
Thấy tôi có vẻ lừng khừng, chị nhìn tôi, đôi mắt có chút gì như năn nỉ. Rồi chị
vừa giải thích mà cũng như vừa khuyến khích tôi thêm:
- Kệ nó em! Chuyện đã qua cho qua. Đừng để tâm làm gì em.
Chịu khó bước vài bước qua nhà thắp cho nó vài nén nhang. Hôm nay, ngày giỗ đầu
của nó. Chẳng mấy thuở em về. Chị thấy, mấy năm sau này nó thất sủng, bị hất
cẳng ra khỏi Ủy ban, cởi bỏ áo công an, hình như chỉ còn lo ban Thể dục thể
thao cho xã mà thôi!
Mẹ tôi mất hồi tôi mới năm tuổi. Chị ở vậy nuôi tôi.
Tôi xem chị như mẹ. Ba năm trước tôi về tổ chức lễ thượng thọ cho chị. Chị nói:
- Thôi em! Đừng làm gì rình rang. Chỉ cần sắm một mâm trái
cây rồi chị em mình qua chùa cúng Phật và gởi tiền cho Thầy trụ trì để chùa mua
gạo phát chẩn.
Chị bảo gì tôi cũng thuận nghe. Tôi hiểu tấm lòng của chị.
Rồi chị cười cười nhắc lại.
Năm nọ em về mang chai rượu Mỹ - rượu gì chị không rành.
Cúng giỗ cha xong, em khui rượu đãi mọi người, ai cũng khen ngon. Thằng Long
nhún môi khà lên một tiếng buộc miệng khen rượu Mỹ ngon quá chừng chừng, ngon
đáo để, ngon hết sẩy, ngon hết chỗ chê; làm ai trong bàn tiệc cũng móc nhẹ nó:
- Giờ mới biết khen Đế quốc là trễ rồi!
Thằng Long chỉ bẽn lẽn mà không tỏ dấu hiệu gì tự ái,
cáu giận. Giá như trước đây nó đã sừng sộ lên lớp mọi người. Rượu hết. Chỉ
thoáng chuyền tay qua một tua là trút chai không còn một giọt dính đầu ngón
tay. Tiệc tan. Ai cũng dáo dác tìm cái vỏ chai. Người nào cũng muốn tìm để
cò-léc xông, cò-léc-xiếc gì đó. Người này nghi người kia mà không ai nghi thằng
Long cất giấu. Té ra, khi nó chết, thấy con Ẩn - em nó - chưng trên bàn thờ nó.
Vậy là tôi quyết định qua thắp cho nó mấy cọng nhang. Dầu gì
nó cũng là...
Chị tôi vui ra mặt, đệm thêm:
- Có con Bé Ba, con của hai Phường, cũng ở Mỹ về như em.
Không biết em còn nhớ, nó gọi năm Long bằng cậu ruột.
Như có thêm đồng minh, tôi xăn xái thay áo qua dự đám giỗ và
cũng để biết thêm về con Bé Ba, con của hai Phường, mà hồi chiến tranh, mẹ nó
cũng đã chết chùm cùng gia đình.
Đầu tiên là ba Tiệm, em kế hai Phường. Ba Tiệm theo du kích
xã. Hôm ấy, có cuộc phối hợp hành quân giữa lực lượng địa phương và toán biệt
kích quận. Ba Tiệm có nhiệm vụ gác cầu Lái Thển. Khi phát hiện toán lính mở
đường xuất hiện bất ngờ vội chạy báo động. Ba Tiệm chạy không khỏi, chết ngay
tại chỗ bởi loạt đạt đầu tiên. Toán lính địa phương tiếp tục mở rộng cuộc hành
quân. Toán biệt kích quận nằm ém lại. Vài người kéo xác ba Tiệm lại gần dốc
cầu, lấy lá dừa đậy lại, sau khi sửa xác chết nằm ngay ngắn.
Cho đến chiều tối hôm đó, khi cuộc hành quân hoàn toàn
chấm dứt, nghe ngóng và cầm chắc lính đi ruồng đã rút về hết, bà con trong vùng
mới thông báo cho gia đình tin ba Tiệm nằm chết ở cầu Lái Thển, nơi mà ba Tiệm
thường được phân công canh gác. Ba Hoài, mẹ ba Tiệm, cùng thằng con út, bỏ dở
cữ sấy dừa, tức tốc chạy qua nhận diện. Hai Phường, từ dưới lộ đá Ba Lai, cũng
được tin, bỏ gánh rau bán nửa chừng, vội bao đò qua sông cầu Kinh theo ngã lộ
chú Kiếu, hốt hoảng chạy lên cho kịp. Khi ba mẹ con cùng lúc giở xác ba Tiệm
thì một tiếng nổ kinh hoàng, chát chúa của quả lựu đạn được gài lại. Cả ba mẹ
con chết banh xác ngay tại chỗ. Mẹ, ba Hoài chết tuổi bốn ba. Con, hai Phường
hai mươi bốn để lại ba con nhỏ. Lớn nhứt mới năm tuổi, nhỏ nhứt lên hai. Ba
Tiệm chết tuổi hai mươi hai, để lại ba con, một trai hai gái. Thằng Rắc lớn
nhứt mới vô mẫu giáo. Con Cụt chị nói còn ngọng nghịu, con Cụt em mới biết đi
lững đững.
Riêng thằng Núp, mới vừa bể tiếng, giọng nói khao khao, kháp
kháp như vịt xiêm lai.
Nó chết xác văng nằm vắt vẻo sát bờ kinh.
Tôi đã bỏ lửng giữa chừng. Tôi nói: dầu gì... dầu gì thằng
Long cũng là bạn thân với tôi hoặc còn hơn thế nữa. Nếu có dịp tôi sẽ mở dấu
ngoặc để lần mò về sự thân cận giữa nó và tôi.
Thằng Long nó chỉ hơn tôi một hai tuổi là cùng. Tôi tuổi
Mùi. Nó tuổi Ngọ hoặc tuổi Tỵ. Những năm năm mươi, một thời thới bình ở làng
tôi. Những ngày nghỉ học, nhà thằng Long là nơi chúng tôi thường xuyên tựu tập
để tổ chức rượt sóc, bắn chim.
