Trước khi Khmer Đỏ vào Phnom Penh, ngày 12-4-1975, ông Đại Sứ
Mỹ tại Cambodia, John Gunther Dean, đưa ra đề nghị mời các giới chức hàng đầu
trong Chính Phủ Cộng Hòa Khmer đi tỵ nạn tại Mỹ, nhưng các ông Sirik Matak,
Long Boret, và Lon Non, cùng với các thành viên trong Nội Các Lon Non từ chối,
mặc dù các ông Long Boret và Sirik Matak đã có tên trong danh sách tử hình “7 Kẻ
Phản Bội’ của Khmer Đỏ. Ông Sirik Matak viết thư trả lời ông Đại Sứ Mỹ như sau:
Tôi thành thực cám ơn lá thư của ngài cùng với lời đề nghị
đưa tôi đi tị nạn. Rất tiếc, tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế được.
Về phần ngài và đặc biệt về phần quốc gia vĩ đại của ngài, tôi không bao giờ mảy
may tin rằng quí vị lại có ý bỏ rơi một dân tộc đã chọn lựa tự do. Quí vị đã từ
chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng làm gì được. Quí vị rời bỏ chúng tôi
và tôi xin cầu mong cho ngài và đất nước của ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu
trời. Xin ngài ghi nhớ điều này là, nếu tôi có chết ngay lập tức tại đây trên
quê hương của tôi mà tôi yêu dấu, thì đó là điều quá tồi tệ, bởi vì tất cả
chúng ta đều sinh ra và một ngày nào đó phải chết. Tôi chỉ phạm phải một sai lầm
là đã tin vào quí ngài, những người Mỹ. Thưa ngài Đại Sứ, người bạn quí mến của
tôi, xin ngài nhận nơi đây tình cảm chân thành và tha thiết của tôi.
Hoàng Thân Sirik Matak (*)
Thủ tướng Cam Bốt Sirik Matak và cả chính phủ của ông Lon
Non vì tin vào Mỹ nên mất nước và bị Khmer Đỏ phanh thây. Nhiều người VN cho đến
bây giờ vẫn còn trông chờ Mỹ giúp họ đánh đuổi VGCS. Nhân mùa Quốc Hận tưởng niệm
ngày 30-4-1975, nhắc lại sự kiện Sirik Matak để học hỏi và tìm hiểu xem người Mỹ
thực sự chống cộng sản ra sao thiết nghĩ cũng chẳng phải là chuyện vô bổ. Người
viết xin mở một dấu ngoặc để lưu ý bạn đọc. Chữ “người Mỹ” chúng tôi dùng trong
bài là để chỉ chính quyền và các tập đoàn tư bản Mỹ chứ không nói nhân dân Hoa
Kỳ.
Mỹ và Liên Sô
Tháng 5-1943, quân đội Đồng Minh đã
đẩy được quân Đức Quốc Xã ra khỏi Phi Châu. Sau đó một tháng, Đồng Minh đổ bộ
lên đảo Sicily, và ngày 3-9 các lực lượng Đồng Minh chiếm toàn bộ nước Ý. Nhưng
đột nhiên và bất ngờ, quân Đồng Minh bị buộc phải dừng lại chỉ còn cách biên giới
phía Nam nước Đức vài trăm dặm. Guồng máy chiến tranh kinh khủng - danh từ đại
tướng Mark Clark thường gọi quân Đồng Minh - tiến lên hướng Bắc xuyên qua Ý kéo
dài cuộc chiến đấu mấy tháng trời vô lý không thể tan vỡ được. Trong cuốn sách
viết năm 1950 “Calculated Risk”, ông tuyên bố: “Một chiến dịch có thể làm thay
đổi lịch sử liên hệ giữa Tây Phương và Nga Sô đã bị mờ dần. Đó là những quyết định
từ cấp thượng tầng và vì những lý do ngoài thẩm quyền và hiểu biết của tôi.
Không phải theo ý kiến của tôi, mà của một số các chuyên gia cận kề với vấn đề,
việc giảm cường độ chiến dịch tại Ý, thay vì tiến quân vào Balkan, là một trong
các lầm lỗi chính trị nổi bật của cuộc chiến.” Sự trì hoãn được giải thích là để
tập trung quân đánh vào miền Bắc nước Pháp 9 tháng sau đó, thực ra đã cho Liên
Sô có thì giờ thanh toán quân đội Đức trong chiến dịch Barbarossa đã bị đánh
tơi tả để tiến về phía Tây Âu.
