Hằng năm cứ đến ngày giáp Tết Âm Lịch, mọi người đều thấy các cửa hàng bán
báo rực rỡ hẳn lên bởi hình bìa của những tờ báo xuân. Đủ thứ màu sắc của những
tờ báo khổ lớn treo toòng teng trên những chiếc dây trước sạp báo phay phất
phới, không khác gì những cái lồng đèn Trung Thu. Những tờ báo khổ nhỏ, hầu hết
là những tờ tuần báo hoặc đặc san nằm dưới kệ hàng cũng được tô điểm sặc sỡ báo
hiệu mùa xuân đang về. Mùa xuân dường như bắt đầu từ đấy. Và mỗi nhà thường mua
một tờ báo Xuân, đôi khi đợi Tết trưng ra trong phòng khách cho vui cửa vui
nhà. Điều đó không hẳn là một tục lệ mà chỉ là thói quen, một thứ thói quen
đáng yêu của hầu hết người Việt chúng ta dù bất cứ ở đâu. Nó cũng như cái hình
ảnh của nhà thơ Vũ Đình Liên:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”
Hình ảnh ông đồ già có thể mất dần theo năm tháng, nhưng những tờ báo thì vẫn
còn y nguyên từ thời xa xưa cho tới thời nay, chắc chắn nó sẽ còn mãi mãi, cho
dù nhiều bạn lo xa rằng báo in có thể “chết dần” bởi thời đại internet. Nhưng
internet không thể bày ra bàn, không thể trang trí cho phòng khách của ngôi
nhà, không thể mang linh hồn của mùa xuân đến từng người đọc, không thể mang
hương vị ấm cúng cho cả gia đình bạn và cũng không thể mang cả mùa xuân tô điểm
cho phố phường của bạn. Hình bìa những tờ báo thường bao giờ cũng có những
người đẹp, những giai nhân đủ loại từ ca sĩ đến tài tử màn ảnh, từ cô gái nông
thôn đến thành thị uốn lượn đủ kiểu trên sạp báo còn hơn là một cuộc thi sắc
đẹp. Bạn không thích thú sao? Ngắm free mà. Và chỉ có năm hết Tết đến mới có
cái cảnh ấy.
Tất cả những thứ đó khiến tôi nhớ đến cái không khí làm báo Tết thời xa xưa.
Hồi đó bạn làm được một tờ báo ra hằng ngày hay hằng tuần đã khó khăn lắm rồi
chứ chưa nói đến làm báo Tết. Ngày nay làm báo chỉ cần đánh máy cho lên máy in,
nó chạy rèn rẹt ra luôn ba bốn năm màu và hàng chục ngàn số trong một vài giờ,
được đóng sẵn sàng đưa ra thị trường. Ngày xưa thì khác….
Cái thời đại typo
Vâng, phải nói chính xác đó là thời đại mời ra lò của những tờ báo, thời đại
in typo. Trước hết là những con chữ được đúc bằng kẽm hay bằng chì, từng chữ
một, mỗi chữ xếp vào một cái bát hay một ngăn dưới tay người thợ, gọi là thợ
sắp chữ. Phải sắp từng chữ một và chữ in nghiêng phải được tác giả viết bài hay
anh Tổng thư ký tòa soạn phải gạch dưới bản thảo đánh máy hay viết tay hàng chữ
“ital” chữ viết tắt của italic. Đấy chỉ là một thí dụ. Còn có hàng chục ký hiệu
như thế nữa dành cho hàng chữ in đậm, sửa dấu sắc huyền hỏi ngã, thêm chữ vào
dòng, bớt chữ đi. Anh thợ “cả” được gọi là chef typo chịu trách nhiệm chung cho
trang báo đó, phải xem lại từng trang.
Còn muốn đưa một tấm hình vào trang báo, phải làm bản kẽm. Tôi nhớ hồi đó ở
Sài Gòn có Cliché Dàu là nơi cung cấp những bản kẽm cho các nhà in và các báo.
