Bà quả phụ Nguyễn Văn Ðương và
con trai Nguyễn Viết Xa khấn vái vong linh của chồng và cha trên đỉnh đồi 31, Hạ
Lào. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)
Bà Trần Thị Mai, quả
phụ cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðương, và người con trai, anh Nguyễn Viết Xa, đã đi
thăm nơi cố thiếu tá tử trận ở Hạ Lào. Bà bốc nắm đất trên ngọn đồi ở nước Lào,
bỏ vào cái khăn vải đỏ, gói lại để mang về nước. Bà coi nắm đất như di cốt của
người chồng tử sĩ, đưa tới ban thờ trong chùa, rồi mai mốt bình đựng tro hỏa
táng của bà, khi bà qua đời sẽ đặt bên cạnh, vợ chồng bên nhau mãi mãi.
Câu chuyện phóng viên Việt Hùng kể làm nhiều người rơi lệ.
Sau 45 năm, bà Mai và con trai mới thực hiện được điều mong ước, đi thăm ngọn Ðồi
31, nơi Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðương đã nằm xuống. Tất cả là nhờ quý vị độc giả nhật
báo Người Việt hết lòng ủng hộ, góp chi phí cho chuyến đi “thăm mộ” người chiến
sĩ đã thành bất tử qua bài hát “Anh Không Chết Ðâu Anh” của cố nhạc sĩ Trần Thiện
Thanh. Tấm lòng của người Việt khắp nơi hướng về một gia đình tử sĩ, thể hiện
vào trước ngày 30 Tháng Tư, ngày đau thương trong lòng người Việt Nam, cho thấy
sau 41 năm chúng ta vẫn hãnh diện về các chiến sĩ đã đem xương máu bảo vệ phần
đất nước được sống tự do, trước khi bị bạo quyền cướp đoạt.
Ðồng bào miền Bắc cũng nên nghe những lời bà Trần Thị Mai khấn
khứa khi thắp những nén hương cắm rải rác trên ngọn Ðồi 31. Bà khóc chồng,
nhưng bà cũng thương xót bao nhiêu tử sĩ cả hai bên.
Bà Mai nói: “Tôi là vợ của người lính Việt Nam Cộng Hòa,
nhưng tôi cũng cầu nguyện cho vong linh của các người lính Bắc Việt. Chiến
tranh đã đi qua, mong các anh hãy tha thứ cho nhau.” Bà Mai nói lên tâm sự của
hầu hết người Việt Nam bây giờ. Tất cả chúng ta để tang cho những người lính miền
Nam và miền Bắc, tất cả đều là người Việt Nam. Lịch sử sẽ phán xét những kẻ có
tội gây ra cuộc chiến tranh tàn sát hàng triệu người cùng một dân tộc. Ngày 30
Tháng Tư là dịp chúng ta suy nghĩ về trách nhiệm đó.
Cuộc cuộc hành quân Lam Sơn 719 là một thất bại quân sự lớn
của miền Nam. Trong trận này, 31,000 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã được gửi
qua vùng núi non ở Nam Lào. Có khoảng 10 ngàn quân đội Mỹ yểm trợ bằng không
quân và pháo binh, nhưng không được phép tham gia, nên họ vẫn đóng bên trong
biên giới Việt Nam. Quân Bắc Việt có 50,000 người. Trong các tài liệu của miền
Bắc vẫn nói là có quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tham dự trận chiến,
nhưng đó là một ngụy tạo, ngay trong Wikipedia cũng phạm sai lầm này. Mặt Trận
Giải Phóng chỉ là cái bình phong chính trị, hoàn toàn không có quân ở Hạ Lào.
Cuộc hành quân Lam Sơn-719 bắt đầu vào ngày 8 Tháng Hai năm
1972; nhưng theo tài liệu của miền Bắc, ngay từ ngày 26 Tháng Giêng quân Bắc Việt
đã chuẩn bị chờ đợi một cuộc tấn công. Vào Tháng Ba, trên chiến trường quân Bắc
Việt đông gấp rưỡi quân miền Nam. Máy bay và trực thăng mất lợi thế vì mây mù
thấp và hỏa lực phòng không của quân miền Bắc được bố trí rất mạnh trên các ngọn
đồi.
Nhiều người đã thuật lại, đã phân tích về cuộc chiến, nhiều
kinh nghiệm đã được người trong cuộc kể lại. Tôi cũng được nghe một câu chuyện
do một sĩ quan trong quân đội miền Bắc kể lại. Vì người kể vẫn đang sống ở Hà Nội
vào lúc này, Tháng Tư năm 2016, cho nên tôi xin không tiết lộ tên họ, chỉ gọi tắt
là anh Tư.
Anh Tư là một sĩ quan pháo binh miền Bắc, đã giải ngũ sau
năm 1975 và đi du học ở Nga (lúc đó còn là Liên Xô), rồi về nước làm công việc
kỹ thuật, hoàn toàn dân sự. Tôi gặp anh tình cờ, khi tham dự một cuộc hội thảo ở
Ðại Học Utah trước đây 15 hay 20 năm, về một đề tài nào đó thuộc phạm vi văn
hóa, hay ngôn ngữ, bây giờ tôi cũng quên rồi; chỉ nhớ cuộc hội thảo không nói
gì tới chiến tranh Việt Nam. Sau vài lần gặp gỡ, chúng tôi ngồi uống la de với
nhau sau bữa cơm tối, những người cùng lứa tuổi dễ dàng đưa tới câu hỏi: Thời
chiến tranh anh làm gì mà vẫn còn sống tới bây giờ?
Anh Tư kể đáng lẽ anh không phải đi lính, vì anh là con một.
Nhưng thân phụ anh lại là cấp tướng, cho nên anh vẫn nhập ngũ, một phần cũng để
giữ sĩ diện cho gia đình. Một ngày đầu năm 1972, đơn vị pháo binh của anh được
lệnh di chuyển vào miền Trung. Anh kể, cấp trên giải thích rằng có tin “quân Mỹ
sắp đổ bộ đánh Quảng Bình.” Nhưng khi vào đến Quảng Bình thì tất cả được lệnh
di chuyển sang Lào. Tất cả cuộc hành quân này thực hiện ban đêm, đi trong vùng
rừng núi, không ai được tiếp xúc với dân chúng bên ngoài.
Khi qua đến đất Lào, đơn vị pháo binh của anh Tư được lệnh bố
trí súng và tính toán phương hướng để nhắm vào một ngọn đồi trong vùng. Anh
không biết tại sao họ lại chọn ngọn đồi đó, làm lính chỉ biết tuân lệnh. Anh
còn nhớ đã có đủ thời giờ để đo đạc cả hướng gió và tốc độ gió, điều chỉnh các
khẩu súng. Nhưng đến ngày trận chiến bắt đầu thì ngọn đồi đó là nơi quân nhảy
dù miền Nam chọn để đáp xuống lập phòng tuyến.
Từ lần gặp gỡ tình cờ bên chai bia đó, tôi không bao giờ gặp
lại anh Tư. Nếu tôi có kể sai, xin anh tha lỗi. Nhưng một điều ám ảnh tôi từ đó
tới giờ là tại sao quân miền Bắc lại “biết trước” địa điểm mà quân miền Nam đã
chọn? Có thể nào kế hoạch hành quân, đến bản đồ hành quân đã bị tiết lộ hay
sao? Có những điệp viên Việt Cộng trong dinh tổng thống ở Sài Gòn, hay ở Bộ Tổng
Tham Mưu, hoặc trong bộ tham mưu MACV của quân đội Mỹ?
Nhưng có thể họ không cần có những bản đồ hành quân của quân
miền Nam. Họ chỉ cần biết tin có cuộc hành quân và địa điểm là vùng tỉnh Xê Pôn
bên Lào. Khi quan sát địa thế vùng này, những quân nhân chuyên nghiệp có thể
đoán trước phe tấn công sẽ chọn địa điểm nào để đổ quân. Họ cũng có thể đoán
hai, ba địa điểm và đặt súng lớn nhắm vào tất cả các ngọn đồi đó, đơn vị của
anh Tư được chỉ định nhắm vào một trong các mục tiêu đó. Anh Tư kể rằng khi tiến
tới ngọn đồi mới chiếm, anh còn được nghe một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa còn sống
khen rằng “các anh đánh pháo giỏi!” (Ðánh pháo là một thuật ngữ quân sự miền Bắc,
chắc người sĩ quan miền Nam nói “pháo kích.”)
Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðương đã tử trận trên Ðồi 31, cùng với
bao nhiêu quân nhân Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù sau khi cầm cự dưới các trận pháo kích
ngày đêm của quân địch. Không biết những họng súng đơn vị pháo binh của anh Tư
có nhắm vào ngọn Ðồi 31 hay không? Bài tường thuật của Việt Hùng trên Người Việt
kể lời một người tại chỗ cho biết số quân miền Bắc chết trên ngọn Ðồi 31 đông
hơn quân miền Nam nhiều. Họ đã hy sinh để đưa đến kết quả nào?
Anh Tư bây giờ nghĩ gì về cả cuộc chiến tranh Việt Nam? Tại
sao người Việt Nam phải giết nhau, như ông Lê Duẩn nói, “Ðánh miền Nam là đánh
cho Liên Xô, cho Trung Quốc!” Khẩu hiệu “Chống Mỹ Cứu Nước” có nghĩa gì không
trong khi cả đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay đang tìm đường làm thân với nước Mỹ?
Trong khi kẻ thù nguy hiểm nhất, độc ác nhất của dân tộc là Cộng Sản Trung Quốc
đang lấn chiếm biển, đảo, và đánh, giết các ngư dân Việt Nam? Cuộc chiến tranh
đã đưa “Bên Thắng Cuộc” lên ngôi cai trị toàn thể nước Việt Nam, nhưng họ đã
làm gì cho đất nước này? Hay là chính họ cũng “sắp chết” như bài báo Người Việt
hôm qua viết “Ðã 20 ngày kể từ khi cá chết trắng đoạn bờ biển chạy dọc bốn tỉnh
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhưng hệ thống công quyền ở Việt
Nam lúng túng như... sắp chết.”
Nhưng đồng bào miền Bắc có thể yên tâm, những người miền Nam
như bà quả phụ Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðương cũng không nuôi thù hận. Lời bà khấn
vái các tử sĩ cả hai miền nói rõ: “Tuy khác chiến tuyến, nhưng các anh đều đã
hy sinh ở cùng một nơi này. Âu cũng là số phận. Ở thế giới bên kia, mong các
anh hãy là những người bạn tốt của nhau, chứ đừng cầm súng mà chĩa vào nhau nữa.
Tất cả chúng ta đều là người Việt Nam cơ mà.”
“Tất cả chúng ta đều là người Việt Nam cơ mà.” Lời khấn chân
thành của bà Trần Thị Mai là một tiếng nói của hy vọng, của tương lai, cho tất
cả mọi người Việt Nam. Anh Nguyễn Văn Ðương, hương linh anh chứng giám cho tấm
lòng bao dung, độ lượng của người vợ chung thủy, 45 năm sau đã lặn lội qua Ðồi
31 tìm anh, đưa anh về quê cha đất tổ. Anh Không Chết Ðâu Anh. Trần Thiện Thanh
đã nói một sự thật. Anh Không Chết Ðâu Anh!
Ngô Nhân Dụng