, anh không biết bơi và con
sông chắn giữa đôi ta tuyệt chẳng hiện hữu một con đò hoặc hình ảnh cây cầu cho
dù là cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Chúng ta chui xuống đường hầm, thứ hai
tới thứ sáu mỗi sáng, đứng bên nhau khoảng mười lăm phút, nói dăm câu vô thưởng
vô phạt về chuyện nắng mưa và tàu dừng, và tàu chạy, và đường ai nấy đi. Và tôi
chưa nói trắng cái nguyên cớ vì sao siêng dậy sớm trong lúc phải 9 giờ chuông
mới reo trong hãng xưởng, áo mão chỉnh tề để đứng lẻ loi chưa lại thần hồn
trong đường hầm u u tiếng gió. Rằng tôi rất muốn nhìn thấy em mỗi ngày, nghe
giọng em bâng quơ thường là phê bình hoặc trách cứ tôi. Rằng ít ra thì tôi lỡ
phải mang ơn nhà thơ Vũ Hữu Định: “May mà có em đời còn dễ thương”. Sẽ buồn cho
tôi khi hôm đó em “nhác chơi” không nhìn thấy tăm dạng, tôi đến chỗ làm và năng
suất lao động hao hụt thấy rõ. Khi đồng minh tháo chạy, em nên hiểu là nó gây thương
tổn biết dường nào cho đứa nhẹ dạ cả tin. Tan hoang, đổ nát và bể dâu hiện
hình. Có một chuyện tôi từng tâm sự với em, tôi nói: Anh mang ơn Thuận An, vì
Thuận An đã giúp anh xuôi chèo mát mái. Trước, anh nhờ Nha Trang, anh nhờ Thanh
Bình Đà Nẵng thảy đều thất bại đổ bể. Anh bị tù với tội danh phản bội tổ quốc.
Anh lì lợm tiếp tục phản bội mà may phước cho anh, Thuận An với sóng bạc đầu
gầm thét xua đuổi anh ra hải phận quốc tế để một đêm tối trời anh mang lý lịch
mới: Vô tổ quốc. Thuận An ơi, còn gì tủi hổ hơn khi thằng người mãi say sóng ấy
chịu thêm nỗi dật dờ: Vô gia đình.
Sáng ấy trời rét hơn thường nhật, tháng hai vẫn có những cơn gió bê nguyên
khối giá băng từ Bắc cực tràn về. Cái lạnh nhắc tôi về hình ảnh những nụ mai
vàng hé nở chào Xuân, năm hết tết tới phía bên kia bán cầu. Cô gái mặc áo tắm
đùa nghịch cùng biển cả đã trốn mất, thế chân là bích chương quảng cáo cuộc
triễn lãm tranh sơn dầu của các danh hoạ phái ấn tượng được sự hợp tác quý báu
từ viện bảo tàng của Paris giúp sức. Những sắc màu những đường nét sáng tạo ở
vào đôi ba thế kỷ xa xưa kia như biết làm cho khoảng đường hầm này vơi hẳn sự
nhiệt náo. Hoặc ít ra nó khiến thời gian phải đình trệ trong khoảnh khắc để khi
chờ em tới tôi không nghe ra sự bồn chồn. Dẫu sao tôi linh cảm là Thuận An sẽ
nghỉ làm bữa nay, những chuyến tàu đã vụt qua và tôi đang ở cuối lằn ranh đợi
trông, tôi cần một rời đi trước khi chuông đồng hồ thong thả đổ xuống 9 tiếng.
Tôi vẫn biết có nhiều người tự cho phép mình thong dong trong ngày đầu năm
nhưng em không thuộc hạng người đó. Giống tôi, đã ngập đầy tháng năm mụ mị,
Thuận An chẳng còn biết đến Tết. Chữ ấy được ai đó nhắc tới, thoáng qua tai và
nó không gửi lại một thông điệp gì quan trọng. Dần dà nó sẽ chìm quên, sẽ biến
mất trong cuốn tự điển của bộ nhớ. Vậy thì Thuận An ở nhà, không đi làm do bởi
một lực cản trở bất ngờ, hơn là cái nguyên cớ xằng bậy mồng Một mồng Hai tinh
khôi năm mới đón đường.