Quyết định rút các sư đoàn tác chiến khỏi mặt trận Ý Đại Lợi
ngay lúc họ có thể thọc mũi dùi vào chỗ hiểm yếu của quân Đức đã được hoạch định
từ Hội Nghị Đồng Minh ở Quebec năm 1943. Ở đó Churchill muốn từ phía Nam tấn
công thẳng vào nước Đức, chiếm Trung Âu và vùng Balkan trước khi các vùng này kịp
rơi vào chế độ nô lệ đỏ. Nhưng Churchill đã bị Hoa Kỳ gạt đi. Hoa Kỳ nhấn mạnh
rằng, những đơn vị rút khỏi Ý sẽ được sử dụng để đổ bộ Pháp lần thứ hai. Sau cuộc
đổ bộ lên Normandy nước Pháp tháng 6-1944, quân Đồng Minh được đặt dưới quyền
chỉ huy của Eisenhower, một vị tướng mà hoạn lộ như diều gặp gió và là chuẩn
thành viên của Hội Đồng Liên Lạc Ngoại Giao CFR (Council on Foreign Relations).
Ông tướng trận này được cố vấn bởi Bernard Baruch, một nhà tài chánh, cố vấn của
các TT Wilson và Roosevelt thời Đệ I và Đệ II Thế Chiến. Hiểu rõ được sự liên hệ
này, người ta có thể hiểu được cuộc chiến, và lý do tại sao Đông Âu lại được
trao cho Liên Sô.
Tướng Wrangel chỉ huy đoàn quân Bạch
Nga ở miền Nam đang chiến thắng bọn Bolsheviks thì được lệnh từ phía Đồng Minh
buộc phải rút lui về khu vực Biển Đen và bỏ nước Nga. Nếu từ chốị ông sẽ bị cắt
đứt tiếp liệu và quân lính sẽ bị nguy hiểm. Những nhân viên tình báo Đồng Minh
phá hủy những máy bay mà ông tự sắm lấy. Tướng Wrangel rơi vào tình trạng bó buộc
phải từ bỏ việc giải phóng nước Nga.
Thống chế Kolchak cũng ở vào tình trạng tương tự. Ông lãnh đạo
lực lượng chống cộng tại mặt trận phía Đông. Ông cũng bị cắt đứt tiếp tế trong
khi đang chiến thắng Hồng Quân Liên Sô.
Trên mặt trận miền Đông, quân Liên Sô được tự do. Sự tiến
quân của Nga chạy đua với các lực lượng Tây Âu, mặc dù các lực lượng này, dưới
quyền chỉ huy của tướng Eisenhower, bị giữ chân ở nhiều điểm như Prague chẳng hạn.
Sự thể đã cho phép Liên Sô đoạt được những vùng mà lực lượng Hoa Kỳ có thể chiếm
giữ trước một cách dễ dàng. Tướng Patton cũng như tướng Clark của Đồng Minh đều
không tưởng tượng được tại sao các miền Đông Âu lại bị nhường cho quân đội
Nga.
Nhưng chuyện bí mật vĩ đại này không thể che giấu được dưới
ánh sáng mặt trời. Lý do là vì Hội Đồng Liên Lạc Ngoại Giao CFR (Council on
Foreign Relations) giữ một vai trò trọng yếu trong nền chính trị Hoa Kỳ. Người
ta nói Hội Đồng là người ngồi ghế tài xế của chiếc xe. Mục sư Jim Shaw, một cựu
hội viên Hội Tam Điểm bậc 33 sau khi rút lui khỏi hội Tam Điểm, trong một cuộc
phỏng vấn năm 1989 đã tiết lộ về bức tranh nổi tiếng Roosevelt, Churchill, và
Stalin tại Hội Nghị Yalta. Ông nói, bởi vì cả ba tay tổ này lúc đó đều là hội
viên của hội Tam Điểm (Masonry.)
