Tác giả câu thơ thượng dẫn là một chính khách rất tài tử, và vô cùng mờ
nhạt. Không mấy ai nhớ rằng ông đã từng giữ những chức vụ như Thủ Tướng, Phó
Tổng Thống, và Tổng Thống trong thời Đệ II Cộng Hoà – ở miền Nam Việt Nam.
Dân chúng ở miền đất này thường chỉ nhớ đến Trần Văn Hương như một người lập
dị. Ổng hay đi làm bằng xe đạp, trong thời gian là Ðô Trưởng Sài Gòn, và thỉnh
thoảng lại sáng tác ra những câu thơ (hơi) kỳ cục:
Ngồi buồn gãi háng, dái lăn tăn…
Ở miền Bắc phần lớn quí vị chính khách đều hành nghề cách mạng một cách bền bỉ,
liên lỉ và chuyên nghiệp hơn nhiều. Họ cũng sính chuyện thơ văn hơn, và cách họ
làm thơ (hoặc viết văn) cũng gây lôi thôi phiền phức nhiều hơn – cho cả đống
người!
Khi ngồi buồn, họ không gãi háng. Lúc rảnh rỗi, họ cũng không chịu viết văn
hay làm thơ chỉ để đọc chơi thôi. Văn thơ của họ khiến cho cả nước phải bận
lòng, và không ít người phải bỏ mẹ, hay bỏ mạng! Xin đơn cử một thí dụ, một câu
thơ nổi tiếng hơn, của một chính khách tăm tiếng (và tai tiếng) hơn nhiều:
Bỗng nghe vần thắng vút lên cao…
Nói theo ngôn ngữ của binh pháp thì tác giả câu thơ vừa dẫn, ông Hồ Chí
Minh, là một người cư an tư nguy . Ông Trần Văn Hương thì ngược lại. Ổng cư
nguy tư an. Nói cách khác, và nói theo kiểu miền Nam, là thằng chả lè phè hết
biết luôn!
Nghiêm túc, khẩn trương, hiếu chiến và hiếu thắng…không phải là quan
niệm sống riêng của ông Hồ. Thi
đua lập chiến công dâng Đảng, đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào, một người làm
việc bằng hai, nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài… là chỉ thị của “trên” đưa
xuống và nửa nước bắt buộc phải (triệt để) tuânhành.
Lè phè cũng không phải là thái độ sống chỉ có nơi ông Trần Văn Hương. Ðó là
cung cách chung của hầu hết người dân miền Nam. Sự khác biệt giữa ông Trần Văn
Hương và dân chúng, có chăng, chỉ là mức độ.
Không mấy người dân miền Nam, lúc buồn, chịu ngồi gãi háng (suông) như ông
Tổng Thống. Họ thường vừa gãi háng vừa nhậu lai rai (vài xị) cho vui – nếu là
đàn ông. Họ đánh tứ sắc, đi coi cải luơng, hoặc đi cầm đồ để mua sầu riêng ăn
chơi cho đỡ ghiền – nếu là đàn bà, ở đô thị. Và họ đi Hồng Kông hay Nhựt Bổn
để mua đồ lót và son phấn, nếu là bà lớn. Họ đi buôn lậu (không chừng) nếu là
ông lớn. Và cả đám đều hân hoan chơi tạt lon, thả diều, đá banh, đá bóng, đá
dế, đá cầu, đá kiện, đá cá lia thia hay lắc bầu cua cá cọp – nếu là con nít
nhỏ, ở thành phố.
Chuyện đánh đấm là “chuyện riêng” của môt giới người, tụi lính. Hứng chịu
bom đạn, tai ương của chiến tranh là nỗi bất hạnh riêng của một số người khác
nữa – đám nông dân.
Những chiến dịch hay phong trào hoàn thành kế hoạch nhỏ, nhi đồng cứu quốc,
thay trời làm mưa, quyết tâm thu hoạch vượt chỉ tiêu vụ này vụ nọ… nếu phát
động ở miền Nam (e) sẽ không có người tham gia, và tác giả của chúng – chắc
chắn – sẽ bị dân chúng cũng như báo chí chửi cho… tắt bếp!
Chuyện Nam – Bắc đánh nhau kết thúc ra sao, vào ngày 30 tháng tư năm 1975,
mọi người đều rõ. Viết thêm nửa chữ cũng thừa.
Cuộc chiến tàn. Theo sự hứa hẹn của quí vị lãnh tụ (của phe thắng trận) thì
từ đây ta sẽ xây dựng đất nước gấp muời lần hơn, ta cũng sẽ đi tắt đón đầu nhân
loại, và ta sẽ chuyển đổi từ ăn no mặc ấm qua ăn sang mặc đẹp…
Chuyện dân Việt ăn mặc (sang trọng và đẹp đẽ) ra sao để từ từ rồi tính tới
nhưng riêng về cách họ dùng lon, thay gáo, uống nước thì ngó bộ quá tốn công và
rất…cầu kỳ – theo như ghi nhận của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:
“Lần về phép này Bá có thêm một thứ quà đặc biệt văn minh khác: Những vỏ đồ
hộp nước giải khát các loại. Các mầu xanh, đỏ, hồng, da cam, vàng, lon
Heineken, lon Coca Cola, Pepsi Cola, những lon Tiger, San-Miguel, những lon
nước ngọt đã uống cạn mà trong những lần xuống tầu đi nước ngoài anh lượm được
cho vào túi ni lông mang về…
Anh Vận chọn ra những vỏ đẹp nhất, mỗi loại một chiếc, không móp, không méo,
đem ra giếng súc rửa sạch rồi bầy vào tủ. Và nhặt bốn vỏ lon khác, mỗi chiếc
một mầu bảo lũ trẻ con mài trên nền xi măng trong nhà. Mấy đứa trẻ lao vào mài
theo đúng hướng dẫn của anh. Tiếng sào sạo sạo sạo ghê người. Chẳng mấy chốc,
cái nắp hộp rời ra. Anh xếp bốn chiếc vỏ hộp lên bàn, nở nụ cười mãn nguyện:
– Làm cốc uống nước…
Những chiếc vỏ hộp trên bàn, trong tủ, những dấu vết ấy của văn minh làm nhà
anh cứ sáng trưng lên, khác hẳn mọi nhà chung quanh. Nhà anh đã có hơi hướm của
một thế giới khác, một thời đại khác khi các nhà chung quanh vẫn còn đang triền
miên thời làm nương, thời lúa nước.
Và đến khi lũ trẻ được thoải mái chơi nghịch những vỏ lon còn lại mới thật
tưng bừng. Đúng là một ngày hội…” (Bùi Ngọc Tấn. Biển Và Chim Bói Cá.
Hội Nhà Văn. Hà Nội: 2008, 436 – 437).
Điều kiện sống, cũng như niềm vui “tưng bừng” trong “ngày hội” của dân Việt,
như vừa được mô tả – dường như – có làm cho một số người cảm thấy bất an, hoặc
không được hài lòng cho lắm. Tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá (trong một
buổi hội thảo, do công ty Nhã Nam tổ chức, vào ngày 20 tháng 3 năm 2009) đã
được “bình” và “phê” như sau:
“… chi tiết rất quan trọng trong tiểu thuyết. Nhưng đưa quá nhiều chi tiết
mà chưa được tổ chức một cách chặt chẽ như Bùi Ngọc Tấn, theo anh không hẳn đã
là một thành công. Thanh Sơn cũng nhấn mạnh, sự ngồn ngộn của chi tiết khiến
độc giả rất khó đọc, rất mệt để đọc đến những dòng cuối cùng.”
Có lẽ, người ta chỉ cảm thấy bớt mệt (và thở phào nhẹ nhõm) khi Hà Linh –
người viết bài tường thuật thượng dẫn – cho biết thêm rằng “Biển và chim bói cá
lấy bối cảnh thời bao cấp.” Thiệt là mừng hết lớn.
Đó là một thời đã qua rồi!
Lịch sử đã sang trang. Chuyện cầu cạnh, bon chen, cậy cục, vay muợn, chạy
chọt cho có cơ hội được bước xuống tầu viễn dương – làm một chuyến viễn du, hay
nói một cách lịch sự và lịch sử là Đông Du – đi đến những chân trời xa
lạ (để mang về những cái chai và lon.. rỗng) không còn phải là đặc quyền của
riêng một giới người nào nữa.
Hai muơi năm sau, kể từ lúc “Đảng dũng cảm và quyết tâm đổi mới,” vào năm
2006, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng còn lớn tiếng hô hào toàn dân “hãy bước ra biển
lớn.” Mệnh lệnh của ông đã khiến cho dư luận (hết sức) xôn xao và (vô cùng)
phấn khích – trong một thời gian rất dài – qua diễn đàn Vươn Ra Biển Lớn, trên
Tuổi Trẻ Online.
Nhiều năm sau nữa, sau khi thuyền (đã) ra cửa biển, cuộc sống – xem chừng –
cũng không khác trước là bao. Hãy thử đọc một đoạn văn khác, của một ngòi viết
khác, về sinh hoạt của một vùng đất khác – ở Việt Nam – bây giờ:
“Cả bản xôn xao khi thấy người lạ xuất hiện. Đám trẻ con hầu hết không quần
áo, hoặc trên mình chỉ mang một trong hai thứ, mặt mày chúng trông bẩn thỉu,
lem luốc và chi chít vết ruồi vàng bọ chó cắn.
Tôi hỏi thăm đường đến nhà mấy giáo viên cắm bản, nhưng chẳng có ai biết nói
tiếng Kinh cả. Nhìn về phía cuối bản, tôi bỗng thấy một lá cờ đỏ bay phấp phới,
đoán rằng đấy chắc là khu vực lớp học, tôi lại nặng nề lê bước về phía đó. Mấy
thầy cô giáo thấy tôi xuất hiện, họ không khỏi ngỡ ngàng. Với họ, sự xuất hiện
của người Kinh ở bản biên giới này hình như hiếm lắm…
Có lẽ cuộc sống người dân tộc La Hủ ở Pa Ủ cũng đơn giản như chính những
ngôi nhà mái tranh vách phên của họ. Đơn giản đến lo ngại như những liếp phên
cứ rung lên bần bật bởi gió rừng. Ở những túp lều bé nhỏ đến chật chội vì quá
đông người đó, mỗi nơi lại có một câu chuyện về hoàn cảnh và những số phận con
người. Cuộc sống của mỗi gia đình ngày hai bữa sáng, tối phải lót dạ một cách
dè dặt với canh sắn, ngô đồ, còn măng và rau sắn thì dường như ngự trị bữa ăn…,
để có một nồi cơm độn sắn cũng hết sức khó khăn! (“Thương Lắm Những Búp Non Ở
Trên Cành”) Mạnh Hà, phóng viên TTXVN tại Lai Châu).
Ảnh: Báo
Lai Châu
Thôi chết mẹ! Vậy là khi tầu hạ thủy – vì lu bu nhiều chuyện quá – Đảng và
Nhà Nuớc đã quên (hú) những người dân ở miền sâu, miền xa, miền rừng núi rồi.
Đúng không?
– Thưa không! Cả đống còn đang đứng (lóng ngóng) trên bờ, chớ đâu có riêng
chi mấy đám dân bản địa.
Trong một cuộc chất vấn dành cho những đại biểu quốc hội, Bộ Trưởng Nông
Nghiệp Cao Đức Phát cho biết ở thôn quê “vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ
được ăn cơm khi ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm!”
Như vậy là đám nông dân, ở miền xuôi, cũng bị bỏ lại luôn sao?
– Chắc bi họ đông quá nên mang theo (e) quá tải chăng?
– Thế còn đám công nhân?
Xin đọc qua đôi dòng tường thuật của ký giả Nguyễn Bay:
Một ngọn đèn dầu, cái giỏ nhựa đựng đồ nghề đấm bóp, giác hơi, chiếu
cói, gối hoa trải sẵn hoặc chỉ là một tấm áo mưa. Thợ giác hơi quanh KCN Tân
Tạo đa số là nữ với các ‘chiếu’ trên vỉa hè, ven đường, thậm chí chỉ một mô đất
giữa ruộng; hoạt động từ 18g30 đến 3-4 giờ sáng…
Gần một năm nay, các “chiếu” giác hơi ngày một dài thêm hàng cây số
(đường đi Long An, An Sương). Lúp xúp trong bụi cây, bờ cỏ, chúng tôi nhận ra
nhiều thợ vốn là công nhân… Những khi tan ca, họ lẫn vào dòng thợ ‘chào hàng’…
Tiền công 10.000 – 15.000 đồng/lần, bằng nửa ngày công… làm thợ.
Dẫy chiếu “ngày một dài thêm” vì vật giá mỗi lúc một tăng mà đồng lương thì
không. Lương bổng công nhân Việt Nam không thể nâng cao hơn vì những người lãnh
đạo ở xứ sở này đã lựa chọn một … quốc sách thấp – theo lời ông Hồ Xuân Lâm, trưởng phòng quản lý lao động các khu chế
xuất – khu công nghiệp TP.HCM:
Chúng tôi đã có cuộc họp với Hiệp hội Doanh nghiệp Đài Loan và tư vấn
cho họ hãy trả lương cao hơn để tránh đình công. Họ nói là rất muốn trả cao hơn
nhưng không thể vì quy định lương của Chính phủ Việt Nam quá thấp, các đối tác
nước ngoài dựa vào đó kềm giá đơn hàng nên có muốn cũng không thể tăng hơn được.
Nói tóm lại – và vẫn nói theo kiểu miền Nam – là thuyền đã ra cửa biển …
mình ên! Nhắc đến miền Nam, tôi lại chợt nhớ đến những chuyến tầu (bay) vội vã
rời khỏi Sài Gòn – vào tháng Tư, bốn muơi năm trước – năm 1975. Trên một số
những con tầu này chỉ có qúi ông qúi bà tai to mặt lớn (cùng với của cải, thân
nhân và gia nhân của họ) mà thôi.
Bây giờ, sau khi bước ra biển lớn, kiểm điểm lại cũng chỉ thấy duới thuyền
không có ai khác – ngoài những kẻ cầm quyền, cùng với hành lý, thân nhân và gia
nhân của họ. Thuyền đi càng xa, khoảng cách giàu nghèo (rõ ràng) càng rộng. Ông
bạn Lê Diễn Đức gọi đó là sự đểu cáng thời vươn ra biển lớn.
Phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục
triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để đổi lấy sự đểu cáng
như thế thì (đ… mẹ) không chửi thề sao được chớ.
Tưởng Năng Tiến