Thằng Núp, em út thằng Long, lúc đó chừng ba bốn tuổi,
môi chì, nước da bủng, mốc cời, tướng mập và lùn. Hễ ngày chủ nhựt, ngay sáng
sớm, nhằm lúc nước ròng, nó tình nguyện xuống mương tìm đất sét. Riết rồi nó
quen và biết nơi nào là ổ đất sét loại đất có màu vàng nửa nghệ nửa tròng đỏ
trứng gà. Loại đất dính dẻo nhẹo chứ không phải đất bùn gặp nước chưa kịp nắm đã
rã ra. Đất sét vò đạn bắn chim là lý tưởng. Ngoài hai anh em thằng Long và tôi.
Còn có thằng Ức con bộ Hào. Chú bộ Hào có hai người vợ ở chung một nhà. Thiếm
năm lớn, ở với chú không con, thiếm đứng ra cưới thiếm năm nhỏ cho chú. Chú có
tiền, ở không đi đánh bài. Thằng Ức là con thiếm năm nhỏ. Con Triệu chị nó sau
này ưng thằng tư Xê, em kế ba Tiệm. Rồi còn có thằng Út con bộ Tánh.
Chú bộ Tánh ho kinh niên, đụng đâu cũng khạc nhổ, đờm xanh
thấy mà gớm. Người ta đồn chú bị lao phổi ít ai dám lại gần sợ lây. Sau cùng
còn có thằng Tam con Ghỉ A, cháu ngoại Tám Kinh. Tám Kinh ở xóm ai cũng biết,
nhà chuyên môn chứa bài tứ sắc để lấy xâu. Những lúc tám Kinh thiếu tụ thường
hú cha tôi qua trám chỗ. Những lúc đó, cha tôi nhìn chị em tôi với đôi mắt thật
dịu dàng như dò hỏi ngầm tìm một sự khuyến khích. Biết ý, chị tôi cười cười
nói: Cha qua chơi cho khuây khỏa, lúa chỉ chờ gặt mà thôi, ở nhà ở không làm
gì! Cha đi, cho thằng chín đèo-út của cha níu áo cha qua ngồi sau lượm rác.
Chơi bài tứ sắc có thua bao nhiêu. Miễn là đừng có nóng mũi chơi bài cào hay xì
dách rủi thua là cháy túi!
Để chuẩn bị cuộc chơi, tụi tôi xúm nhau nhào, ngắt đất vò
đạn. Gặp bữa trời nắng ráo, đem phơi nắng. Chờ đạn ráo mồ hôi, cầm lên lòng bàn
tay, thấy cưng cứng, nặng nặng là biết dùng được thì nhét đầy túi quần xà lỏn,
túi quay phía trước bụng, kè kè, xề xệ cho dễ móc nạp vào miếng da nạng giàn
thun. Gặp khi trời ui ui, hoặc thấy chuyển mưa đạn vò được đem sấy trên lò
trấu. Đạn phơi nắng bắn đằm, đường đi chính xác. Đạn sấy khô nhanh, viên đạn
bốc hơi bởi lửa nóng áp nên nhẹ hơn đạn phơi khô, thường bị bạt gió. Tôi và
thằng Tam có nhiệm vụ bắn nà tứ phía để cướp tinh thần con vật buộc nó phải
nhảy từ tàu lá dừa cây dừa nầy qua cây dừa khác cốt yếu cho nó chạy mệt đành
thúc thủ bó đọt trên ngọn dừa. Vì vậy hai đứa tôi cần có nhiều đạn, nên mang
một túi vải đeo ở cổ. Còn tụi kia không thích mang nặng nên chỉ bỏ đủ hai túi
quần xề xệ trước rún. Tụi nó tự hào mỗi viên đạn phải hạ ít nhứt một con chim.
Thật ra, rượt sóc mới là chính, là mục tiêu hàng đầu. Còn
chim chóc thì chỉ trau trảu mới đáng phí đạn. Sóc thường chuyền trên cao. Nó
phóng nhanh từ cây dừa nầy sang cây dừa khác. Đôi lúc bị rượt nà, té xuống đất
nó cũng kịp bò lên chạy vòng vòng theo thân dừa leo tuốt lên ngọn. Khi biết
chắc nó mệt rồi, ngồi bó đọt trên ngọn dừa, hai thằng, hoặc thằng Ức hoặc thằng
Út có nhiệm vụ leo lên ngồi trên buồng dừa rất nhẹ nhàng, khéo léo để không
động tịnh và giương nạn giàn thun cách con sóc chừng hai sải tay. Bọn dưới đất
đứng giăng hàng ngang, từ bờ dừa nầy đến bờ dừa khác. Khi phát hiện thấy có
sóc, chúng tôi vừa la vừa bắn nột áp đảo tinh thần con vật. Đạn bắn tua tủa tứ
phía. Nó đành tháo chạy thoát thân trối chết khi bị rượt nà. Còn chúng tôi cuộc
rượt bắt sôi nổi, hào hứng nhứt là khi con vật bị thương rơi từ trên cao xuống
đất và thằng nào cũng nhào tới bắt sống. Điều thú vị hơn nữa, con sóc được mang
đến trình diện ông chủ vườn để được thưởng mười đồng. Hồi đó mười đồng tiền Bảo
Đại lớn lắm. Chúng tôi biết tính ông trưởng Mười keo kiệt. Vườn rộng minh mông
nhưng một trái dừa khô rụng cũng không qua mắt ông. Đứa nào lén phén lượm trái
dừa hay bẻ bất cứ trái cây nào mà ông bắt gặp, ông bắt quì gối tại chỗ rồi còn
kêu cha mẹ tới mắng vốn. Cũng vì tính như vậy mà ông thù lũ sóc lũ chuột phá
hoại dừa ông. Chuột thì ông có thể hài bằng bẫy tre gác trên mỗi cây dừa nào mà
ông thấy có chuột khoét. Còn sóc thì tinh khôn hễ nghe động tịnh một chút thì
đã kịp phóng mình chuyền đi nơi khác. Để chơi khăm ông chúng tôi cố tình lùa
sóc từ vườn khác sang vườn ông rồi mới tìm kế hoạch bắt sống. Nghe tiếng chúng