Khuôn khổ bức hình ra sao để nó nằm gọn lỏn trong trang báo phải được tính toán
trước hết. Đến lúc thợ lên khuôn mới đưa vào bài báo được.
Trước khi in, thợ nhà in phải làm một bản vỗ, tức là lấy tờ giấy thấm nước
như loại giấy bản, đặt lên khuôn trang có dính chút mực, vỗ nhẹ để mực thấm vào
giấy, chúng tôi gọi là morasse, người làm việc sửa morasse được gọi là “thầy
cò”. Thường morasse phải sửa đến lần thứ hai thứ ba, lần cuối cùng do anh Tổng
Thư Ký tòa soạn sửa và ký vào tờ dernière morasse đó chịu trách nhiệm nếu có
sai sót.
Sau thời kỳ in typo là thời kỳ “vàng son” của kỹ thuật in offset. Cả trang báo
4 màu chỉ cần đưa lên máy in một lần. Nhưng nói về thời kỳ này nữa thì quá dài
dòng. Xin trở với thời đại báo in typo.
Tôi suýt bị tù vì mất chữ T.
Nói sơ qua như thế để bạn có thể hình dung ra phần đầu của công việc làm
báo, đấy là báo thường chưa nói đến số Tết còn “ly kỳ rùng rợn” hơn. Đúng là
một công việc bỏ ăn bỏ ngủ chứ không đùa. Tôi đã từng làm ở tòa soạn báo, làm
từ anh viết bài đến anh “thầy cò” rồi nhảy lên làm Trưởng ban biên tập và làm
Chủ bút báo Chiến Sĩ Cộng Hòa của Quân Đội VNCH. Hồi đó báo ra bán nguyệt san,
mỗi kỳ 200.000 số. Một con số xuất bản lớn nhất vào thời đó. Báo được Bộ Quốc
Phòng tài trợ và gọi đấu thầu, nhà in tư nhân đảm trách việc in ấn. Tôi là
người chịu trách nhiệm sửa và ký tên vào bản dernière morrase tức là bản vỗ
cuối cùng. Sau này làm thêm tờ Thông Tin Chiến Sĩ ra hằng tuần nữa càng vất vả
hơn. Tòa soạn chỉ vỏn vẹn có chừng chục người .
Năm nào báo Chiến Sĩ Cộng Hòa cũng ra báo Xuân như thường lệ. Năm đó, có lẽ
là vào năm 1960 khi đó Đại Tướng Lê Văn Tỵ làm Tổng Tham Mưu Trưởng QĐVNCH (đến
năm 1963 mới được vinh thăng Thống Tướng, vị Thống Tướng duy nhất của VN). Mỗi
năm thường có một Thư chúc tết của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng được đăng
trên báo Xuân CSCH. Khi báo ra chúng tôi đưa lên trình văn phòng Đại Tướng.
Không hiểu tại sao cuối thư đó lại ký tên Đại Tướng Lê Văn Ỵ.Thì ra tên của
ngài bỗng mất biến đi chữ T.
Ông Đại Tá Hoàng Ngọc Tiêu, tức thi sĩ Cao Tiêu, làm chánh văn phòng Đại
Tướng gọi điện thoại cho tôi nói ngay: “Phen này ông đi tù là cái chắc”, tôi
tưởng ông nói giỡn chơi, nhưng ông nghiêm giọng nói: “Anh cứ xem lại Thư chúc
Tết của Đại Tướng đi là biết ngay, tôi không nói nhiều”.
Tôi mở tờ báo ra xem, quả nhiên là chữ Tỵ mất biến chữ T ở trước, thành ra
là Đại Tướng Lê Văn Ỵ. Tôi choáng người, cầm chắc đi tù rồi còn gì. Tôi gọi nhà
in, đòi xem bản vỗ cuối cùng. May quá, bản vỗ cuối cùng còn nguyên chữ T. Đây
là một lý do “giảm khinh” cho một phần lớn tội của tôi. Nhưng tôi vẫn là người
chịu trách nhiệm chính khi tờ báo đưa lên trình và gửi đi khắp các đơn vị trong
toàn quốc. Tôi đã không kiểm soát lại.
