Ngày… tháng…
Trước tiên, Thuỷ có tin tới chữ định mệnh? Tôi không định ca cẩm về thứ gì
to tát, chỉ nói tới những chuyện cỏn con.
Thuỷ tin chứ anh, không tin không được, khẳng định thế, đóng đinh chẳng rút
ra được ý nghĩ kia. Gia đình Thuỷ nhiều lần vượt biển đều thất bại, từ bãi bờ
trong Nam đi dần ra và lần cuối vùng biển của địa phận Huế đã chế ngự tai ương,
êm đẹp cho cuộc viễn du tạm gọi xuôi chèo mát mái.
Hèn gì giọng nói Thuỷ mang nặng âm hưởng người Sài Gòn, trong khi ở Hồng
Kông đa phần chúng sinh đều gốc gác là dân miền Trung, tách riêng với đám người
đến từ phương Bắc. Nghe Thuỷ nói và có khi tôi để cảm tình chạy xiêu lạc thất
thoát vào trong ngữ điệu đó. Đừng cười, tôi thực lòng mà!
Thuỷ cười vì nhớ lại, ngay từ đầu, linh tính mình đã không sai trật về một dự
cảm. Sự tử tế của anh khi đó làm người khác phải gợn lòng.
Tôi thực sự là đứa tử tế à?
Thì cứ tạm coi như vậy đi, không tử tế thì đã có sự thiên vị chen vào. Hoặc
ga-lăng, hoặc nịnh đầm, giả dụ thế. Anh hẳn còn nhớ cái khui mở lon đồ hộp?
Nhớ như in. Vin vào chuyện ấy để nghi ngờ tới định mệnh. Để kể cho Thuỷ nghe
đầu đuôi, tôi đi tay không khi vượt biển, nhẹ nhàng quá, tôi nghĩ nên mang một
thứ gì theo để kỷ niệm. Anh tôi đã bị cải tạo ở rừng sâu, tôi tìm thấy sợi dây
có tấm thẻ bài của anh xâu cùng với cái khui nhỏ bé của lính Mỹ. Buồn tay tôi
đeo nó vào cổ và có ngờ đâu tháng ngày sau đó tôi sáng giá được bà con bu quanh
thân thương gọi là Anh Khui.
Rất dễ tìm ra anh, người ngồi làm việc thiện nguyện giữa đám đông. Thuỷ nghĩ
bọn người cứu trợ tị nạn cũng vụng tính, phát thực phẩm đồ hộp cho người ta mà
quên không đưa vật khui mở. Lý ra anh đáng được bọn họ tuyên dương công trạng.
Ban đầu tôi tính cho bà con mượn nhưng người đàn ông đi chung ghe cùng tôi
cảnh báo: Mất như chơi, họ chuyền tay nhau rồi cuối cùng vật đi không trở lại
với người. Lạ lùng gì bản chất cái đám đông bát nháo ấy. Ăn quả mà chẳng nhớ kẻ
trồng cây. Nghĩ có lý, tôi đành bỏ công ra khui mở lần lượt cho họ lon paté hộp
cá mòi. Giải quyết xong xuôi khư khư đeo lại vào cổ thứ vật bất ly thân nọ.
Và anh thường ưu tiên khui mở cho Thuỷ. Kỷ niệm đó e quý hơn tất thảy những
kỷ niệm khác? Nó còn lành lặn, nó có theo anh sang tới bên đây không?
Sau một tuần nằm phơi nắng gió trên xà-lan, tôi được gọi tên cho vào đất liền
làm thủ tục với phái đoàn đặc trách người tị nạn. Có một bà nhanh miệng lại
gần: Xem như em là hoa hậu năm rồi, hãy trao lại vương miện ấy cho chị, hồi nào
chị theo em sang ngang chị sẽ bàn giao nó cho kẻ đến sau. Đã là dân tị nạn gửi
thân đất lạ nên mở lòng chơi đẹp với nhau em nhớ. Bà ấy chị em ngọt xớt còn ôm
siết thân tôi chúc lành trước khi bước xuống ca-nô. Tôi thực sự cảm động, chẳng
ngại ngần đưa bà kỉ vật của người anh. Khi đó hẳn Thuỷ cũng đã rời xà-lan trước
tôi, vì số thuyền Thuỷ nhỏ hơn.
Anh còn nhớ cả số thuyền nữa à?
Nhớ chứ Thuỷ. Họ không hơi đâu biết tên tuổi của đám người xa lạ, họ chỉ cần
đọc lên một con số thì rõ trắng đen. Hình như tù nhân cũng vậy, mỗi mạng phải
ăn nằm cùng số má ấy cho đến lúc hoàn lương.