tôi hô vang ông thường ra xem và cổ võ. Chính ông ra giá mỗi con sóc bắt được
trong phạm vi vườn ông sẽ được thưởng mười đồng bất luận lớn hay nhỏ. Cuộc hành
quân chấm dứt khi tiền trao cháo múc. Chúng tôi hăm hở quay về nhà thằng Long
phân công nhau, đứa nhúm lửa, đứa rửa nồi vo gạo, đứa nấu nước sôi cạo lông
hoặc thui rồi bầm, rồi nấu. Chỉ một con sóc bầm nhuyễn có thể nấu nồi cháo một
lít gạo cũng dư sức ngọt. Chúng tôi vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả, mồ hôi chảy
ướt áo. Đứa nào cũng giành góp công cho chiến tích của nồi cháo sóc. Trong khi
ngồi đợi cháo nhừ nêm nếm muối nước mắm hành lá thì lần nào thằng Ức cũng tái
diễn cái mửng cũ. bằng cách đem chim của thằng Long ra làm trò cười. Nó chê của
thằng Long chỉ bằng trái ớt hiểm, chắc là muôn đời không cưới được vợ. Mà quả
thật, thằng Long rất mặc cảm về điều này vì hễ ai nhắc đến đàn bà con gái là nó
tìm cách nói lảng ra. Những lúc ấy thằng Ức thường phô trương của nó ra để
chứng tỏ mình vô địch. Như hãnh diện thằng Ức cười híp mắt trong khi thằng Long
bỏ đi một nước. Thằng Tam cũng thú nhận với tôi là nó chịu lép vế khi của nó
chưa mở mắt! Còn thằng Bàn con sáu Bắp thỉnh thoảng mới tham gia cuộc chơi có
lần rủ tôi hai đứa cùng trật quần nằm giữa bờ đê chờ con Lượng con bà mụ Huấn
Tuồng đi ngang qua thấy chơi. Tôi nghe lời nó làm theo. Nhưng nửa chừng khi
thấy bóng con Lượng đi gần tới tôi vội kéo quần lên khỏi rún và nằm úp mặt
xuống ruộng giả đò ngủ say. Còn một mình thằng Bàn nó lảnh đủ tiếng chửi của
con Lượng: Đồ tồi bại, đồ mất dạy, khi nó kịp nhìn thấy cái con trùn hổ của
thằng Bàn vội kéo cái nón lá bước né qua. Không biết nó về nhà có mách với bà
huấn Tuồng không mà sau đó nghe êm re trong khi thằng Bàn chơi dại đang còn sợ
xanh máu mặt.
Trong khi húp cháo sì sụp chúng tôi trò chuyện với nhau bằng
tiếng lái mà người ngoài không chú ý nghe được sẽ không thể hiểu chúng tôi đang
nói gì. Thằng Ức có biệt tài nói lái chầu ba chầu tư. Nói nói : Tay ra ngoào
[tao ra ngoài] hoặc nói hỏi: Mừa ăn cơm chây? [mầy ăn cơm chưa?]. Tôi dở hơn
nghe nó không kịp và chỉ nói lái đôi. Để gỡ gạc tôi xổ một tràng tiếng Tây cho
tụi nó lé mắt. Thằng nào quýt sơ măng đờ mống se? Thằng nào đờ lộng sôi? Còn
thằng nào ót măng? Tôi cố tình chêm chữ đờ [de tiếng Pháp] lần đầu mới nghe tụi
nó có vẻ phục tôi sát đất. Ăn uống no nê chúng tôi hè nhau rinh nồi chén ra
kinh rửa. Rồi chia phe tạt nước hoặc chơi trò giấu cây lặn kiếm. Ngụp lặn đã
đời cho tới mặt trời đứng bóng mới chịu trồi lên bờ. Thằng thì môi thâm tím,
thằng thì nước bùn đóng bợn quanh miệng giống như để râu. Để bớt run lập cập
tụi tôi lấy yếm mo cau làm giấy, rứt mầu dừa khô giả thuốc rê quấn thành điếu
hút phà khói ra lổ mũi, sặc chảy máu cam. Chỉ có râu bắp hút thơm, nhẹ nhàng
như người lớn hút Rubie, Ách chuồng. Rồi đâu đã chịu ngưng. Thằng Ức đề nghị
tất cả leo lên đứng hàng ngang trên cây dừa trốc gốc ngã xiên cách mặt đất hơn
hai thước thi nhau đái coi thằng nào đái xa.
Mục nầy thì thằng Long không bao giờ tham dự. Chuẩn bị chơi thằng
Ức nín đái, hai tay bịn chặt đứng hẩy ra đằng trước cho nước xịt thật xa. Còn
tôi trịt quần kéo ra trậm trầy trậm trật, đến chừng xả bọng được thì cũng chỉ
đến mức hai thước là cùng! Thằng Út đếm một hai ba, cả bọn đồng ca bài: Trời
lập đông, con cu teo, kéo ra hoài mà còn dài nhằng.
Những ngày nghỉ học vui chơi đã đời cũng đã qua. Đám tụi tôi
cũng phải ôm cặp đệm đến trường suốt những năm tiểu học.
Năm lớp nhứt, học với cô giáo Hà tôi thi rớt đệ thất.
Phải đợi năm sau thi đậu lớp tiếp liên, học với thầy Xương để chuẩn bị thi lại
đệ thất. Có lần cô giáo Hà tâm sự với cả lớp chúng tôi: cô nói cô sẽ không bao
giờ lấy chồng!
Trong trái tim non nớt tôi tin lời cô Hà nói và như có một
điều thiêng liêng nào khiến tôi vừa cảm động vừa hạnh phúc. Học lớp tiếp liên
với thầy Xương mà tâm hồn tôi vẫn hướng về cô giáo Hà ở ngôi trường Phú Khương
với tất cả chân tình. Thầy Xương dữ dằn, thường đứng chồm xuống bàn thứ hai
nhiếc tụi học trò chậm hiểu bài toán mà thầy vừa giảng là đồ ăn rục quần chó!