Về phía nhà in, điều tra cũng chẳng ra, bởi khi bản vỗ đưa lên máy in vẫn
còn nguyên, nhưng vì là thợ xếp từng chữ nên khi bê lên bê xuống có thể nó rơi
mất chữ T. Rơi ở đâu, khi nào hay có kẻ phá hoại không ai biết. Mà làm sao kết
tội là phá hoại khi không có bằng cớ chắc chắn, luật pháp là luật pháp thời đó
rất nghiêm minh. Tôi đã chuẩn bị sẵn tư tưởng để từ giã quân ngũ hay ít ra cũng
bị “hạ tầng công tác” đi đến một đơn vị khác, rất có thể là binh nhì vì cái tội
quá nặng “bôi bẩn thanh danh Đại Tướng”.
Nhưng ông Cao Tiêu chánh văn phòng Đại Tướng lại gọi điện thoại ngay cho tôi
nói là chưa kịp trình Đại Tướng vì sáng đó ông bận đi dự lễ. Ông Cao Tiêu cũng
là bạn tôi nên ông đã hủy ngay tờ báo, ông nói tôi phải lấy chữ Tỵ khác đóng
lên trên chữ Ỵ để ông mang vào trình.
Tôi cấp tốc làm ngay. Nhưng làm một tờ thì dễ, còn 200 ngàn số đưa đến các
đơn vị cũng phải làm như vậy. Thế là cả cánh thợ nhà in tư nhân và toàn phòng
báo chí của chúng tôi phải cùng làm suốt một đêm một ngày mới xong. Lúc đó tôi
mới hoàn hồn. Và cũng từ đó tôi có thêm khinh nghiệm “xương máu” về nghề làm
báo cũng như sau đó sang làm ở Đài Phát Thanh Quân Đội. Tôi cẩn thận từng chữ,
từng câu trong các bản tin.
Lại chuyện ở Đài Phát thanh
Nhà văn Văn Quang
Tôi nhớ hồi đó nhiều đoàn thể, nhiều giáo phái có tiếng nói trên các đài
phát thanh Sài Gòn cũng như Đài Phát thanh Quân đội. Một lần vào khoảng năm
1970 hay 71, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đi dự một cái lễ ở Long Xuyên do Phật
Giáo Hòa Hảo tổ chức. Sau đó tổ chức này có một bản tin gửi cho các báo trong
nước. Đài Phát thanh Quân đội cũng nhận được bản tin này. Bản tin chia làm ba
hay bốn phần gì đó, cả mấy phần trên đều là những lời lẽ ủng hộ chính phủ, đoạn
cuối cùng có đề nghị chính phủ phát súng cho giáo phái để tự giữ gìn an ninh tổ
quốc.
Tôi suy nghĩ mãi mới bỏ đoạn cuối cùng này. Bởi nếu phát súng cho một tổ
chức khác chẳng khác nào một quốc gia có hai quân đội nên tôi sửa lại chỉ tóm
tắt nội dung chứ không cho đọc nguyên văn, cuối cùng chỉ loan tin là những đề
nghị khác sẽ được Tổng Thống và Chính Phủ cứu xét cẩn trọng.
Quả nhiên bí thư của Tổng Thống lúc đó là ông Hoàng Đức Nhã, được gọi là
“ông trùm truyền thông” thời đó điện thoại cho tôi hỏi “Anh có cho đọc nguyên
văn bản tin của Phật Giáo Hòa Hảo không?”. Tôi thẳng thắn trả lời: “Không, tôi
chỉ tóm tắt nội dung chính còn đề nghị phát súng tôi không loan bởi vì…”. Ông
Hoàng Đức Nhã ngắt lời tôi ngay: “Đúng rồi, anh làm vậy là đúng lắm”. Từ đó ông
Nhã nhìn tôi bằng con mắt khác. Đúng là môt câu hỏi “mẹo” rất khôn khéo của ông
“trùm truyền thông”.