Thuỷ “ở tù” được một năm thì bay sang Đức. Mình khai có thân nhân ở bên đó
nên phái đoàn Đức vui vẻ tiếp kiến thu nhận. Hôm ra đi trời Hồng Kông xám xịt
những mưa tuôn, Thuỷ nghĩ bên Đức e cũng chẳng sáng lạng gì. Tâm lý chung của
người sống trong trại cứ mơ tưởng tới Hoa Kỳ, nghe nước Đức họ ngại đủ điều,
nhất là vấn đề ngôn ngữ. Nói chung Thuỷ lên đường chỉ vì sợ điều kiện hỗn tạp,
chung đụng ở trong trại ấy quá lâu.
Bữa đó tôi đi làm về muộn, vào trại mình xong tôi leo rào, vi phạm điều lệ
để đột nhập lén lút, chạy tới dãy hut A2. Thuỷ đã chẳng để lại thứ ám hiệu nào
cả. Một tờ giấy nhỏ cũng không, bà nằm cạnh giường Thuỷ nhìn tôi ái ngại: Cô ấy
đi rồi, đi vào ban trưa. Ừ, tới chiều tối mịt mà mưa vẫn làm nhoè cảnh vật. Sân
đất đọng vũng và tôi đã thầm gọi Thuỷ ơi.
Đến Dortmund Thuỷ có viết cho anh lá thư, anh nhận được không?
Thư chẳng đến tay, trong suốt cả tháng trời ám buồn nọ tôi không nhận bất kỳ
một thứ gì cả và may phước Canada gọi tên tôi biểu ký giấy nợ tiền vé máy bay.
Tôi đi cũng không một người đưa tiễn. Khi đã bình phi, ngó xuống Cảng Thơm tôi
cám ơn vùng đất đã cho mình tạm trú, cám ơn cái khui đồ hộp và cám ơn câu thơ
Kiều chợt nhớ: “Trời đông vừa rạng ngàn dâu, bơ vơ nào đã biết đâu là nhà”.
Anh vẫn thế, vẫn cái lối nói chuyện như xưa. Anh thấy Thuỷ ra sao, chúng ta
ai nấy đã mòn hao già cỗi. Sau 4 năm tạm gọi là ổn định, người anh giới thiệu
và Thuỷ đã lấy chồng hiện có hai con… Hình như sắp rớt mạng hay sao anh nhỉ?
Anh nghe rõ Thuỷ nói không?
Màn ảnh máy vi tính chập choạng hình ảnh, đường nét mù mờ. Sóng ngưng tải
những tâm sự vu vơ, thứ mà Thuỷ bảo bằng hai chữ: Rớt mạng. Hong Kong và đâu đó
bên nước Đức được kéo về gần rồi thoáng chốc chạy dạt ra xa, mù tăm. Ngoài rớt
mạng chúng ta bị rớt thêm điều gì? Mưa gió bão bùng rơi xuống triền hạn, khiến
đột ngột cắt đứt một đầu mối vừa lần ra, vừa chạm được. Thuỷ đã lấy chồng hiện
có hai con. Thôi, vậy cũng xong. Biết nhiêu đó đã vẹn toàn một cuộc trao đổi.
Ngày… tháng…
Bên đó, lịch nghỉ hè của Thuỷ rơi vào tháng mấy?
Anh biết để làm gì?
Cuối tháng bảy này anh lên xe bông, anh đổi đời, Thuỷ sang để làm người đại
diện cho đàng trai thì sẽ khiến anh hạnh phúc hết biết. Dắt theo chồng con thăm
thú chốn này luôn thể.
Lu bu quá mạng là hình ảnh của kẻ sắp làm chồng, thì giờ đâu mà đoái hoài
tới khách phương xa. Thuỷ sợ nhất là chữ “mang con bỏ chợ”.
Chúng ta sẽ gần nhau suốt ngoại trừ đêm tân hôn, tin anh không? Nói láo hộc
máu.
Vợ tương lai của anh như nào? Tả Thuỷ nghe.
Tên Nguyệt, nhỏ thua Thuỷ sáu tuổi. Đẹp xấu tuỳ người đối diện, cao một mét
sáu bảy, nặng năm mươi mốt ký, tóc đen, mắt nâu và đã qua một đời chồng. Thuỷ
muốn biết gì thêm?
Sao anh không nhắc tới chữ định mệnh?