Thứ Tư thứ Năm và thứ Sáu tôi vẫn đi đúng giờ, vẫn đợi trong lẻ loi và vẫn
chui đầu lên mặt đường ngập tuyết ghé mua một ly cà phê mang đi. Tôi chung
tình, là khách quen của hàng quán ấy, đánh đổi bằng bộ mặt thân thiện của thằng
đứng bán, hắn luôn thay đổi cách xưng hô, khi thì “Chào ngài Đại uý”. Khi thì
“Ông sếp có khoẻ không?”. Khi thì “Người bạn lớn”… Điều này không làm sứt mẻ 3
đô, số tiền tôi phải trả cho ly cà phê size trung bình. Cà phê là thứ dung dịch
đen đúa mang nhiều chất bổ dưỡng cho cơ thể, mỗi ngày có khoảng tám phần mười
dân số trên hành tinh này uống lấy nó. Khi vui cũng ực khi buồn cũng xơi. Hôm nay
đặc biệt đàn chim thôi tập trung trên dây điện hót líu lo, tôi đứng với sự câm
lặng của tuyết khi chuyên cần rơi xuống mênh mông một khoảng trống vắng. Tôi co
thân dưới mái hiên, cà phê và thuốc lá dần dà giúp đầu óc tôi chút minh mẫn:
Rằng nhà ngươi phải nên cất công dọ hỏi cho ra lẽ. Điều gì đã xảy đến với Thuận
An?
Hôm chủ nhật, khác với ngày trong tuần, tôi mặc bộ áo quần nghĩ là tử tế
nhất, chỉ tuyền sắc đen. Tôi nghe tiếng chuông giáo đường đổ từng hồi ở chốn
xa, hồi chuông như làm cho bông tuyết thêm vỡ vụn bay quàng xiên giữa khoảng
không trắng ngần. Nhà thờ không là nơi tôi ghé tới, tôi sẽ dùng metro đi gấp
đôi lộ trình hàng ngày để xuống đúng trạm cuối, nơi mà tôi băng qua hai ngã tư
thì đụng mặt với nhà quàng được chưng bày thứ cảnh quang lạnh lẽo từ cổng cho
tới tuốt đằng sau những bức tường xám xịt màu béton. Tôi sẽ nhìn thấy Thuận An
và con tim tôi như đang thắt lại. Mọi thứ dường như chìm trong câm lặng hoặc
đặt để đôi chân vào hành lang trải thảm màu huyết bầm này người ta cố gắng thực
thi lời “cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Vui mới mồm năm miệng mười. Buồn
thì anh nên ngậm miệng hến. Anh rón rén, anh ngại ngần và nếu cần anh làm ra vẻ
nhăn nhó chực khóc. Có năm bảy người đứng sắp hàng trước cái bục gỗ, cuốn vở
lớn đã từng lật giở những tờ giấy trắng đang chận giữ họ để khiến họ nghịch tay
vào cây bút, bôi bẩn thứ gì đó, cào xé vào lòng giấy. Tôi nhớ lại một câu chữ
đọc trong cuốn sách ngày đầu tôi được định cư chốn này: “Chỉ năm phút sau khi
chào đời, người ta khai sinh ra tên bạn, quốc tịch, tôn giáo, màu da… và rồi
suốt cả cuộc đời, bạn phải chống chọi với những thứ mà bạn không hề có được sự
chọn lựa”. Tôi quen Thuận An và tôi hằng tin đó là sự chọn lựa đúng đắn.