Những lúc ấy hình ảnh cô Hà hiền dịu như một nguồn an ủi. Rồi một chiều, khi
đạp xe đi ngang qua trường cũ tôi bỗng bắt gặp cô Hà ngồi sau xe Lambretta và
một tay vòng ôm eo thầy Quân! Tự nhiên tôi choáng váng và nước mắt tủi thân
chảy dài xuống má. Câu nói ngày nào của cô đã làm cô như thần tượng bỗng nhiên
sụp đổ. Tôi không còn hứng thú đạp xe mỗi ngày từ nhà đến trường hơn sáu cây số
như trước đây với chiếc xe đạp đòn dông nhỏ xíu mà anh tôi mua tặng như món quà
quí giá đầu tiên trong đời của tôi để khuyến khích tôi cố thi đậu vào lớp đệ
thất trường công tại thị xã Trúc Giang. Và năm đó một lần nữa tôi thi rớt. Nỗi
thất vọng của tôi không phải vì thi rớt đệ thất mà là tôi thật sự buồn bã khi
biết mình từ đây đã thật sự mất cô Hà.
Chị tôi tưởng tôi không đậu nên buồn bỏ ăn mấy ngày. Chị an
ủi:
- Rớt keo này bày keo khác em lo chi. Học tài thi phận mà!
Mấy tháng hè cứ vui
chơi với bạn bè để rồi tựu trường ghi tên học lớp đệ thất
trường tư rồi cố ôn bài thi lại cứ nhồi riết thế nào cũng đậu lo gì?
Thế là tôi xa quê từ đó. Xa những thằng bạn với những
buổi rượt sóc hào hứng.
Tôi tiếp tục học trường bán công Hoài An ở Phú Nhuận
và ở trọ nhà anh tôi. Thay vì trở về quê thi lại đệ thất tôi tiếp tục học tiếp
lớp đệ lục. Và sau khi được ban giám hiệu khuyến khích nhảy lớp, tôi bỏ lớp đệ
ngũ và nhảy lên học lớp đệ tứ mà không phải đóng học phí. Đang khi ráo riết để
chuẩn bị thi tốt nghiệp trung học đệ nhứt cấp được tin chị tôi đau nặng tôi tức
tốc trở về quê cũ. Xuống xe bên kia cầu Ba Lai, tôi lột giày lội bùn từ ngã tư
Từng Đậu nhắm hướng ấp Phước Hậu đi như một kẻ mất hồn.
Theo lời cha tôi kể lại, vào một đêm khuya, thằng Long sau
nhiều năm vắng mặt bỗng nhiên xuất hiện, súng ống kè kè. Nó đề quyết chị
tôi lấy cắp số vàng mà gia đình nó chôn giấu. Bằng chứng là tôi có tiền lên thành
phố học mà không cần thi đệ thất ở tỉnh nhà. Chị tôi thề bán mạng. Chị thách nó
dám lên đình Phước Hậu bẻ cổ gà thề trước mặt thánh thần? Nó không đi. Nó nói
nó không tin thần thánh. Thần thánh là cái con mẹ gì mà phải thề? Nó bắt ép chị
tôi phải nhận. Ức quá chị tôi phát điên. Cha tôi phải đi thỉnh bác chín Du làm
nghề thầy pháp lâu năm để giải tà. Phải mất hai ngày để bác chín chuẩn bị lập
đàn tràng ngay trước sân nhà cha tôi. Cái sân vuông rộng chung quanh dựng hàng
rào ngang ngực kết tua bằng lá đủng đỉnh như người ta thường dùng trang trí rạp
đám cưới. Ngoài bác chín Du, người ốm yếu, giọng nói sang sảng, cột cái khăn
nhiễu điều trên đầu bỏ thỏng một bên để một tay bác cầm, tay kia bác cầm cây
nhang bắt ấn, còn có ba người đàn ông lực lưỡng hóa trang thành ba nhân vật
Quan Công, Quan Bình và Châu Xương. Người nào cũng đi đứng múa may, hươi
thương, kích, đoản đao giống như trong tuồng hát bộ. Cuộc lễ bắt đầu lúc chạng
vạng tối. Bà con trong xóm kéo nhau đứng vây quanh hàng rào vừa tò mò theo dõi
một cách thành kính vừa có cảm giác sờ sợ. Cha tôi mặc áo dài khăn đóng màu đen
như những ngày đình Phước Hậu cúng lễ kỳ yên.
Một người thanh niên lạ mặt đệ tử của bác Chín dẫn chị tôi
từ trong nhà bước ra ấn chị ngồi trên chiếc ghế đai. Trông chị ốm yếu, gương
mặt thất thần. Chị dáo dác nhìn những người đang chen chúc đứng xem. Chị không
nói tiếng nào. Thỉnh thoảng chị kéo vạt áo bà ba lên lau mặt. Quang cảnh bỗng
im lặng đến ngột ngạt khi chiêng trống trổi lên gióng giả. Sau khi xá bốn
phương tám hướng bác chín Du bắt đầu hành lễ. Một tay nâng khăn điều tay cầm
nhang dạng chân đi qua lại trước mặt chị tôi với sự hỗ trợ hầm hì của ông quan
Châu Xương râu cụt cầm thương dài múa may loạn xạ. Lúc đầu chị tôi chỉ cúi nhìn
xuống đất, đôi mắt như sợ sệt. Nhưng khi bác Chín càng la hét hâm dọa thì chị
tôi bỗng đứng vụt dây chỉ vào mặt bác chín nói như thách thức:
- Ai có giỏi thì đè cổ thằng nào vu oan giá họa. Đừng tưởng
làm ồn ào như vầy mà dọa được con nhỏ nầy. Nào. Giải tán. Nhà ai nấy về. Về
hết. Để tôi còn nghỉ ngơi!
Con heo sữa quay từ hồi sáng giờ đã nguội lạnh. Bác
chín lắc đầu than con tà nầy dữ quá cần phải triệu thêm người cao tay ấn để
trừng trị.