Anh gặp Nguyệt trong “đêm nhớ Huế”. Có lẽ do sự mai mối ngầm của mấy người
bạn vốn đã yên bề gia thất. Hai đứa ngồi gần nhau và anh có cảm tình với cái thật
lòng của Nguyệt, cô ta không che đậy làm dáng vẻ như đa số các cô gái khác.
Thêm điều nữa, Nguyệt nói giọng Nam, âm hao gần trùng như khi nghe Thuỷ nói.
Thuỷ sang với anh rồi Thuỷ sẽ chứng thực là hoàn toàn anh chẳng đặt điều vẽ
chuyện. Sang chia vui và giúp anh lần này, nhé. Nói theo kiểu người ta ưa sử
dụng trong thiệp mời: Sự có mặt của quý vị là niềm vinh dự của chúng tôi.
Lần này không rớt mạng, thời tiết tốt nhưng Thuỷ phải dắt hai đứa con đi mua
sắm. Tạm ngưng ở đây, Thuỷ không hứa, để thuyết phục ông xã trước mới tính
được. Canada… để xem nơi anh ở có đúng là xứ lạnh tình nồng không!
Ngày… tháng…
Nguyệt cám ơn anh chị đã vượt bao gian khó để sang dự ngày vui của chúng em,
đã thế còn mang theo quà tặng. Em luôn có cảm tình với những sản phẩm đặc thù
của Germany.
Chúng tôi cũng mến chuộng xứ sở này, nơi được thế giới luôn ngợi ca về mặt
an sinh xã hội. Luôn nuôi ý định sẽ đi thăm một lần và đây đúng là cái cớ nhất
cử lưỡng tiện, hai đứa con chúng nó cũng thích thú vô cùng.
Trong quán ăn, cái bàn tròn kê sáu ghế. Tôi ngồi gần thằng con trai bảy
tuổi, tới chị nó, tới Thuỷ, tới Lợi chồng Thuỷ và tới Nguyệt. Thuỷ vẫn còn mặn
mà, những hư hao ngày cũ thời tạm trú trong trại tỵ nạn đã được bồi đắp khi thụ
hưởng với cuộc sống văn minh no đủ. Ngồi đó, vẻ đẹp của Thuỷ khiến “hoa nhường
Nguyệt thẹn”. Vợ tương lai của tôi chưa đủ hoả hầu để so bì cùng Thuỷ, y như
bóng đá, ra sân Đức bao giờ cũng thắng đậm Canada. Chán thế! Được cái, Nguyệt
biết cách ăn nói, lời phi lộ của cô làm mát bụng tôi. Lợi, chồng Thuỷ cũng
thuộc dạng miệng mồm. Hai người ấy lời qua tiếng lại chừng tâm đắc. Chỉ có Thuỷ
và tôi, hai đứa ngậm miệng hến vì chúng bận loay hoay tìm cách xua tan bao bồi
hồi ở phút giây tương phùng hội ngộ.
Nguyệt lên chương trình, sẽ dắt gia đình anh Lợi đi vườn hoa nổi tiếng chốn
này để thưởng lãm. Cô thêm thắt, có lắm cô dâu chú rể vào vườn hoa nọ để quây
video có viết sẵn kịch bản rất mực tình tứ. Thuỷ hỏi, vậy cô dâu chú rể này thì
sao? Tụi em đâu còn son trẻ mà đi đùa nghịch kiểu lạ thường ấy, thậm chí chiếc áo
cưới của em cũng rất giản dị, đơn giản. Đi vào vườn hoa thuần chỉ để ngắm hoa
chứ chẳng đủ sức để cỡi ngựa xem hoa.
Lợi tán thưởng, Nguyệt nói đúng quá và tui rất chịu chữ cỡi ngựa mà Nguyệt
dùng. Tôi trộm ngó Thuỷ, cô vừa đá lông nheo sau câu nói của Lợi. Trước lạ sau
quen, đứa con trai bảy tuổi của Thuỷ chừng như tỏ vẻ thân thiện với tôi. Nó chỉ
biết nói tiếng Đức và như thế tôi với nó như đứa điếc tỏ bày tình cảm với kẻ
câm. Tôi ý thức một chuyện, là có đôi khi lòng mình nổi sóng ba đào mà không
cách gì để trút bỏ ra qua miệng lưỡi. Tôi nhìn Thuỷ, em có biết hồ nước ấy đang
chứa ngập một tình yêu?