Đi làm phóng sự Tết
Phòng báo chí của chúng tôi có cái lệ là phải đi làm phóng sự Tết ở các đơn
vị từ miền Nam đến miền Trung và Cao Nguyên. Tòa soạn quá ít người nên chính
tôi cũng phải làm phóng viên. Anh em đi hết, chẳng lẽ trưởng phòng ngồi nhà nên
dù mới cưới vợ cũng phải bò đi làm phóng sự Tết. Tôi nhớ năm đó, vào ngày 28
Tết có trận đá bóng giữa đội của Tổng Tham Mưu VN với một đội của Peru. Thế mà
tôi phải rong ruổi ra miền Trung làm phóng sự. Tôi là dân mê đá bóng từ nhỏ nên
mang theo cái radio transistor, đi trên xe lửa nghe anh Huyền Vũ tường thuật
trận đấu cho đã ghiền.
Giao thừa trên đỉnh đèo Hải Vân
Ra đến Đà Nẵng tôi vào chào Trung Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh Phó Quân Khu
2, tôi còn một mục đích khác là lôi Thanh Nam mới bị tái ngũ học ở trường Huấn
luyện ra cùng đi. Tướng Trí ra lệnh cho Thanh Nam ra đi cùng tôi ngay hôm đó.
Chúng tôi đi qua đèo Hải Vân vào buổi chiều sắp tàn. Nhìn thấy một tiền đồn
đóng tuốt trên ngọn núi Hải Vân nằm lẫn trong mây. Tôi thấy sinh hoạt ở đơn vị
nằm cao tít tắp chín từng mây này chắc là đặc biệt nên tôi cho xe Jeep theo
đường mòn leo lên đỉnh đèo. Anh lính gác ở đồn canh cho tôi biết đây là một
trung đội Địa Phương Quân trấn giữ mỏm núi. Phía sau còn hai trung đội khác.Tôi
và Thanh Nam quyết định ăn Giao thừa cùng anh em trong đơn vị này. Một buổi tối
khác hẳn mọi buổi tối, chúng tôi nằm giữa những đám mây mỏng không nhìn thấy
lưng đèo. Giao thừa thật thú vị với những màn lửa trại và thi hát, thi nói
chuyện vui. Có một anh tân binh nói chuyện tình yêu của chính mình rất láu cá.
Anh em chất vấn tại sao mày lấy được vợ giàu và đẹp thế? Anh ta kể rằng bị gia
đình nhà vợ phản đối, hai đứa bàn nhau “ăn cơm trước kẻng”. Em bị con vợ em nó
tát cho một cái nên thân, tưởng em lợi dụng nó. Em nói chúng mình chỉ giả vờ
thế thôi mà. Em cứ giả vờ thú nhận với mẹ em là có bầu rồi. Con vợ em nó đồng
ý. Thế là nhà nó bắt em phải làm đám cưới ngay. Cưới xong vài tháng thì em vào
địa phương quân rồi lên đây. Thanh Nam khoái chí bèn tặng ngay cái khăn quàng
mà cô bồ là ca sĩ trẻ đẹp vừa gửi tôi mang ra tặng chàng làm quà Tết. Trong đời
tôi sẽ không bao giờ có được một đêm giao thừa như thế nữa.
Nhưng làm báo ngoài thì sướng
Hồi đó tôi thường viết khá nhiều feuilleton cho các báo. Mỗi dịp xuân về,
chẳng cần biết các ông ở tòa soạn bận rộn ra sao, chúng tôi chỉ việc gửi bài
rồi ung dung chờ lãnh tiền lương tháng 13 và dự tiệc tất niên của chủ báo. Có
lẽ làm với báo Truyện Phim của ông Nguyễn Ngọc Linh vào khoảng những năm 58- 60
là khoái hơn cả. Tờ báo lớn đầu tiên về điện ảnh quốc tế và VN do anh em ông
Linh sáng lập ở đường Ký Con. Cái tòa soạn bé tẹo nhưng rất… Ăng Lê. Chủ nhiệm
ngồi một mình trong phòng kính. Bên ngoài là bàn giấy của Tổng Thư Ký tòa soạn,
hồi đó là ông Quốc Phong nên chúng tôi gọi là “ông Tổng Cóc”, cạnh đó là chiếc
bàn nhỏ xíu cùa biên tập viên Gia Tuấn đeo kính trắng, gọi là “Gia Tuấn Sì
Cốp”.
