Chiếc
tàu Cap Anamur 2 cập cảng Hamburg năm 1986
với
286 thuyền nhân Việt Nam trên tàu.
Kể từ khi chiến tranh kết thúc vào cuối tháng 4 năm 1975 cho
đến nay, đa số người dân trong nước vẫn luôn ôm ấp và thực hiện giấc mơ được
định cư ở nước ngoài. Mới đây nhất, Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa đề
nghị Chính phủ Việt Nam phải làm cho đất nước thực sự trở thành nơi đáng sống
chứ không phải muốn ra đi. Hòa Ái sơ lược các làn sóng di dân của người Việt
suốt hơn 4 thập niên qua cũng như tìm hiểu nguyên nhân vì sao giấc mơ này vẫn
còn đó dù chính quyền Hà Nội luôn cho rằng Việt Nam độc lập, ổn định và phát
triển.
Theo số liệu thống kê của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, từ
sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho đến cuối năm 1995, có khoảng gần một triệu
người Việt Nam bỏ nước ra đi và ước chừng phân nửa trong số này bị thiệt mạng
trên đường vượt biên. Cuộc vượt thoát trốn chạy chế độ cộng sản của người Việt
trong 2 thập niên đầu tiên kể từ khi chiến tranh kết thúc đã gây chấn động dư
luận thế giới và Hoa Kỳ cũng như các quốc gia Tây Âu dang tay đón nhận những
người Việt may mắn còn sống sót trong hành trình tìm tự do của họ. Từ cuộc di
dân mang tính lịch sử này dẫn đến nhiều đợt di dân của vài triệu người Việt
khác suốt 4 thập niên qua theo chương trình bảo lãnh đoàn tụ gia đình.
Bên cạnh làn sóng di dân vừa nêu, còn có các làn sóng di dân
khác của người Việt được dư luận trong và ngoài nước biết đến; bao gồm Chương
trình tái định cư cựu tù cải tạo được phóng thích, gọi tắt là Chương trình H.O
do Hoa Kỳ bảo trợ khoảng hơn 200 ngàn cựu nhân viên và quân nhân Việt Nam Cộng
Hòa bị 3 năm tù trở lên cùng thân nhân. Ngoài ra, có khoảng 100 ngàn trẻ lai có
cha là công dân Hoa Kỳ và gia đình sang Mỹ định cư theo chương trình nhân đạo có
tên “Chương trình con lai Mỹ”.
Một làn sóng di dân khác nữa của người Việt trong 4 thập
niên mà ngày càng có chiều hướng gia tăng mạnh đó là cuộc trốn chạy xin tị nạn
của du học sinh và công nhân xuất khẩu lao động khi khối Cộng sản Đông Âu sụp
đổ. Số liệu không chính thức Đài ACTD thu thập được vào thời điểm đầu thập niên
1990 có khoảng 300 ngàn người sống rải rác ở Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary,
Đông và Tây Đức… Số liệu mới nhất cho thấy nhiều gia đình ở các quốc gia này
gồm đủ cả 3 thế hệ, trong đó có gia đình lên đến 80 thành viên.
Sau khi Chính phủ Hà Nội áp dụng chính sách “Đổi mới” vào
năm 1986 theo cơ chế “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, xã hội
Việt Nam thay đổi thông thoáng hơn trong nhiều lãnh vực, đời sống người dân
được thoải mái hơn; thế nhưng vẫn còn có nhiều người Việt muốn định cư ở nước
ngoài và họ tìm mọi phương cách ra đi hợp pháp.
Một làn sóng di dân đặc biệt gây chú ý trong dư luận hơn 2
thập niên qua phải kể đến trường hợp hàng trăm ngàn phụ nữ Việt lấy chồng ngoại
quốc để ra đi có sự đổi đời, nôm na gọi là “Cô dâu Việt”. Và còn một làn sóng
di dân âm thầm mà Nhà nước Việt Nam gọi là “hiện tượng chảy máu chất xám” trong
các thập niên vẫn là vấn đề nan giải cấp quốc gia như Đại biểu Quốc hội Trương
Trọng Nghĩa phát biểu trong buổi họp Quốc hội mới đây, vào sáng hôm mùng 1
tháng 4, rằng:
Những người vượt biển tìm tự do
“Hiện nay nhiều trí thức giỏi không về nước làm việc, doanh
nhân thành đạt muốn ra đi, một bộ phận cán bộ, công chức về hưu hay đương chức
cũng tìm cách cho mình hay con cháu mình định cư ở nước ngoài.”
Tính đến năm 2012, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cho biết có hơn
100 ngàn du học sinh Việt Nam học tập và làm việc ở 49 quốc gia, trong đó có
đến 90% du học tự túc và nhiều người trong số họ đã không về nước. Câu hỏi đặt
ra là hơn ai hết, họ sẽ có điều kiện sống tốt tại quê nhà nhưng vì sao không
trở về mà lại chọn định cư ở nước ngoài? Để trả lời câu hỏi này, Đài RFA tiếp
xúc với một số trí thức trẻ, những người quyết định tìm cơ hội ở lại sinh sống
và làm việc nơi quốc gia họ đã từng du học, và được họ cho biết không có sự lo
lắng nào về đời sống kinh tế nhưng môi trường làm việc ở Việt Nam sẽ rất khó
thích nghi, đặc biệt đối với những người làm việc trong lãnh vực khoa học. Từ
Anh Quốc, Tiến sĩ An Hà nêu lên quan điểm của mình vì sao không trở về nước:
“Đối với những người nghiên cứu khoa học thuần túy thì việc
về nước đúng là lãng phí. Bởi vì nghiên cứu khoa học cần sáng tạo, cần nghĩ
điều người khác không dám nghĩ, làm những điều người khác chưa dám làm. Tuy
nhiên ở nước mình thì người nghĩ những điều người khác không dám nghĩ và làm
những việc người khác không dám làm thì khó lắm. Nói chung guồng máy không hoan
nghênh những người dám nghĩ dám làm như thế. Nghiên cứu khoa học thì ở đâu cũng
có cái hay và có cái dở nên nói gọi là khác biệt. Không phát huy được trong
công việc và suy nghĩ khác cách suy nghĩ thông thường của Việt Nam nên khó hòa hợp và hội nhập, không còn phù hợp với môi
trường đó nữa.”
Là người có cơ hội tiếp xúc nhiều với giới trí thức Việt Nam
thuộc thành phần di dân của “hiện tượng chảy máu chất xám”, GS. TS. Nguyễn Văn
Tuấn, Giảng viên cao cấp tại Đại học New South Wales, ở Úc, nói với Đài ACTD
ông nhận được rất nhiều chia sẻ từ giới trí thức cho đến những gia đình trung
lưu tại Việt Nam cho biết họ muốn định cư ở nước ngoài vì tương lai tươi sáng
hơn cho bản thân cũng như con cháu được sống trong xã hội dân chủ văn minh và
pháp quyền. GS. Nguyễn Văn Tuấn kể lại:
“Tựu trung lại hầu như những người tôi tiếp xúc, ai cũng
quan tâm về sự tụt hậu của đất nước mình. Họ so sánh với Thái Lan, Hàn Quốc và
Singapore… Họ nói ‘từ năm 75, Việt Nam
đâu khác các nước đó gì đâu; thế mà chỉ 40 năm qua mình tụt hậu so với họ
quá xa, thậm chí hàng trăm năm.’ Và họ cảm thấy tuyệt vọng, bất lực vì không có
cách gì để đóng góp giúp đất nước vươn lên.”
Chính phủ Việt Nam vẫn chưa thể tìm ra giải pháp hiệu quả để
thu hút người tài trở về nước hay ngăn chặn, làm giảm thành phần trí thức và
những gia đình di dân không phải vì tiền mà vì cảm thấy không vui, không an
toàn về pháp lý, các quyền tự do dân chủ không bảo đảm đầy đủ và lo sợ đất nước
bị lệ thuộc nên phải ra đi.
Đối với tầng lớp người dân có hoàn cảnh nghèo khó thì được
ra nước ngoài dù trong thân phận xuất khẩu lao động, làm ô sin hay cô dâu bất
đắc dĩ… vẫn là một giấc mơ đổi đời và họ sẵn sàng chớp lấy một khi có cơ hội dù
phải đánh đổi bất chấp thứ gì như những đồng bào của họ từng dám liều chết hơn
40 năm trước đây khi đặt chân lên thuyền hướng ra biển cả.
Hòa
Ái