Có một người nào đó, người viết không nhớ tên, khẳng định:
Có thể nói không ngoa rằng Liên Bang Sô Viết được dựng lên từ Hoa Kỳ. Thật vậy,
có rất nhiều chứng cớ cho thấy, các Cơ Sở (Foundation) Ford, Rockefeller, và
Carnegie đã yểm trợ cho cái gọi là cuộc Cách Mạng Vô Sản tại Nga và tài trợ cho
CS Liên Sô.
- Tờ New York Journal-American ngày
3-2-1949 tiết lộ, Jacob Schiff đã đổ vào cho chiến thắng cuối cùng của cách mạng
Bolshevik 20 triệu dollars. Ngoài ra có nhiều phát giác về các tập đoàn tư bản
Hoa Kỳ làm ăn với Liên Bang Sô Viết trong thời chiến cũng như trong thời bình.
- Trong cuộc điều trần năm 1953, khi nghị sĩ Norman Dodd đọc
bản báo cáo viết rằng các nhà kỹ nghệ Hoa Kỳ đã thu được khoảng 200 triệu lợi
nhuận từ cuộc Thế Chiến II, ông đã muốn té nhào khỏi chiếc ghế. Ông nói: Sau Thế
Chiến I, Quĩ Dự Trữ Liên Bang đã cho nền độc tài Sô Viết vay 200 triệu khi
chúng mới lên nắm quyền. Và ông tự hỏi, tại sao những nhà giầu trong thế giới
tài chánh lại ủng hộ CS là chế độ công khai muốn tiêu diệt thế giới tư bản. Còn
tác giả Phyllis Schlafly viết: Tôi càng nghiên cứu càng cảm thấy hồ đồ
(confused), không hiểu tại sao những người càng giầu có càng thích làm việc với
kẻ thù của chúng ta.
Tổng thống Roosevelt tuyên bố vói Martin Dies, chủ tịch một Ủy
Ban Đặc Biệt Hạ Viện Hoa Kỳ, và được ông này tường thuật lại trước Hạ Viện rằng,
Tổng Thống không tin vào CS cũng như chúng ta, nhưng theo ông, không có gì sai
trái về những người CS trên xứ sở này. Một số bạn thân nhất của tổng thống cũng
là CS …. Quả thật về sau, viên cố vấn hàng đầu của TT Roosevelt, Alger Hiss,
thành viên CFR, đã bị toà án kết tội làm tình báo cho Liên Sô.
Mỹ và Trung Cộng
Phần đông người ta đã quên những chuyện kỳ lạ xẩy ta dưới thời
TT Harry Truman (người kế vị TT Roosevelt). Trước hết, sau khi ông ký Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc, bản văn thừa nhận cơ quan quốc tế này là một Chính Phủ
Toàn Cầu. Sau đó ông nhường quyền kiểm soát Đông Âu và Trung Hoa cho CS. Khi
công luận bắt đầu nêu thắc mắc tại sao ông phản bội hàng trăm triệu con người để
làm thân phận nô lệ, thì ông đã đưa đẩy rằng cuộc chiến tại Á Châu không thắng
được. Khi đại tướng MacArthur nói với một vị dân biểu rằng ông không được phép
chiến thắng trong cuộc chiến Triều Tiên, thì TT Truman cách chức tư lệnh của
ông. Tướng Lâm Bưu, tư lệnh quân đội Trung cộng tham chiến tại Bắc Triều Tiên
thừa nhận rằng đã có một thỏa thuận bí mật ngăn chận quân lực Mỹ chiến thắng tại
Triều Tiên. Lâm Bưu viết: Tôi không bao giờ tấn công để phải hy sinh binh sĩ và
danh tiếng của tôi, nếu tôi không được bảo đảm rằng Washington hạn chế những biện
pháp trả đũa tương xứng của tướng MacArthur nhắm vào những tuyến đường tiếp liệu
và truyền tin của chúng tôi.
Cuối năm 1945, khi tướng Marshall
đi Trung Hoa, cán cân quyền lực nghiêng về phía quốc gia, và giữ nguyên cho đến
tháng 6-1946. Những sư đoàn của Tưởng Giới Thạch đang dồn CS về phía Bắc và cơ
hội chiến thắng của phía quốc gia cao hơn bao giờ hết. Nhưng, khi tướng
Marshall tới Trung Hoa, ông có ý định thành lập sự phối hợp chỉ huy. Kế hoạch bị
thất bại khi liên minh thất bại. Khi chính quyền Trung Hoa không thực hiện sự
liên minh, thì vào mùa hè 1946, Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ quân sự cho Trung Hoa.