Tờ báo được hầu hết các bạn trẻ, học sinh, sinh viên đón đọc hằng tuần. Tất
nhiên năm nào cũng có báo xuân và đặc biệt khán giả mua báo được tặng một cuốn
lịch thật đẹp của hãng Paramount Pictures, in màu trên giấy couché trắng nõn
với 12 tấm hình tài tử thượng thặng quốc tế như Marilyn Monroe, Ava Gardner,
Audrey Hepbur, Grace Kelly… cũng nõn nà chết người. Riêng anh em cộng tác, cuối
năm còn được tặng một tập báo đủ 12 tháng đóng gáy da mạ chữ vàng cẩn thận. Sau
đó lại là một chầu ăn uống nhảy nhót tưng bừng tại một nhà hàng lớn, tăng 2 có
thể đi có thể không tùy thích. Tôi chưa bao giờ quên được những kỷ niệm đó.
Nhật báo Chính Luận và ông chủ nhiệm đáng yêu của tôi
Đó là phía tuần báo còn phía nhật báo có tờ báo lớn là Chính Luận, do bác sĩ
Đặng Văn Sung làm chủ nhiệm. Cuối năm cũng có chầu tất niên tưng bừng nhưng ông
chủ nhiệm đứng đắn nên không cho anh em “múa tay múa chân” ở vũ trường. Ông tổ
chức đánh phé ở nhà ông thủ quỹ Lê Tâm Việt.
Tôi nhớ năm đó vừa lãnh lương xong, về chơi phé với anh em trong tòa soạn.
Chẳng may thua nhẵn túi. Tôi đứng dậy ra về thì ông chủ nhiệm hất đầu cho anh
thủ quỹ Lê Tâm Việt ra lệnh “Phát cho cậu ấy lương tháng 13 đi”. Lê Tâm Việt
nói em phát rồi. Ông BS Sung cười hiền lành “Nó thua hết rồi, lấy gì cho nó ăn
Tết, phát cho cậu ấy ngay đi”. Thế là tôi lãnh thêm 1 tháng lương nữa rồi ra
về, hồi đó tháng lương viết feuilleton cho báo Chính Luận tôi nhớ mang máng là
12.000 VNĐ. Bằng ấy là một khoản tiền khá lớn rồi lại có “thịt mỡ dưa hành câu
đối đỏ, cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh ở nhà”. Thật thú vị cho một năm mệt
nhoài người vì viết, nhưng hồi đó viết là viết chứ không phải lách như bây giờ.
Bạn đã thấy công việc của dân làm báo hay nói chung làm truyền thông xã hội
không hề dễ dàng chút nào. Nhưng tôi vẫn nhớ, vẫn chưa bao giờ từ bỏ được cái
“nghiệp” của tôi. Tính ra bây giờ là hơn 60 năm rồi, cuộc đời tôi vẫn chẳng làm
được nghề ngỗng gì ngoài viết và viết. Tết cũng chẳng bao giờ được nghỉ vì “báo
bà nghỉ thì báo ông ra” cho nên cứ phải có đủ bài cho báo. Năm nay cũng vậy
thôi. Nhưng đã trở thành thói quen, tôi chưa bao giờ ân hận vì cái nghề này.
Đấy cái nghề làm báo nó long đong như thế, nhưng các bạn trẻ vào nghề rồi
khó lòng dứt áo ra đi cho đành. Nó có ma lực quyến rũ đấy các bạn ạ.
Văn Quang