Những ngày cuối năm, khi đang ngang
con đường đó, tôi vẫn thấy chiếc xe đẩy, đựng lỉnh kỉnh những những món đồ vá –
sửa xe của chị, người đàn bà mà tôi có dịp trò chuyện trong một lần xe cán
đinh, vô tình ghé lại.
Sài Gòn, trung tâm thành phố những
ngày thường, cái góc nhỏ của chị vốn đã bé mọn, vào những ngày vắng vẻ của ai
về nhà nấy đón năm mới, cái góc nhỏ ấy lại càng lẻ loi hơn. Chị Đa, tên của
người đàn bà làm nghề vá – sửa xe ấy, nhiều năm đã không còn về quê nữa. Chị
chọn đón Tết trong căn phòng trọ thuê ở tận quận Tân Phú, xa nơi chị làm việc
đến gần 15 cây số đường đi, mỗi ngày.
Một trưa nắng đến điên người, xe lại
bị xì bánh, tôi đẩy xe đến góc đường đó và được chị mời chào vá xe. Ngồi nhìn
đôi bàn tay thoăn thoắt của người đàn bà giấu mình vào khẩu trang, nón trùm và
áo khoác dày cộm để chống lại cái nắng Sài Gòn, có lẽ ai cũng không khỏi ngạc
nhiên vì sao công việc rất ‘đàn ông’ ấy, lại được một phụ nữ đảm đương một cách
hoàn hảo như vậy. Trò chuyện mới biết chị Đa đi từ Thanh Hoá vào Nam lập nghiệp
từ lúc còn trẻ. Cuộc sống nghèo khổ khiến người chồng bỏ đi lúc chị đang có 2
con nhỏ. Thế là chị thay vào công việc của người chồng để nuôi con. Hơn 15 năm
sống ở nhà trọ, vá xe trên vỉa hè, chị chọn vùng đất này là nơi để sông sót và
hy vọng.
“Hai đứa con của em giờ vào đại học
cả rồi anh ạ”, chị Đa nói. Trong những huyền thoại về sinh tồn, có lẽ những câu
chuyện về những bà mẹ vô danh như chị Đa đã lặng lẽ dựng nên những cuộc đời
khác, đầy hy vọng cho con cái mình, từ những giọt mồ hôi cần lao và kiên nhẫn,
là điều bình thường và kỳ diệu nhất. Nhưng ít có sách vở nào nói về họ.
Chị Đa kể rằng chị nhịn không về quê
– vì quá đắt đỏ – suốt 15 năm để dành dụm cho hai đứa con đủ tiền ăn học. 15
cái Tết trong đời mình chị đón giao thừa cùng hai đứa con trong phòng trọ với
những câu chuyện về miền quê chôn nhau cắt rốn của mình. 15 cái Tết nhìn con
cái lớn dần và chào mẹ để bước ra đi chơi với bè bạn, chị lại ngồi một mình, ăn
những bữa cơm ngày Tết một mình.
Không ai dạy cho chị Đa làm mẹ. Cũng
như không ai dạy cho hàng triệu người phụ nữ Việt Nam làm mẹ. Ngôi trường bí ẩn
nào đó của thiên nhiên đã ban tặng cho những người mẹ bài học về tình yêu
thương bao la, sự chắt chiu qua khốn khó và dựng nên từng thế hệ. Chị Đa làm
tôi nhớ mẹ mình lắm. Nhớ những những ngày Tết mà khi còn mẹ, chốc chốc tôi cứ
muốn quay về nhà để xem mẹ ra sao.
Sài Gòn hay Hà Nội, những ngày chuẩn
bị đón giao thừa, hàng hàng lớp lớp người khăn gói lên đường về nhà, về quê.
Chắc rất nhiều người trong đó, thật ra là về với mẹ. Cái Tết ở Việt Nam nhiều
năm nay, mỗi lúc một thiếu đi nhiều phong tục. Tết chỉ còn là một ngày nghỉ dài
hơi. Tết có thể là cuộc chạy trốn ngày thường đô thị để tìm về sự giản dị của
cha, của mẹ.
Nhưng không phải người mẹ cũng được
niềm vui như vậy. Đôi vợ chồng bạn quen với tôi, từ khi làm ăn khấm khá, vài
năm trước đã tham gia trào lưu mới của xã hội, là xách vali đi đón Tết ở nước
ngoài. Ngày mùng một, họ gọi điện thoại về a lô chúc Tết mẹ. Bà mẹ già cười
trong điện thoại mà mắt buồn buồn. Tôi nghĩ đến những đứa con của chị Đa. Chị
cũng thúc mấy đứa nhỏ đi chơi để hội nhập đời sống của chúng – năm chỉ có một
lần. Nhưng bữa ăn một mình, chắc rồi chị cũng buồn hiu.
Những năm mẹ tôi còn sống, sức yếu
rồi nhưng bà cứ lụm cụm, lén ra sân ra tuốt lá mai, vì sợ tôi thấy rồi ngăn. Bà
cứ làm những chuyện mà tôi cứ nghĩ là chỉ làm mệt người, do chỉ là thói quen
ngày Tết như gọi người đi đánh bóng lại bộ lư đồng, mua ít hoa, nhắc mặc đồ
mới. Ấy vậy mà khi mẹ không còn, thiếu những điều tưởng chừng như vặt vãnh ấy,
Tết đi đến mọi nơi nhưng không còn ghé vào nhà tôi nữa. Mẹ như một mùa xuân bí
mật mà thượng đế đã ban tặng cho mỗi gia đình, mà khi không còn, sự cô quạnh và
tiếc nuối sẽ đeo đẳng đến tận cuối đời, nhắc lại trong từng giấc mơ khắc khoải.
Chắc những đứa con của chị Đa còn
chưa biết đủ về món quà mà thượng đế ban tặng cho chúng. Hay đôi vợ chồng bạn
tôi vẫn chưa tìm thấy được cái Tết thật sự với mẹ mình. Tôi nhìn thấy nhiều cái
Tết mà bạn bè mình kể nôn nao được về với Cha, Mẹ… dù đó là nơi vẫn còn thiếu
con đường nhựa, chưa có những cây cầu đủ cho chiếc xe đạp chạy qua. Đó là những
chuyện kể ấm áp lòng người, mà chỉ nói với nhau thôi, cũng đã nghe xôn xao như
Tết đến.
Anh bạn nhà văn của tôi đã hơn 50
tuổi, không cần Tết đến, mỗi khi nhớ mẹ là anh leo lên chiếc xe 3 bánh dành cho
người khuyết tật của mình, đi cả trăm cây số để về nhà, đôi khi chỉ đề rờ vào
mẹ mình, leo lên võng nhìn mẹ qua lại. Một người bạn khác của tôi, sống bằng
nghề ca sĩ và hoạt náo, có đêm gần Tết bỗng gọi điện thoại để tâm sự vì không
còn biết nói với ai, rằng anh ta nhớ mẹ quá, rồi khóc rưng rức trong điện
thoại. Khi còn mẹ, Tết cho mỗi người cảm giác là trẻ con, bất luận bao nhiêu
tuổi. Khi mất mẹ rồi, Tết là cảm giác phải làm một người lớn một mình, mới héo
hắt làm sao.
Năm nay, tôi không thấy đôi vợ chồng
người bạn quen chuẩn bị vali để đón xuân ở nơi khác nữa. “Mẹ yếu rồi, nên năm
nay ở nhà thôi”, người chồng nói như vậy. Tự nhiên lòng tôi mừng như trẻ nhỏ.
Vậy là bà cụ được một năm mới bên con cháu đề huề. Dẫu muộn, nhưng rồi xuân đã
thật sự ghé đến ngôi nhà đó. Tôi cũng ước hai đứa con chị Đa sẽ ở nhà, ăn bữa
cơm với mẹ nhiều hơn. Rồi sẽ có lúc chúng bừng tỉnh và hiểu rằng không có tượng
đài nào vĩ đại hơn người mẹ với đôi tay chai sần ấy, cho chúng được ôm chầm lấy
từng ngày. Thế gian này, nếu ai cũng thương và nhớ đến mẹ mình, thì đó là lúc
cõi hiền lương phủ sáng mặt người.
Không còn mẹ, chẳng còn ai nhắc
chuyện đi tuốt lá mai hay đem bộ lư đồng đi đánh bóng. Tết ghé qua ngôi chùa
nhỏ, nhìn những phần thạch táng cao như núi, trong đó có mẹ, sao mà mọi thứ
nguy nga và nhạt nhẽo đến vậy. Khói hương chỉ nhắc Tết và những ngày tháng đẹp
nhất đã đi qua. Người đàn ông đứng gần đó, cứ rì rầm nói chuyện với người đã
khuất như một điều kỳ lạ và dịu dàng. Tết không có quá khứ, không có kỷ niệm về
Cha, về Mẹ, chắc chỉ là những mùa thụ hưởng của bản năng, vô vị.
Mồng một Tết. Hãy nhớ đốt một nén
hương trầm với lòng kính nguyện. Với những ai còn mẹ, hãy mỉm cười hạnh phúc vì
đó chính là mùa xuân đẹp nhất ghé qua đời mình mà chúng ta cần níu giữ.