Đứng như loài hoa khiêm nhượng trong góc vườn, Thuận An nhìn thấy tôi và cả
hai cứng thây bước chậm thu ngắn dần khoảng cách. Một vòng băng trắng quấn trên
đầu và mùi khói nhang, chừng ấy thứ đã làm cho gương mặt em xanh gầy tuồng đã
mất sinh khí. Chỉ còn đôi mắt ướt là linh hoạt, nó đang lưu trữ hình dáng một
thằng người suốt tuần đã chẳng trông thấy nhau. Mặt đất như chết tiệt sức hút,
em xiêu thân và tôi vội ôm lấy em, thổn thức. Sẽ chẳng có ngôn từ nào thích hợp
cả, trong lúc này nếu bạn nói ra. Tôi chỉ biết dùng tay vỗ về ở lưng ở vai em.
Bình thường chúng tôi chưa từng ôm lấy nhau và đến khi nghe rõ tiếng nhịp đập
của trái tim vọng dội qua bao vách ngăn, nước mắt đổ ra và nhắc nhớ tới một
niềm đau chẳng gì bù đắp được. Lý do của sự kề cận không gì khác hơn là cái
chết. Tôi nhìn tấm ảnh đen trắng đặt trên bàn thờ nằm trước quan tài người vừa
xuôi tay. Ba của Thuận An từng là cựu sĩ quan của quân lực miền Nam và ông từng
không biểu lộ sự thiện cảm khi tôi đến nhà. Tôi phép tắc chào ông và “kỷ niệm”
giữa hai người chỉ xảy ra có đôi lần. Tôi đủ khôn để hiểu một đứa cày sâu cuốc bẩm
trên cánh đồng nhiều gió chướng như mình sẽ muôn đời chẳng đủ tư thế để gọi ông
là bố. Ông là hình ảnh rập khuôn của ba tôi ngày cũ. Thương con gái mình, không
gì khác hơn là mong cho con quen được một thằng người ngó tử tế, cái tử tế tính
luôn tới công ăn việc làm.
Thuận An nói, có lẽ là hai đứa tạm vắng xa một thời gian. Đang chịu đại
tang, đồng ý, nhưng điều luật nào bắt chúng ta phải tuân thủ cảnh đôi đàng cách
chia? Khoan, em chưa nói hết. Ba em muốn rải tro cốt xuống dòng sông Hương và
do vậy em phải về Huế để thực thi ước nguyện ấy. Rất tốn kém, rất nhọc sức, rất
mệt mỏi nhưng bù lại em sẽ vui vẻ đảm nhận công việc đó. Em đã lấy vé… và như
thế…
Và như thế tôi vẫn chuyên cần đi làm từ thứ hai đến thứ sáu mà không màng
tới ba ngày Tết bạn nên xuất hành vào giờ nào, đi hướng nào để cả năm được
thông suốt. Không còn gặp em, tôi dậy trễ hơn đi làm muộn hơn và vẫn đón nghe
thằng bán cà phê xởi lởi: Chào Đại Uý buổi sáng. Tôi phải trả 3 đô 95 xu vì lấy
cái ly to khủng. Hết nhìn ra em lóng rày tôi uống nhiều cà phê cũng như siêng
đốt khói cho ấm bờ môi. Tôi vẫn đứng bên hiên quán, dưới bầu trời tuyết đổ. Tôi
nghĩ tới chuyến tàu cuối cùng sẽ mang tôi đi trong thinh lặng. Có nên nằng nặc
đòi hỏi phải mang đống tro tàn nhọc xác về trút xuống cố quận. Tôi đã thành
thằng người Gia-nã-đại, nếu được, xin vui lòng cho tôi nằm xuống trên dòng
St-Laurent. Và Thuận An ơi, liệu khi ấy em còn giọt nước mắt nào đổ xuống bề
mặt một con sông đang đóng băng? Em đi về quê mạnh giỏi, đề phòng cướp giật,
coi chừng xe cộ và cẩn tắc chuyện ăn uống. Có như vậy đôi ta mới còn nhìn thấy
lại nhau. Ừ, thì hẹn gặp mặt sau đôi ba tháng đằng đẳng, dài bằng cách hoá thân
của mùa màng đông xuân thu hạ. Cuộc đời đã không cho ta một chọn lựa nào khác,
phải rứa không Thuận An? Muốn an lành phải nên thuận thảo?
Hồ Đình Nghiêm