Hoa Kỳ không chỉ ngưng gởi tiếp tế quân dụng cho Trung Hoa, mà còn ra lệnh
ngưng các chuyến tầu chở quân dụng do chính phủ Trung Hoa đã mua. Chính phủ
Trung Hoa cũng đã mua các quân dụng ở Okinawa và nhiều nơi khác trên Thái Bình
Dương. Những hàng hóa này cũng bị đình chỉ, và lệnh cấm vận hoàn toàn có hiệu lực
vào mùa hè năm 1946. Lệnh này kéo dài tới tháng 5-1947. Tướng Chennault xác nhận
rằng chuyến tầu đầu tiên chỉ đến Thượng Hải tháng 12-1948. Hơn nữa ông tướng
này còn quả quyết rằng các chiến cụ đuợc gởi đến Trung Hoa sau lệnh cấm vận đã
không được chở tới đúng lúc để giúp quân đội quốc gia ở ngoài chiến trường. Thống
chế Cook xác nhận nhiều sư đoàn của Tưởng Giới Thạch đưọc trang bị bằng vũ khí
của Hoa Kỳ. Khi nguồn tiếp liệu do Hoa Kỳ bị ngưng, các đơn vị này không còn sức
chiến đấu và bị đánh bại. Dù sau khi Quốc Hội Khóa 80 đã chấp thuận viện trợ
125 triệu cho phe quốc gia, các chuyến tầu chở tiếp liệu vẫn bị trễ, và khi vũ
khí tới được viên tư lệnh của vùng Bắc Trung Hoa, thì súng ống lại thiếu cơ bẩm
và trở thành vô dụng.
Tại sao Bộ Ngoại Giao lại gởi vũ khí không có cơ bẩm cho người
Trung Hoa quốc gia? Đó có phải là việc làm vô tình không? Tiến sĩ Stanley
Monteith viết trong cuốn Brotherhood of Darkness: người ta không thể đọc hết bản
báo cáo của Ủy Ban Điều Tra McCarran mà không đi đến kết luận rằng, Chính quyền
Truman đã phản bội người Trung Hoa Quốc Gia để đưa Mao Trạch Đông lên cầm quyền
tại Trung Hoa.
Để theo dõi việc cộng sản thống trị toàn Trung Hoa năm 1950,
Thượng Viện Mỹ đã chỉ định một Ủy Ban Đặc Biệt do Dân Biểu Carrol Reece cầm đầu
để điều tra xem tại sao Bộ Ngoại Giao lại ra lệnh cấm vận vũ khí cho phe Quốc
Gia Tầu và đưa Mao Trạch Đông lên cầm quyền tại Trung Hoa. Ủy Ban Điều Tra đã
khám phá ra rằng hai tổ chức Rockefeller Foundation và Ford Foundation đã tài
trợ cho các chương trình phát thanh tuyên truyền của CS nhiều năm trước khi
Trung Hoa sụp đổ. Ủy Ban bèn điều tra các tổ chức được miễn thuế này để xác định
người ta tài trợ cho CS bằng cách nào. Có nhiều khía cạnh bị điều tra, nhưng những
việc liên quan trực tiếp đến chiến tranh quốc cộng tại Trung Hoa, DB Reece khám
phá ra hai sự kiện:
Thứ nhất, có nhiều tổ chức lớn (large foundation) đã thực sự
cổ võ chủ nghĩa cộng sản và Xã Hội Chủ Nghĩa.
Thứ hai, các tổ chức (foundations) đã gây ảnh hưởng đến
chính sách của Bộ Ngoại Giao, và do đó phải chịu trách nhiệm phần lớn việc đưa
CS lên nắm chính quyền tại Trung Hoa.