Phải mất cả năm sau chị tôi mới lần lần hồi phục. Khi
được biết chị tôi đã tỉnh nhiều, sinh hoạt bình thường thì tôi không còn dám
trở lại quê tôi nữa. Bởi, đây là giai đoạn mà Mặt trận Giải phóng Miền Nam thật
sự nổi lên. Dấu hiệu đầu tiên là những thân cây dừa đã bắt đầu xuất hiện cờ Mặt
trận với ba màu xanh đỏ vàng. Lính nghĩa quân xã cũng chỉ dám lên một đổi đường
lấy bùn non trét lấp lá cờ rồi rút về. Tin từ quê nhà cho hay thằng Long đã gia
nhập lực lượng chính quy được huấn luyện trong bưng. Thằng Ức đi nghĩa quân.
Thằng Út đi Sư đoàn Bảy căn cứ đóng ở phía Sơn Đông. Thằng Tam ghi danh vào lực
lượng cảnh sát chiến đấu ở tận Long An. Cha và chị tôi không thể rời bỏ ruộng
vườn, đành trụ lại giữa hai lằn đạn. Nhiều lúc tình hình căng thẳng bắt buộc
phải tản cư thì cũng chỉ né qua phía Sơn Đông khi thấy tình hình êm lại thì
quay trở về.
Từ lộ đá Ba Lai nơi có nhà việc Xã, có ngôi chợ, có trường
tiểu học Thạnh Hựu mà thuở thơ ấu tôi đã học lớp ba với thầy Đơ rồi lên lớp nhì
với thầy Bình. Chính năm học này thằng Nam tuy học cùng một lớp nhưng nó lớn
con bự xộn đã đầu độc tôi bằng cách nhét cuốn tập chép tay trong gầm bàn tôi
với hình ảnh ba mưới sáu kiểu tục tĩu. Và cũng chính năm học này tụi tôi chuyền
tay nhau chép thơ bằng giấy pơ-luya mỏng nhiều màu với những bài thơ như Hổ nhớ
rừng, hai sắc hoa ti-gôn...
Đó, từ đây có thề tẻ theo ba ngả lên các ấp Phước Hậu, Phước
Thịnh, và Phước Hựu của làng Tam Phước nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Riêng ngả
chú Kiếu nằm dọc theo bờ sông Ba lai lên hướng Tường Đa phải qua cây cầu đúc
duy nhứt là cầu Kinh cũng đã bị giựt sập để cản trở những cuộc hành quận lớn
nhỏ của chánh quyền. Dọc đường các biểu ngữ viết nguyệch ngoạc với nội dung
chống chế độ Ngô Dình Diệm thối nát, gia đình trị hoặc đả đảo tay sai đế quốc
Mỹ được căng ngang các lối đi. Và rất nhiều chướng ngại vật mô mìn giả. Trong
bối cảnh nguy hiểm đó định mệnh nào khiến hai Phường kịp bao chuyến đò định
mệnh cho đời mình...
Dĩ nhiên, những tàn tích chiến tranh những năm ác liệt
ấy giờ không còn sau bao nhiêu năm vật đổi sao dời. Cây cầu Kinh đã được bắc
lại ngang qua con kinh rộng chỉ trên năm mươi thước cũng chỉ là cây cầu xi măng
tạm bợ rộng chỉ vừa đủ bộ hành và xe ba gác qua lại chở dừa. Ba con lộ tẻ đã
cũng chỉ từng chặng trải đá tráng nhựa để tiến lên xã hội chủ nghĩa ưu việt
thay thế những con lộ đất từ thuở cha sanh mẹ đẻ ra tôi.
Tôi đã về thăm lại mộ mẹ tôi. Ngôi mộ mà anh chị tôi bàn
tính sẽ có ngày di dời về nằm gần cha tôi bên phần đất bên nội, cách con rạch
Lái Thển, bên này là miếng vườn của bà Bái Ba mà hình như hồi nhỏ tôi quen
miệng kêu bằng ngoại. Mẹ tôi mất năm bốn tám mà chị tôi hay nói là năm Mậu Tý hưởng
dương bốn mươi lăm. Chị tôi kể lại
ngày đám ma, tôi không khóc và còn hãnh diện với lũ bạn rằng
nhà tôi có làm bò đãi tiệc, tôi cũng giả bộ kéo cái đầu tàu dừa gắn hai trái
quao làm sừng dắt đi như sáng nay người ta dắt còn bò tội nghiệp đi đập đầu. Riêng
mẹ tôi hồi sanh tiền không có chụp ảnh lưu lại nên trong ký ức mù mờ tôi cũng
chỉ còn nhớ mang máng là mẹ tôi có khuôn mặt xương xương, người mảnh dẻ. Bà có
thói quen ngồi bên bàn nước nhai trầu bỏm bẻm với con dao tách cau không tra
cán, phần sắt đuôi dao được bẻ quặp lại. Tôi còn nhớ như in, chính lúc mẹ tôi
dùng con dao ấy lạng trái bắp nấu ra dĩa cho tôi bốc ăn thì tôi cũng vừa làm
một việc tàn ác là cầm cây chỉa soi nhái có ngạnh nhắm con gà con chui nằm dưới
ngạch cửa mà đâm. Con gà mắc lưỡi chỉa dẫy dụa rồi chết ngay. Cha tôi đang nằm
đọc truyện phong thần bỗng ngồi vụt dậy, đôi mắt quắc lên giận dữ quát to:
- Đồ chết bầm! Sao mầy ác vậy?!
Tôi ôm mặt khóc òa. Tay chân rung lẩy bẩy. Mẹ tôi một tay
tém miệng trầu một tay ôm tôi vào lòng dỗ ngọt:
- Thôi con đừng khóc. Cha giận cha rầy thêm. Lỡ rồi, chắc
con đâu muốn vậy. Thôi để mẹ bảo chị hai con làm thịt quay chảo cho con ăn.
Trước sau gì mình cũng ăn.
Gà nuôi để ăn thịt mà!
Theo lời chị tôi kể lại, chính thằng Long hồi còn sống, nó
khuyên đừng di dời mộ dì Tư [nó nói gia đình nó đâu có bắt buộc phải dời, ai
cũng sẵn lòng dành một khoảnh đất đâu có thiệt thòi gì?] và bởi chị em chúng
tôi ai cũng có công ăn việc làm đàng hoàng,
cuộc sống đang an bình, sau chiến tranh ai cũng còn nguyên
vẹn thì không nên làm điều gì xáo trộn.
Và đây cũng là lúc tôi cần mở dấu ngoặc để nói về sự
thân cận giữa tôi với thằng Long. Cũng theo lời chị tôi kể, hồi đó,gia đình ông
bà ngoại tôi nghèo, sanh đông con, ở đâu miệt Thủ Thừa thuộc Long An, bằng
lòng cho bà Bái ba nuôi thời con gái, bà ngoại của thằng Long. Bà Bái là bạn
hàng xóm láng giềng với ông bà nội tôi. Hai miếng đất giáp ranh bởi con rạch
Lái thển chảy ra sông Ba lai. Con rạch mà tuổi thơ của tôi trầm mình tập bơi
lội dưới dòng những chiều nước lớn và khi nước giựt ròng tôi theo chị tôi xúc
tép đãi hến và sau này lớn lên một chút tôi thường cắm câu dọc theo kinh lúc
đêm về với cả chục cần câu chuốt bằng tre gai. Con rạch mà hồi nhỏ tôi bơi muốn
hụt hơi mới tới bên kìa bờ thật ra nó chỉ rộng vừa đủ chiếc ghe chài lui tới
chở dừa đem cân. Thấy được tuổi, nội tôi bằng lòng cưới vợ cho cha tôi còn bà
Bái ba đứng ra gã, hai bên kết thông gia từ khi mẹ tôi mới vừa mười bảy tuổi
còn cha tôi cũng hai mươi. Lập gia đình xong cha tôi quyết định ra riêng. Bà
Bái ba chỉ miếng đất trong vườn bà cho cha tôi cất nhà nói là để tiện cho mẹ
tôi lui tới sớm hôm với bà. Có lẽ mẹ tôi về sống với bà được bà thương yêu đùm
bọc coi như con nên đặt chị ba Hoài thứ ba mặc dầu chị là con đầu lòng và cũng
tiện cho vai vế khi xưng hô vì phía cha tôi - thứ hai.
Thật tôi không ngờ, đứng trước ngôi mộ của mẹ tôi lại là
chòm mộ của gia đình chị ba Hoài. Mộ của chị, và nằm sắp lớp xung quanh là mộ
hai Phường, ba Tiệm, mộ thằng Núp và sau cùng ngôi mộ mới tinh vừa quét vôi
ràng ràng mộ thằng Long.
Mới tết vừa rồi, chị tôi cũng sửa sang chỗ nằm của mẹ tôi
tươm tất. Con Ẩn, không chồng, sau ngày ba mưới tháng tư cũng chỉ giữ vai trò
khiêm nhượng là chủ tịch hội phụ nữ giải phóng Xã mỗi tháng chỉ họp lấy lệ một
lần với công lao kháng chiến hưởng tiền hưu, chủ yếu hoa lợi nhờ vào miếng vườn
để giữ ngôi nhà thừa tự. Sáu Ẩn cũng đã chỉnh trang chòm mộ đặc biệt sau khi
anh nó thằng Long mãn phần. Hai anh em sống hủ hỉ suốt năm tháng sau chiến
tranh. Thằng Long chết vì bịnh ung thư gan khi nó chưa kịp hưởng căn nhà
thừa tự mà hai anh em nó dành dụm mới vừa xây xong.
Tôi thắp nhang vái mẹ tôi xong, rồi đi vòng vòng cắm
ba nén nhang cho từng ngôi mộ.
Khi tôi bước qua nhà đi dự đám giỗ thì gặp tư Xê và sáu Ẩn
đon đả mời chào. Những người đi dự đa số tôi đều biết mặt. Người lớn có, nhỏ
có, ngang hàng có, chỉ trừ các em cháu nhỏ sau này là tôi không biết gốc gác
con ai. Thấy tôi ở xa về ai cũng xúm xít hỏi thăm cuộc sống của tôi ở Mỹ ra
sao, nghe nói có vợ về sao không thấy? Hồi trước giải phóng làm chức vụ gì. Tôi
trả lời vắn tắt. Tôi là sĩ quan trước phục vụ ở bộ tư lệnh vùng bốn Cần Thơ,
làm việc ở văn phòng không có đi tác chiến cấp bực trung úy tuy có quyết định
thăng cấp đại úy chưa kịp nhận thì bị vụ ba mươi tháng tư. Sau khi đi tù về rồi
sang Mỹ diện H.O. Sau mấy tuần rượu đẩy đưa, mời ép thì tôi chỉ cầm đũa cầm
chừng mà không buồn gắp thức ăn, Tư Xê sợ tôi ngại ăn gà vịt sợ bịnh cúm gia
cầm nên nói bảo đảm gà vịt ở nhà nuôi không lây nhiễm. Tôi làm sao nuốt cho vô
trong khi ngồi ở bàn tiệc nghe những điều mà mình muốn quên đi:
- Thời chiến tranh ác liệt mầy không ở dưới quê là may. Giờ
hòa bình lại được ở Mỹ là đại phước!
- Bồ mà còn ở lại chắc cũng phải không theo bên nầy cũng
theo bên kia. Chắc bồ còn nhớ thằng Ức con bộ Hào theo nghĩa quân cũng bị anh em
mình giết chết. Thằng Út con bộ Tánh bỏ làng theo sư đoàn bảy. Đi hành quân bị
thương về ở làng thương phế binh. Sau bảy lăm cách mạng vào giải tán trại, bị
đuổi về vườn sống bữa đói bữa no, vợ nó là con Á con tám Kinh. Hiện nay thì bị
tai biến mạch máu não đi cà xịt cà đụi quanh quẩn trong nhà chỉ nhờ vào con vợ
đi bán bánh bò bữa được bữa không. Còn thằng Tam con Ghỉ A, đi theo cảnh sát
hòa bình không thấy trở về chẳng biết còn hay mất.
- Không nói đâu xa.Hôm nay giỗ năm Long cũng nên nhắc lại
tội ác của Mỹ ngụy.
Ai đời, tụi nó bắn chết ba Tiệm ở chân cầu Lái Thển, trước
khi rút đi còn thâm độc gài trái lựu đạn lại. Nó cố tình giết thêm nhiều mạng
người. Bữa đó, vì nóng lòng con, nóng lòng em, mà cô ba Hoài, hai Phường, thằng
Núp cả nhà chết chùm. May mà tư Xê, không có mặt, vã đi lính ở miệt nào xa
không biết. Còn sáu Ẩn thì theo bên nầy công tác xa nên thoát nạn, chứ không
thôi...
Sợ buổi Tiệc không được vui tư Xê đánh trống lảng bằng cách
châm rượu thêm cho tôi bắt qua chuyện khác:
- Anh chín, người ngồi kế anh là ai anh có biết không? Chồng
sau của vợ ba Tiệm đó. Còn thằng hồi nãy bưng thức ăn nó chào anh. Nó là thằng
Rắc con ba Tiệm. Ba nó mất hồi nó mới học mẫu giáo. Con Cụt chị, con Cụt em hai
đứa đều lớn đại có chồng có con hết trơn.
Tôi à lên một tiếng. Thằng Rắc để râu ria lởm chởm trông
muốn già bằng tôi.
Bỗng như nhớ ra điều gì, tư Xê giới thiệu với mọi người là
tôi có trí nhớ dai. Ảnh còn nhớ vanh vách câu thiệu hay câu vè mà hồi đó mọi
người đều biết. Những nhân vật trong làng mình, nhớ từng đặc điểm. Đâu anh Chín
thử nhắc lại xem ai trong bàn tiệc nầy còn nhớ không?
Tôi bưng ly nước lạnh nhấp mội xong rồi thưa, sau khi đọc
xong cho phép tôi kiếu trước, vì còn bận xuống nhà dưới để chào hỏi bà con một
chút kẻo bị quở là ở xa về vô tình. Tôi đọc:
- Lội mương mắc cạn là chỉ ba Ơn [Có tiếng nói lao
xao: ba Ơn ở ngõ ba lộ thầy Cai mập ú na ú nần...]
Ai có cơn là chị tư Lược
[Tư Lược chết lâu rồi, bả có cơn thiệt]
Ai nói cũng được là con năm Kiểm
Dầu [Con nhỏ lẳng lơ phải biết!]
Tánh hay câu mâu là cô mười Cứng [A, a cái này đụng chạm à nghen. Bả đang
còn sống. Bả mà nghe được chắc bả nổi sùng chửi cho một
mách!]
Cặp nào xứng bằng cặp thằng Liêm [Không biết hai đứa nó giờ ở đâu? Có còn khắng khít như hồi
mới cưới không hay đã rã bè?]
Con mắt lim dim là con ba bà Lếch [Con ba con tư. Nhớ ra rồi. Bà Lếch vợ quản Đặng. Cả hai
đều chết. Hai chị em nó có chồng ở đâu xa ít khi về đây. Nhắc chị ba bà Lếch
tôi thù thằng cha tư Tương hết chỗ nói. Số là... Chị ba mới mua được chiếc xe
máy đầm. Chị mới tập chạy chưa rành. Thế mà chị dám rủ tôi xuống chợ Bến Tre
xem cải lương gánh Đồng Thinh có kép mùi Văn Thường đóng. Tôi ngồi sau yên xe
vịn chặt dưới yên xe. Con lộ đất ngoằn ngoèo khiến xe lượn qua lượn lại, còn
thân mình chị cũng uốn theo. Thế mà thằng cha tư Tương dám đặt điều bảo tôi bóp
l. con ba bà Lếch! Chú sáu Xã đang đứng hớt tóc cho tôi, chú vừa húi cái đầu
ca-rê thì tôi vụt đứng dậy xấn tới như muốn ăn thua đủ với tư Tương. Chả chỉ
cười hề hề gạt nhẹ tay tôi ra. Chú sáu nói như an ủi. Ảnh nói giỡn chơi vậy mà.
Đừng tức giận kỳ lắm!]
Tướng đi chấm phết là chị ba Dương [Mọi người cười cười. Chị ba Dương dâu ông mười Quản có tật
chân]
Ăn nói lương khương là ông mười Quản [Tới ông già chồng đây. Ông nầy nói chuyện chậm rãi, rị mọ
nghe bắt ghét]
Ông nào xài đản bằng ông bồi Minh [Ông bồi Minh giàu có, ăn xài thả cửa. Không biết ông chết
đi nhà có còn bộ sắc thần mà ông nội của tôi bàn giao cho ông?]
Rốt cuộc ở một mình là ông bảy Chữ. [Nói bảy chữ chứ ông dốt đặc cán mai. Cho đến khi ông qua
đời ông vẫn còn độc thân!]
Ai dữ bằng thợ Hai.
[Chú thợ Hai làm nghề thợ mộc, có người vợ là cô ba Ký mắt bị mù vì bịnh đậu
mùa. Vậy mà công việc trong nhà một tay cô sắp đặt rành rẽ như người sáng mắt.
Nhớ có lần thằng On con dượng lội hớt cá thia thia ở vườn ông Huyện. Nó đạp
nhằm cây chông cây. Về nhà nó mượn cây khoan của dượng ba ngồi khoan lấy khúc
giầm ra. Nghe nói sau này nó theo du kích thủ cây tiểu liên nằm chết tử thủ
trong hầm.]
Ai dai bằng thần Tài.
[Chú thần Tài chuyên môn mua rượu chịu, chủ quán đòi trật vuột, chú hẹn lần hẹn
lựa, riết rồi hễ thấy chú xách chai đi đong ai cũng bắt cười].
Tôi vừa định đứng lên kiếu từ thì thằng Khai chồng em Nhỏ đã
giới thiệu Chủ tịch xã đi cùng với mấy người khác cũng trạc tuổi với nhau làm
việc ở Ủy ban xã, vừa bước vô nhà đi thẳng đến chiếc bàn đã được dành sẵn.
Thằng Khai lên tiếng:
- Giới thiệu với bạn. Đây là Xã trưởng, con trai của tư Xê.
Nghe nói kỳ đại hội tới sẽ được đề bạt vào chức vụ cao hơn, bí thư xã. Nhờ có
ít chữ nghĩa học bồi dưỡng các lớp bổ túc văn hóa mà gia đình toàn cách mạng và
liệt sĩ.
Tôi nghe mà để ngoài tai. Cái thằng bạn học thuở nhỏ,
sau bao nhiêu năm chiến tranh xa cách, gặp nhau chỉ chào hỏi qua loa, tuyệt
nhiên không đá động gì việc tôi ở Mỹ về.
Nó cũng là lính ngụy chứ có theo cách mạng cách miếc gì mà
như không ưa tôi lại còn nói vùa theo họ? Nó là thương phế binh được giải ngũ
trước bảy lăm. Con mắt trái lúc nào cũng đeo cái kính màu vàng ố nhét cục bông
gòn. Ngồi vào bàn tiệc mà thấy nó tháo kính ra lau rồi thay cục bông gòn mới ai
cũng muốn bỏ ăn. Nó có biết đâu, em Nhỏ vợ nó hồi nhỏ từng ở truồng tắm mưa với
tôi. Em Nhỏ là con chị tư nhỏ. Chị ba Hoài có người em kế là anh Kiểm tư. Cưới
vợ chị tư lớn ở không con, nên đèo bồng thêm chị tư nhỏ sanh một mụn con duy
nhất rồi anh chết. Sau nầy chị tư nhỏ lại làm bé chú mười Thê. Chị tư lớn ở vậy
sống cuộc sống tu hành.
Trở xuống nhà sau bé Ba gặp tôi vội vã nói:
- Cậu ngồi bàn trên chắc là không hợp. Con nhắc ghế ngồi với
phe ta. Đây con giới thiệu: Chị Ba, bạn học thời Trung học. Trước bảy lăm nhà có
tiệm vàng tổ chức đóng tàu vượt biên năm lần bảy lượt không xong, bị bắt lên bị
bắt xuống, xài không biết bao nhiêu cây vàng, giờ cũng đành thúc thủ ngồi đây.
Hai anh ngồi kế bên là bạn dây chuyền với nhau. Cùng phe ta nên dễ quen nhau.
Cũng là sĩ quan. Nhưng không ra trình diện học tập, cũng bao phen đi mà không
thoát, ở tù, lo tiền thả ra. Vợ con đi được gởi tiền về ở không xài chờ ngày
bảo lãnh. Ngồi đây cậu có thể nói chuyện thoải mái. Con thông cảm với cậu mà!
Thấy tôi chịu ngồi xuống, các vị chĩa mũi dùi vào tôi hỏi
tới tấp. Nghe nói bên Mỹ cũng có ăn xin đứng ở ngả tư? Ở bển có nghe rục rịch
gì không? Không lẽ dân chịu đựng mút mùa lệ thủy sao! Báo chí bên này tụi nó
bàn điệu nầy anh Mẽo lại sa lầy ở I-Rắc như ở Việt Nam? Liệu đảng Cộng Hòa kỳ
nầy có tiếp tục hay nhả ra cho đảng Dân chủ. Bà vợ ông Clinton có thể trở thành
nữ Tổng Thổng đầu tiên của nước Mỹ không? Toàn những câu hỏi mà tôi không dám
trả lời chỉ lắc đầu cười trừ. Thật tình cuộc sống của tôi đâu có rảnh mà tò mò
những chuyện đó. Tôi chỉ muốn nói không cốt để an ủi họ. Thế giới ngày nay đã
đổi khác rồi. Cái gì trái quy luật cũng sẽ bị đào thải. Hãy sống để chờ. Chứ
không chờ mới sống! Thôi quí vị cứ ăn uống tự nhiên. Tôi xin phép kiếu về sớm
vì có nhiều việc cần làm.
Bé Ba tiễn tôi một đoạn đường và không quên trao đổi số điện
thoại với tôi, hứa về Mỹ gọi cậu cháu tâm sự nhiều hơn.
“Alô! Xin lỗi ai ở đầu dây, có phải cậu Chín không? Con là
bé Ba con hai Phường. Cậu về khỏe không? Còn con lần đầu từ ngày vượt biên năm
tám hai, gặp lại gia đình
bên ngoại cũng vui mà buồn. Chiến tranh mà, trời kêu ai nấy
dạ. Con tin con người có số mạng. Nếu như hồi đó má con bao đò không kịp chắc
là đâu có chết chùm tức tưởi cả nhà như vậy! Thật sự giờ con chỉ muốn quên đi.
Chỉ nghĩ đến tương lai mà thôi. Cậu năm Long con, giá như cậu chịu nghe lời lúc
con lén đem cậu lên Saigon chửa trị cái lỗ mũi nó hành cậu dữ dội, cậu một hai
đòi về nói là để trả thù cho cái chết của gia đình ngoại con. Thế mà chính cậu
sau nầy lại là người xúi con tìm cách đưa mấy đứa nhỏ đi để sau nầy tụi nó có
tương lai. Mà thật vậy. Hai đứa lớn, đứa kỹ sư, đứa dược sĩ, cả hai ra trường
có công ăn việc làm vững chắc. Còn gái Út cũng đã năm thứ hai đại học. Bây giò
cậu năm đã yên phận. Tội là tội cho dì sáu Ẩn. Giờ ở một mình không chồng không
con. Lương hưu đâu có bao nhiêu. Con nói dì cần gì con giúp. Dỉ nói sao cậu
biết không? Dỉ nói huê lợi miếng vườn cũng đủ để dì lo ngôi nhà thừa tự. Bây mà
cho tiền nhiều người ta tưởng tao tham nhũng! Cái đó nó thành quen lệ rồi. Hễ
lớn ăn theo lớn. Nhỏ ăn theo nhỏ.
Một mai lại đổi đời cũng móc họng ra ói! A! Nãy giờ con nói
nhiều quá. Nói hước không cho cậu chen vô tiếng nào. Con xin lỗi cậu. Lần sau
tới phiên cậu nói con nghe.”
Đạm
Thạch