Như đã hứa trước với Thuỷ, hoạt cảnh đem con bỏ chợ chẳng hề xẩy tới. Bọn
chúng tôi luôn kề cận bên nhau, vợ chồng Thuỷ do từng có kinh nghiệm đi trước,
giờ này họ mang vốn kiến thức ra chỉ bày và giúp đỡ lắm việc trong ngày “trọng
đại”. Hai đứa con họ thì rất vui thú khi ngồi ở bàn có đặt thùng “phước sương”
thu nhận phong bao lì xì của khách khứa được trông chừng bởi quý bà quen biết
với Nguyệt.
Lợi thì ngồi ở góc khuất cố viết và cố thuộc đoạn diễn văn sẽ đọc trước giờ
nhập tiệc nâng ly rượu mừng. Thuỷ luôn di động vào ra căn phòng dùng trang điểm
cô dâu và nhờ trời người ta tạm ngó lơ thằng tôi, thằng chú rể bơ vơ ngác ngơ
khi chung đụng với thứ hoàn cảnh nằm mộng cũng chẳng ngờ.
Xớ rớ một đỗi thì Thuỷ đến sát bên lưng, cô như bà Trưng bà Triệu giỏi việc
điều binh khiển tướng, sắc bén tầm nhìn khi nhận định thời cuộc. Vào đây. Thống
soái ra lệnh. Thuỷ kéo lôi tôi đi vào một góc phòng tối mờ có tấm bình phong
che chắn. Có lẽ đây là nơi mà nhà hàng dùng để chứa những thứ đổ vỡ sứt cọng
gãy càng. Chúng tôi ôm siết thân, vòng tay như vòi bạch tuộc cuốn chặt từ dặm
ngãi Hong Kong kéo về hiện tiền sắp có pháo đỏ rượu hồng. Thuỷ vén áo đầm lên,
Thuỷ tụt nội y xuống và nói hụt hơi: Anh khui ơi, cho anh khui Thuỷ đó. Tôi hôn
màu son môi đỏ, tôi liếm vị ngọt từ đó ứa ra. Chú rể ơi, cho chú làm nháp trước
đó, cho chú ăn cơm trước kẻng, cho chú nhúc nhích trước buổi động phòng. Tôi đi
vào người Thuỷ, êm thắm ngọt ngào, sau đó là chấn động của ngọn núi lửa dấu
lòng bao phún xuất thạch, ẩm ướt và nóng bức. Thuỷ nhìn xuống “cái khui” vừa
được tắm gội và cô giả giọng như ngày còn bên phương trời xao xác ấy: “Tố chề”.
Tiếng Quảng Đông nghĩa là cám ơn. Tôi lập lại chữ đó sau khi Thuỷ vuốt lại tóc
tôi, chùi môi tôi dính son hồng và sửa lại ngay ngắn cái cụm hoa giả gắn trên
túi áo vest của tôi.
Thuỷ đọc hiệu lệnh: Anh đứng đây khoảng năm bảy phút sau khi Thuỷ rời bước.
Cô quay lưng, hát nhỏ một khúc nhạc cũ có ca từ: Hôm nay ngày cưới em, vì sao
nàng mời tôi đến… Không một ai hay biết ngày xưa chúng tôi có với nhau chút kỷ
niệm dẫn dắt bởi một cái vật kim loại nhỏ dùng để khui mở bao nhiêu lon đồ hộp.
Chẳng một ai hay sau chất chồng mùa thu lá bay, Thuỷ hiện ra để lấp đầy một ước
nguyện không thành dạo ấy: Khui mở con người Thuỷ dù trái tim dấu trong đó đã
thôi nguyên vẹn hình hài. Tôi chẳng chùi rửa cái khui ấy. Tôi cất nó trong
quần. Tôi nhắm mắt hôn Nguyệt theo sự xúi dục của đám đông, của bao tiếng ly
tách muỗng nĩa va chạm. Đám đông chúc chúng tôi hạnh phúc, kể cả Lợi, rất thực
lòng có trong bài diễn văn cảm động. Tôi hạnh phúc, vì tôi vừa ăn mắm ăn muối
giữa xác thân người tình cũ và đêm nay được cọ xát ăn nằm, hoặc chong đèn thức
khuya đếm bạc lời nhiềi hơn lỗ với cô vợ mới.
Một quốc gia có tới hai giếng dầu, quốc gia ấy buộc phải giàu mạnh hạnh
phúc. Tôi tên Gia, bí danh là anh Khui. Gia này sẽ tìm cách khui giếng dầu của
Thuỷ thêm lần nữa trước khi nàng về lại Germany khô cạn nguồn cơn. Thuỷ ơi, em
có hạnh phúc không?
Hồ Đình Nghiêm