Một nhóm các nhà đại tư bản lập kế hoạch ngăn chận cuộc điều
tra của Ủy Ban Reece. Reece khám phá ra rằng nhũng tổ chức được miễn thuế này
đã hoạt động sát cánh với tập đoàn (trust) Rhodes. Các học giả của tập đoàn này
được điều phối vào các vị trí chiến lược trong chính quyền Hoa Kỳ. Nhiều người
có thế lực đem hết cố gắng chống lại cuộc điều tra của DB Reece. Họ áp lực lên
các nhà lãnh đạo Quốc Hội phải chấm dứt cuộc điều trần. Kết quả như ông René
Wormser, cố vấn của Ủy Ban Reece viết: Tôi cảm thấy công việc còn để lại nhiều
vấn đề chưa được trả lời, trong đó điều quan trọng nhất là, với ý đồ gì, nếu
có, các tổ chức lớn lại đem tiền bạc giúp và tiếp tay cho các khuynh hướng
Marxist tại Mỹ và làm tàn lụi đi sự yêu mến lối sống của họ mà người dân Mỹ nên
có?
Mỹ và Việt Nam
Còn câu hỏi Hoa Kỳ có thực tâm giúp người VN chống VGCS
không thì người viết khỏi cần phải dài dòng. Mỗi người VN dù lớn hay nhỏ đều đã
có đủ hiểu biết và tài liệu để tự trả lời cho chính mình.
Thời Đệ I Cộng Hòa, khi người Mỹ ngỏ ý muốn trực tiếp can
thiệp bằng vũ lực trước vấn đề CS miền Bắc xâm lăng VNCH. Họ muốn đổ quân đội Mỹ
vào VN để đánh CS. TT Ngô Đình Diệm yêu cầu giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cần phải ký
kết một bản Hiệp Ước An Ninh hỗ tương thì vấn đề đó mới danh chánh ngôn thuận,
và CSVN không xuyên tạc được, nhưng Mỹ từ chối. Sự thể cho thấy ngay từ đầu cái
dã tâm đen tối của người Mỹ, nên TT Ngô Đình Diệm từ chối. Từ đó người Mỹ quyết
tâm diệt trừ TT Diệm để thực hiện âm mưu của mình. Khi loại trừ được TT Ngô
Đình Diệm rồi, Mỹ ngang nhiên đổ quân vào VN mà không cần có một chính quyền
VNCH nào cho phép. Người Mỹ tự ý vào, rồi tự ý nắm quyền chủ động cuộc chiến,
cũng như sau này việc thương thuyết hòa bình. Trong cuộc chiến, nước Mỹ đã mất
58 ngàn quân sĩ tử trận, nhưng điều bỉ ổi nhất mà nhiều người không biết là 80%
đồ tiếp tế của Liên Sô cho VGCS trong thời gian chiến tranh là do các hãng Hoa
Kỳ đầu tư và sản xuất tại Nga. Như thế có phải là chính người Mỹ đã gián tiếp
giết người Mỹ không?
Khi người Mỹ đã hoàn tất mục tiêu thầm kín của mình rồi thì
họ tìm cách rút chân ra khỏi VN. Bằng nhiều cách và nhiều thủ đoạn, người Mỹ đã
thực hiện ý định nhiều khi khá lộ liễu. Cuộc hành quân Lam Sơn 79 Quân Lực VNCH
đánh sang Nam Lào, người Mỹ đã bí mật thông báo kế hoạch và phóng đồ hành quân
cho Hànội. Mục đích của hành động tồi bại này là để làm suy yếu khả năng chiến
đấu của các đại đơn vị tinh nhuệ và thiện chiến nhất của QLVNCH. Ý đồ phản bội
miền Nam rõ rệt nhất của Mỹ là năm 1972, khi Kissinger sang thăm Bắc Kinh, y đã
nói với Mao Trạch Đông rằng nước Mỹ sẵn sàng chấp nhận một nước VN thống nhất
dưới quyền cai trị của CS miền Bắc. Mao ngu gì mà không chịu? Để thực hiện ý đồ
nàỵ, chính quyền Mỹ đã giàn dựng cả một chiến dịch ta thưòng gọi là “phong trào
phản chiến” bôi nhọ và vu cáo miền Nam, làm cho dư luân Mỹ chán ghét chiến tranh
để lấy cớ rút lui. Biện pháp cuối cùng là cắt viện trợ và “embargo” quân dụng
và vũ khí đạn dược cho QLVNCH. Biện pháp xẩy ra giống y chang như Mỹ đã làm đối
với quân đội của Tưởng Giới Thạch. Để che mắt thế giới, và để đánh lừa cái
lương tâm bất chính của mình, người Mỹ đã muối mặt chở đến Saigon 6 chuyến máy
bay vận tải toàn đồ quân trang như bi đông đựng nước, giầy trận, áo mưa v.v.
Vào những giờ phút sinh tử của cuộc chiến, người Mỹ chở súng không có cơ bẩm
cho người Trung Hoa. Nay người Mỹ chở poncho, bidong v.v. cho VN thay vì vũ khí
đạn dược. Trên thế giới này có lẽ chỉ có người Mỹ mới có cái tính khôi hài qua
việc làm bôi bác như thế mà thôi.
Nước láng giềng Cambodia của chúng ta cũng giống như chúng
ta: bị người Mỹ bịp, và vì thế ông Sirik Matak mới có lá thư gởi cho ông đại sứ
Mỹ như chúng tôi ghi lại trên trang đầu của bài viết. Phần đông chúng ta vẫn tưởng
nước Mỹ thay đổi chính sách mỗi khi có một tổng thống mới lên cầm quyền. Vì thế
mới bị lầm, và bị lầm rồi mà vẫn cứ hy vọng. Nghị sĩ Barry Goldwater cho biết:
khi một tổng thống lên nắm quyền, đó chỉ là vấn đề thay đổi nhân sự, nhưng
chính sách không thay đổi. Ông đưa ra thí dụ, thời TT Nixon Cộng Hòa, Henry
Kissinger là thành viên CFR, người được Nelson Rockefeller đỡ đầu, nắm chính
sách ngoại giao. Khi Jimmy Carter Dân Chủ đắc cử, Kissinger được thay thế bởi
Brzezinski. Brzezinski cũng là thành viên CFR và được David Rockefeller che chở.
Với những dẫn chứng lịch sử trên, và với kinh nghiệm bản
thân của mỗi người VN, chúng ta có thể khẳng định rằng chính sách của nước Mỹ đối
với cộng sản không thay đổi. Chính sách đó như Ts Stanley Montieth cho biết là:
Cộng sản và tư bản luôn luôn cộng tác với nhau, bởi vì cả hai cùng được thúc đẩy
bởi một đông lực tinh thần, và cả hai cùng tìm kiếm một mục tiêu (communists
and capitalists have always worked together because they are motivated by the
same spiritual force, and they seek the same goal.) Người viết xin thêm vào một
ý kiến riêng để câu nói được trọn nghĩa: mục tiêu đó là khống chế toàn bộ đời sống
con người và xã hội.
Kết luận
Không biết dân tộc Khmer có được mấy trăm, mấy ngàn năm văn
hiến mà sản sinh ra được cả một nội các chính phủ đáng kính và đáng khâm phục
như thế. Họ thà chết chứ không chạy theo những kẻ đã lừa bịp họ. Thế mà trước
đó báo chí Mỹ la rùm beng chính quyền Lon Non tham nhũng số một trên thế gian
này. Nếu quả như báo chí dòng chính Mỹ tố cáo, các ông Lon Non, Sirik Matak
v.v. đem tiền bạc tham nhũng sang Mỹ hưởng vinh hoa phú quí không sướng hơn ở lại
để mất đầu hay sao! Biết chắc chắn mình sẽ không thọ khi rơi vào tay Khmer Đỏ,
trước khi chết thủ tướng Sirik Matak đã bầy tỏ sự hối tiếc vì tin vào người Mỹ.
Thực ra, không phải chỉ có ông Matak tin vào người Mỹ, mà cả
nước Việt Nam (VNCH) chúng tôi tin vào người Mỹ. Nhưng khi ông mở mắt bừng tỉnh
thì đã quá muộn rồi. Ông Sirik Matak phạm sai sầm, nhưng cuối cùng khi nhận ra
mình sai lầm, ông đã thành khẩn nhận sai lầm và tỏ ra hối hận. Chỉ có người VN,
chưa thấy ai nhận ra sự sai lầm của mình và tỏ ra hối hận như ông Sirik Matak.
Tệ hại hơn nữa là cho đến bây giờ vẫn còn có rất nhiều người u mê tin rằng người
Mỹ chống cộng, và trông đợi hão huyền rằng người Mỹ sẽ giúp người VN chống
Trung Cộng, đòi đất, đòi biển.
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất