30 June 2016

NHỚ VÀ QUÊN - Đạm Thạch

Thấy tôi có vẻ lừng khừng, chị nhìn tôi, đôi mắt có chút gì như năn nỉ. Rồi chị vừa giải thích mà cũng như vừa khuyến khích tôi thêm:
- Kệ nó em! Chuyện đã qua cho qua. Đừng để tâm làm gì em. Chịu khó bước vài bước qua nhà thắp cho nó vài nén nhang. Hôm nay, ngày giỗ đầu của nó. Chẳng mấy thuở em về. Chị thấy, mấy năm sau này nó thất sủng, bị hất cẳng ra khỏi Ủy ban, cởi bỏ áo công an, hình như chỉ còn lo ban Thể dục thể thao cho xã mà thôi!

 Mẹ tôi mất hồi tôi mới năm tuổi. Chị ở vậy nuôi tôi. Tôi xem chị như mẹ. Ba năm trước tôi về tổ chức lễ thượng thọ cho chị. Chị nói:
- Thôi em! Đừng làm gì rình rang. Chỉ cần sắm một mâm trái cây rồi chị em mình qua chùa cúng Phật và gởi tiền cho Thầy trụ trì để chùa mua gạo phát chẩn.
Chị bảo gì tôi cũng thuận nghe. Tôi hiểu tấm lòng của chị. Rồi chị cười cười nhắc lại.

Năm nọ em về mang chai rượu Mỹ - rượu gì chị không rành. Cúng giỗ cha xong, em khui rượu đãi mọi người, ai cũng khen ngon. Thằng Long nhún môi khà lên một tiếng buộc miệng khen rượu Mỹ ngon quá chừng chừng, ngon đáo để, ngon hết sẩy, ngon hết chỗ chê; làm ai trong bàn tiệc cũng móc nhẹ nó:
- Giờ mới biết khen Đế quốc là trễ rồi!
 Thằng Long chỉ bẽn lẽn mà không tỏ dấu hiệu gì tự ái, cáu giận. Giá như trước đây nó đã sừng sộ lên lớp mọi người. Rượu hết. Chỉ thoáng chuyền tay qua một tua là trút chai không còn một giọt dính đầu ngón tay. Tiệc tan. Ai cũng dáo dác tìm cái vỏ chai. Người nào cũng muốn tìm để cò-léc xông, cò-léc-xiếc gì đó. Người này nghi người kia mà không ai nghi thằng Long cất giấu. Té ra, khi nó chết, thấy con Ẩn - em nó - chưng trên bàn thờ nó.
Vậy là tôi quyết định qua thắp cho nó mấy cọng nhang. Dầu gì nó cũng là...
Chị tôi vui ra mặt, đệm thêm:
- Có con Bé Ba, con của hai Phường, cũng ở Mỹ về như em. Không biết em còn nhớ, nó gọi năm Long bằng cậu ruột.
Như có thêm đồng minh, tôi xăn xái thay áo qua dự đám giỗ và cũng để biết thêm về con Bé Ba, con của hai Phường, mà hồi chiến tranh, mẹ nó cũng đã chết chùm cùng gia đình.
Đầu tiên là ba Tiệm, em kế hai Phường. Ba Tiệm theo du kích xã. Hôm ấy, có cuộc phối hợp hành quân giữa lực lượng địa phương và toán biệt kích quận. Ba Tiệm có nhiệm vụ gác cầu Lái Thển. Khi phát hiện toán lính mở đường xuất hiện bất ngờ vội chạy báo động. Ba Tiệm chạy không khỏi, chết ngay tại chỗ bởi loạt đạt đầu tiên. Toán lính địa phương tiếp tục mở rộng cuộc hành quân. Toán biệt kích quận nằm ém lại. Vài người kéo xác ba Tiệm lại gần dốc cầu, lấy lá dừa đậy lại, sau khi sửa xác chết nằm ngay ngắn.
 Cho đến chiều tối hôm đó, khi cuộc hành quân hoàn toàn chấm dứt, nghe ngóng và cầm chắc lính đi ruồng đã rút về hết, bà con trong vùng mới thông báo cho gia đình tin ba Tiệm nằm chết ở cầu Lái Thển, nơi mà ba Tiệm thường được phân công canh gác. Ba Hoài, mẹ ba Tiệm, cùng thằng con út, bỏ dở cữ sấy dừa, tức tốc chạy qua nhận diện. Hai Phường, từ dưới lộ đá Ba Lai, cũng được tin, bỏ gánh rau bán nửa chừng, vội bao đò qua sông cầu Kinh theo ngã lộ chú Kiếu, hốt hoảng chạy lên cho kịp. Khi ba mẹ con cùng lúc giở xác ba Tiệm thì một tiếng nổ kinh hoàng, chát chúa của quả lựu đạn được gài lại. Cả ba mẹ con chết banh xác ngay tại chỗ. Mẹ, ba Hoài chết tuổi bốn ba. Con, hai Phường hai mươi bốn để lại ba con nhỏ. Lớn nhứt mới năm tuổi, nhỏ nhứt lên hai. Ba Tiệm chết tuổi hai mươi hai, để lại ba con, một trai hai gái. Thằng Rắc lớn nhứt mới vô mẫu giáo. Con Cụt chị nói còn ngọng nghịu, con Cụt em mới biết đi lững đững.
Riêng thằng Núp, mới vừa bể tiếng, giọng nói khao khao, kháp kháp như vịt xiêm lai.
Nó chết xác văng nằm vắt vẻo sát bờ kinh. 
Tôi đã bỏ lửng giữa chừng. Tôi nói: dầu gì... dầu gì thằng Long cũng là bạn thân với tôi hoặc còn hơn thế nữa. Nếu có dịp tôi sẽ mở dấu ngoặc để lần mò về sự thân cận giữa nó và tôi.
Thằng Long nó chỉ hơn tôi một hai tuổi là cùng. Tôi tuổi Mùi. Nó tuổi Ngọ hoặc tuổi Tỵ. Những năm năm mươi, một thời thới bình ở làng tôi. Những ngày nghỉ học, nhà thằng Long là nơi chúng tôi thường xuyên tựu tập để tổ chức rượt sóc, bắn chim.
 Thằng Núp, em út thằng Long, lúc đó chừng ba bốn tuổi, môi chì, nước da bủng, mốc cời, tướng mập và lùn. Hễ ngày chủ nhựt, ngay sáng sớm, nhằm lúc nước ròng, nó tình nguyện xuống mương tìm đất sét. Riết rồi nó quen và biết nơi nào là ổ đất sét loại đất có màu vàng nửa nghệ nửa tròng đỏ trứng gà. Loại đất dính dẻo nhẹo chứ không phải đất bùn gặp nước chưa kịp nắm đã rã ra. Đất sét vò đạn bắn chim là lý tưởng. Ngoài hai anh em thằng Long và tôi. Còn có thằng Ức con bộ Hào. Chú bộ Hào có hai người vợ ở chung một nhà. Thiếm năm lớn, ở với chú không con, thiếm đứng ra cưới thiếm năm nhỏ cho chú. Chú có tiền, ở không đi đánh bài. Thằng Ức là con thiếm năm nhỏ. Con Triệu chị nó sau này ưng thằng tư Xê, em kế ba Tiệm. Rồi còn có thằng Út con bộ Tánh.
Chú bộ Tánh ho kinh niên, đụng đâu cũng khạc nhổ, đờm xanh thấy mà gớm. Người ta đồn chú bị lao phổi ít ai dám lại gần sợ lây. Sau cùng còn có thằng Tam con Ghỉ A, cháu ngoại Tám Kinh. Tám Kinh ở xóm ai cũng biết, nhà chuyên môn chứa bài tứ sắc để lấy xâu. Những lúc tám Kinh thiếu tụ thường hú cha tôi qua trám chỗ. Những lúc đó, cha tôi nhìn chị em tôi với đôi mắt thật dịu dàng như dò hỏi ngầm tìm một sự khuyến khích. Biết ý, chị tôi cười cười nói: Cha qua chơi cho khuây khỏa, lúa chỉ chờ gặt mà thôi, ở nhà ở không làm gì! Cha đi, cho thằng chín đèo-út của cha níu áo cha qua ngồi sau lượm rác. Chơi bài tứ sắc có thua bao nhiêu. Miễn là đừng có nóng mũi chơi bài cào hay xì dách rủi thua là cháy túi!
Để chuẩn bị cuộc chơi, tụi tôi xúm nhau nhào, ngắt đất vò đạn. Gặp bữa trời nắng ráo, đem phơi nắng. Chờ đạn ráo mồ hôi, cầm lên lòng bàn tay, thấy cưng cứng, nặng nặng là biết dùng được thì nhét đầy túi quần xà lỏn, túi quay phía trước bụng, kè kè, xề xệ cho dễ móc nạp vào miếng da nạng giàn thun. Gặp khi trời ui ui, hoặc thấy chuyển mưa đạn vò được đem sấy trên lò trấu. Đạn phơi nắng bắn đằm, đường đi chính xác. Đạn sấy khô nhanh, viên đạn bốc hơi bởi lửa nóng áp nên nhẹ hơn đạn phơi khô, thường bị bạt gió. Tôi và thằng Tam có nhiệm vụ bắn nà tứ phía để cướp tinh thần con vật buộc nó phải nhảy từ tàu lá dừa cây dừa nầy qua cây dừa khác cốt yếu cho nó chạy mệt đành thúc thủ bó đọt trên ngọn dừa. Vì vậy hai đứa tôi cần có nhiều đạn, nên mang một túi vải đeo ở cổ. Còn tụi kia không thích mang nặng nên chỉ bỏ đủ hai túi quần xề xệ trước rún. Tụi nó tự hào mỗi viên đạn phải hạ ít nhứt một con chim.
Thật ra, rượt sóc mới là chính, là mục tiêu hàng đầu. Còn chim chóc thì chỉ trau trảu mới đáng phí đạn. Sóc thường chuyền trên cao. Nó phóng nhanh từ cây dừa nầy sang cây dừa khác. Đôi lúc bị rượt nà, té xuống đất nó cũng kịp bò lên chạy vòng vòng theo thân dừa leo tuốt lên ngọn. Khi biết chắc nó mệt rồi, ngồi bó đọt trên ngọn dừa, hai thằng, hoặc thằng Ức hoặc thằng Út có nhiệm vụ leo lên ngồi trên buồng dừa rất nhẹ nhàng, khéo léo để không động tịnh và giương nạn giàn thun cách con sóc chừng hai sải tay. Bọn dưới đất đứng giăng hàng ngang, từ bờ dừa nầy đến bờ dừa khác. Khi phát hiện thấy có sóc, chúng tôi vừa la vừa bắn nột áp đảo tinh thần con vật. Đạn bắn tua tủa tứ phía. Nó đành tháo chạy thoát thân trối chết khi bị rượt nà. Còn chúng tôi cuộc rượt bắt sôi nổi, hào hứng nhứt là khi con vật bị thương rơi từ trên cao xuống đất và thằng nào cũng nhào tới bắt sống. Điều thú vị hơn nữa, con sóc được mang đến trình diện ông chủ vườn để được thưởng mười đồng. Hồi đó mười đồng tiền Bảo Đại lớn lắm. Chúng tôi biết tính ông trưởng Mười keo kiệt. Vườn rộng minh mông nhưng một trái dừa khô rụng cũng không qua mắt ông. Đứa nào lén phén lượm trái dừa hay bẻ bất cứ trái cây nào mà ông bắt gặp, ông bắt quì gối tại chỗ rồi còn kêu cha mẹ tới mắng vốn. Cũng vì tính như vậy mà ông thù lũ sóc lũ chuột phá hoại dừa ông. Chuột thì ông có thể hài bằng bẫy tre gác trên mỗi cây dừa nào mà ông thấy có chuột khoét. Còn sóc thì tinh khôn hễ nghe động tịnh một chút thì đã kịp phóng mình chuyền đi nơi khác. Để chơi khăm ông chúng tôi cố tình lùa sóc từ vườn khác sang vườn ông rồi mới tìm kế hoạch bắt sống. Nghe tiếng chúng tôi hô vang ông thường ra xem và cổ võ. Chính ông ra giá mỗi con sóc bắt được trong phạm vi vườn ông sẽ được thưởng mười đồng bất luận lớn hay nhỏ. Cuộc hành quân chấm dứt khi tiền trao cháo múc. Chúng tôi hăm hở quay về nhà thằng Long phân công nhau, đứa nhúm lửa, đứa rửa nồi vo gạo, đứa nấu nước sôi cạo lông hoặc thui rồi bầm, rồi nấu. Chỉ một con sóc bầm nhuyễn có thể nấu nồi cháo một lít gạo cũng dư sức ngọt. Chúng tôi vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả, mồ hôi chảy ướt áo. Đứa nào cũng giành góp công cho chiến tích của nồi cháo sóc. Trong khi ngồi đợi cháo nhừ nêm nếm muối nước mắm hành lá thì lần nào thằng Ức cũng tái diễn cái mửng cũ. bằng cách đem chim của thằng Long ra làm trò cười. Nó chê của thằng Long chỉ bằng trái ớt hiểm, chắc là muôn đời không cưới được vợ. Mà quả thật, thằng Long rất mặc cảm về điều này vì hễ ai nhắc đến đàn bà con gái là nó tìm cách nói lảng ra. Những lúc ấy thằng Ức thường phô trương của nó ra để chứng tỏ mình vô địch. Như hãnh diện thằng Ức cười híp mắt trong khi thằng Long bỏ đi một nước. Thằng Tam cũng thú nhận với tôi là nó chịu lép vế khi của nó chưa mở mắt! Còn thằng Bàn con sáu Bắp thỉnh thoảng mới tham gia cuộc chơi có lần rủ tôi hai đứa cùng trật quần nằm giữa bờ đê chờ con Lượng con bà mụ Huấn Tuồng đi ngang qua thấy chơi. Tôi nghe lời nó làm theo. Nhưng nửa chừng khi thấy bóng con Lượng đi gần tới tôi vội kéo quần lên khỏi rún và nằm úp mặt xuống ruộng giả đò ngủ say. Còn một mình thằng Bàn nó lảnh đủ tiếng chửi của con Lượng: Đồ tồi bại, đồ mất dạy, khi nó kịp nhìn thấy cái con trùn hổ của thằng Bàn vội kéo cái nón lá bước né qua. Không biết nó về nhà có mách với bà huấn Tuồng không mà sau đó nghe êm re trong khi thằng Bàn chơi dại đang còn sợ xanh máu mặt.
Trong khi húp cháo sì sụp chúng tôi trò chuyện với nhau bằng tiếng lái mà người ngoài không chú ý nghe được sẽ không thể hiểu chúng tôi đang nói gì. Thằng Ức có biệt tài nói lái chầu ba chầu tư. Nói nói : Tay ra ngoào [tao ra ngoài] hoặc nói hỏi: Mừa ăn cơm chây? [mầy ăn cơm chưa?]. Tôi dở hơn nghe nó không kịp và chỉ nói lái đôi. Để gỡ gạc tôi xổ một tràng tiếng Tây cho tụi nó lé mắt. Thằng nào quýt sơ măng đờ mống se? Thằng nào đờ lộng sôi? Còn thằng nào ót măng? Tôi cố tình chêm chữ đờ [de tiếng Pháp] lần đầu mới nghe tụi nó có vẻ phục tôi sát đất. Ăn uống no nê chúng tôi hè nhau rinh nồi chén ra kinh rửa. Rồi chia phe tạt nước hoặc chơi trò giấu cây lặn kiếm. Ngụp lặn đã đời cho tới mặt trời đứng bóng mới chịu trồi lên bờ. Thằng thì môi thâm tím, thằng thì nước bùn đóng bợn quanh miệng giống như để râu. Để bớt run lập cập tụi tôi lấy yếm mo cau làm giấy, rứt mầu dừa khô giả thuốc rê quấn thành điếu hút phà khói ra lổ mũi, sặc chảy máu cam. Chỉ có râu bắp hút thơm, nhẹ nhàng như người lớn hút Rubie, Ách chuồng. Rồi đâu đã chịu ngưng. Thằng Ức đề nghị tất cả leo lên đứng hàng ngang trên cây dừa trốc gốc ngã xiên cách mặt đất hơn hai thước thi nhau đái coi thằng nào đái xa.
Mục nầy thì thằng Long không bao giờ tham dự. Chuẩn bị chơi thằng Ức nín đái, hai tay bịn chặt đứng hẩy ra đằng trước cho nước xịt thật xa. Còn tôi trịt quần kéo ra trậm trầy trậm trật, đến chừng xả bọng được thì cũng chỉ đến mức hai thước là cùng! Thằng Út đếm một hai ba, cả bọn đồng ca bài: Trời lập đông, con cu teo, kéo ra hoài mà còn dài nhằng. 
Những ngày nghỉ học vui chơi đã đời cũng đã qua. Đám tụi tôi cũng phải ôm cặp đệm đến trường suốt những năm tiểu học.
 Năm lớp nhứt, học với cô giáo Hà tôi thi rớt đệ thất. Phải đợi năm sau thi đậu lớp tiếp liên, học với thầy Xương để chuẩn bị thi lại đệ thất. Có lần cô giáo Hà tâm sự với cả lớp chúng tôi: cô nói cô sẽ không bao giờ lấy chồng!
Trong trái tim non nớt tôi tin lời cô Hà nói và như có một điều thiêng liêng nào khiến tôi vừa cảm động vừa hạnh phúc. Học lớp tiếp liên với thầy Xương mà tâm hồn tôi vẫn hướng về cô giáo Hà ở ngôi trường Phú Khương với tất cả chân tình. Thầy Xương dữ dằn, thường đứng chồm xuống bàn thứ hai nhiếc tụi học trò chậm hiểu bài toán mà thầy vừa giảng là đồ ăn rục quần chó! Những lúc ấy hình ảnh cô Hà hiền dịu như một nguồn an ủi. Rồi một chiều, khi đạp xe đi ngang qua trường cũ tôi bỗng bắt gặp cô Hà ngồi sau xe Lambretta và một tay vòng ôm eo thầy Quân! Tự nhiên tôi choáng váng và nước mắt tủi thân chảy dài xuống má. Câu nói ngày nào của cô đã làm cô như thần tượng bỗng nhiên sụp đổ. Tôi không còn hứng thú đạp xe mỗi ngày từ nhà đến trường hơn sáu cây số như trước đây với chiếc xe đạp đòn dông nhỏ xíu mà anh tôi mua tặng như món quà quí giá đầu tiên trong đời của tôi để khuyến khích tôi cố thi đậu vào lớp đệ thất trường công tại thị xã Trúc Giang. Và năm đó một lần nữa tôi thi rớt. Nỗi thất vọng của tôi không phải vì thi rớt đệ thất mà là tôi thật sự buồn bã khi biết mình từ đây đã thật sự mất cô Hà.
Chị tôi tưởng tôi không đậu nên buồn bỏ ăn mấy ngày. Chị an ủi:
- Rớt keo này bày keo khác em lo chi. Học tài thi phận mà! Mấy tháng hè cứ vui
chơi với bạn bè để rồi tựu trường ghi tên học lớp đệ thất trường tư rồi cố ôn bài thi lại cứ nhồi riết thế nào cũng đậu lo gì?
 Thế là tôi xa quê từ đó. Xa những thằng bạn với những buổi rượt sóc hào hứng.
 Tôi tiếp tục học trường bán công Hoài An ở Phú Nhuận và ở trọ nhà anh tôi. Thay vì trở về quê thi lại đệ thất tôi tiếp tục học tiếp lớp đệ lục. Và sau khi được ban giám hiệu khuyến khích nhảy lớp, tôi bỏ lớp đệ ngũ và nhảy lên học lớp đệ tứ mà không phải đóng học phí. Đang khi ráo riết để chuẩn bị thi tốt nghiệp trung học đệ nhứt cấp được tin chị tôi đau nặng tôi tức tốc trở về quê cũ. Xuống xe bên kia cầu Ba Lai, tôi lột giày lội bùn từ ngã tư Từng Đậu nhắm hướng ấp Phước Hậu đi như một kẻ mất hồn.
Theo lời cha tôi kể lại, vào một đêm khuya, thằng Long sau nhiều năm vắng mặt bỗng nhiên xuất hiện, súng ống kè kè. Nó đề quyết chị tôi lấy cắp số vàng mà gia đình nó chôn giấu. Bằng chứng là tôi có tiền lên thành phố học mà không cần thi đệ thất ở tỉnh nhà. Chị tôi thề bán mạng. Chị thách nó dám lên đình Phước Hậu bẻ cổ gà thề trước mặt thánh thần? Nó không đi. Nó nói nó không tin thần thánh. Thần thánh là cái con mẹ gì mà phải thề? Nó bắt ép chị tôi phải nhận. Ức quá chị tôi phát điên. Cha tôi phải đi thỉnh bác chín Du làm nghề thầy pháp lâu năm để giải tà. Phải mất hai ngày để bác chín chuẩn bị lập đàn tràng ngay trước sân nhà cha tôi. Cái sân vuông rộng chung quanh dựng hàng rào ngang ngực kết tua bằng lá đủng đỉnh như người ta thường dùng trang trí rạp đám cưới. Ngoài bác chín Du, người ốm yếu, giọng nói sang sảng, cột cái khăn nhiễu điều trên đầu bỏ thỏng một bên để một tay bác cầm, tay kia bác cầm cây nhang bắt ấn, còn có ba người đàn ông lực lưỡng hóa trang thành ba nhân vật Quan Công, Quan Bình và Châu Xương. Người nào cũng đi đứng múa may, hươi thương, kích, đoản đao giống như trong tuồng hát bộ. Cuộc lễ bắt đầu lúc chạng vạng tối. Bà con trong xóm kéo nhau đứng vây quanh hàng rào vừa tò mò theo dõi một cách thành kính vừa có cảm giác sờ sợ. Cha tôi mặc áo dài khăn đóng màu đen như những ngày đình Phước Hậu cúng lễ kỳ yên.
Một người thanh niên lạ mặt đệ tử của bác Chín dẫn chị tôi từ trong nhà bước ra ấn chị ngồi trên chiếc ghế đai. Trông chị ốm yếu, gương mặt thất thần. Chị dáo dác nhìn những người đang chen chúc đứng xem. Chị không nói tiếng nào. Thỉnh thoảng chị kéo vạt áo bà ba lên lau mặt. Quang cảnh bỗng im lặng đến ngột ngạt khi chiêng trống trổi lên gióng giả. Sau khi xá bốn phương tám hướng bác chín Du bắt đầu hành lễ. Một tay nâng khăn điều tay cầm nhang dạng chân đi qua lại trước mặt chị tôi với sự hỗ trợ hầm hì của ông quan Châu Xương râu cụt cầm thương dài múa may loạn xạ. Lúc đầu chị tôi chỉ cúi nhìn xuống đất, đôi mắt như sợ sệt. Nhưng khi bác Chín càng la hét hâm dọa thì chị tôi bỗng đứng vụt dây chỉ vào mặt bác chín nói như thách thức:
- Ai có giỏi thì đè cổ thằng nào vu oan giá họa. Đừng tưởng làm ồn ào như vầy mà dọa được con nhỏ nầy. Nào. Giải tán. Nhà ai nấy về. Về hết. Để tôi còn nghỉ ngơi!
 Con heo sữa quay từ hồi sáng giờ đã nguội lạnh. Bác chín lắc đầu than con tà nầy dữ quá cần phải triệu thêm người cao tay ấn để trừng trị.
 Phải mất cả năm sau chị tôi mới lần lần hồi phục. Khi được biết chị tôi đã tỉnh nhiều, sinh hoạt bình thường thì tôi không còn dám trở lại quê tôi nữa. Bởi, đây là giai đoạn mà Mặt trận Giải phóng Miền Nam thật sự nổi lên. Dấu hiệu đầu tiên là những thân cây dừa đã bắt đầu xuất hiện cờ Mặt trận với ba màu xanh đỏ vàng. Lính nghĩa quân xã cũng chỉ dám lên một đổi đường lấy bùn non trét lấp lá cờ rồi rút về. Tin từ quê nhà cho hay thằng Long đã gia nhập lực lượng chính quy được huấn luyện trong bưng. Thằng Ức đi nghĩa quân. Thằng Út đi Sư đoàn Bảy căn cứ đóng ở phía Sơn Đông. Thằng Tam ghi danh vào lực lượng cảnh sát chiến đấu ở tận Long An. Cha và chị tôi không thể rời bỏ ruộng vườn, đành trụ lại giữa hai lằn đạn. Nhiều lúc tình hình căng thẳng bắt buộc phải tản cư thì cũng chỉ né qua phía Sơn Đông khi thấy tình hình êm lại thì quay trở về.
Từ lộ đá Ba Lai nơi có nhà việc Xã, có ngôi chợ, có trường tiểu học Thạnh Hựu mà thuở thơ ấu tôi đã học lớp ba với thầy Đơ rồi lên lớp nhì với thầy Bình. Chính năm học này thằng Nam tuy học cùng một lớp nhưng nó lớn con bự xộn đã đầu độc tôi bằng cách nhét cuốn tập chép tay trong gầm bàn tôi với hình ảnh ba mưới sáu kiểu tục tĩu. Và cũng chính năm học này tụi tôi chuyền tay nhau chép thơ bằng giấy pơ-luya mỏng nhiều màu với những bài thơ như Hổ nhớ rừng, hai sắc hoa ti-gôn... 
Đó, từ đây có thề tẻ theo ba ngả lên các ấp Phước Hậu, Phước Thịnh, và Phước Hựu của làng Tam Phước nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Riêng ngả chú Kiếu nằm dọc theo bờ sông Ba lai lên hướng Tường Đa phải qua cây cầu đúc duy nhứt là cầu Kinh cũng đã bị giựt sập để cản trở những cuộc hành quận lớn nhỏ của chánh quyền. Dọc đường các biểu ngữ viết nguyệch ngoạc với nội dung chống chế độ Ngô Dình Diệm thối nát, gia đình trị hoặc đả đảo tay sai đế quốc Mỹ được căng ngang các lối đi. Và rất nhiều chướng ngại vật mô mìn giả. Trong bối cảnh nguy hiểm đó định mệnh nào khiến hai Phường kịp bao chuyến đò định mệnh cho đời mình...
 Dĩ nhiên, những tàn tích chiến tranh những năm ác liệt ấy giờ không còn sau bao nhiêu năm vật đổi sao dời. Cây cầu Kinh đã được bắc lại ngang qua con kinh rộng chỉ trên năm mươi thước cũng chỉ là cây cầu xi măng tạm bợ rộng chỉ vừa đủ bộ hành và xe ba gác qua lại chở dừa. Ba con lộ tẻ đã cũng chỉ từng chặng trải đá tráng nhựa để tiến lên xã hội chủ nghĩa ưu việt thay thế những con lộ đất từ thuở cha sanh mẹ đẻ ra tôi.
Tôi đã về thăm lại mộ mẹ tôi. Ngôi mộ mà anh chị tôi bàn tính sẽ có ngày di dời về nằm gần cha tôi bên phần đất bên nội, cách con rạch Lái Thển, bên này là miếng vườn của bà Bái Ba mà hình như hồi nhỏ tôi quen miệng kêu bằng ngoại. Mẹ tôi mất năm bốn tám mà chị tôi hay nói là năm Mậu Tý hưởng dương bốn mươi lăm. Chị tôi kể lại
ngày đám ma, tôi không khóc và còn hãnh diện với lũ bạn rằng nhà tôi có làm bò đãi tiệc, tôi cũng giả bộ kéo cái đầu tàu dừa gắn hai trái quao làm sừng dắt đi như sáng nay người ta dắt còn bò tội nghiệp đi đập đầu. Riêng mẹ tôi hồi sanh tiền không có chụp ảnh lưu lại nên trong ký ức mù mờ tôi cũng chỉ còn nhớ mang máng là mẹ tôi có khuôn mặt xương xương, người mảnh dẻ. Bà có thói quen ngồi bên bàn nước nhai trầu bỏm bẻm với con dao tách cau không tra cán, phần sắt đuôi dao được bẻ quặp lại. Tôi còn nhớ như in, chính lúc mẹ tôi dùng con dao ấy lạng trái bắp nấu ra dĩa cho tôi bốc ăn thì tôi cũng vừa làm một việc tàn ác là cầm cây chỉa soi nhái có ngạnh nhắm con gà con chui nằm dưới ngạch cửa mà đâm. Con gà mắc lưỡi chỉa dẫy dụa rồi chết ngay. Cha tôi đang nằm đọc truyện phong thần bỗng ngồi vụt dậy, đôi mắt quắc lên giận dữ quát to:
- Đồ chết bầm! Sao mầy ác vậy?!
Tôi ôm mặt khóc òa. Tay chân rung lẩy bẩy. Mẹ tôi một tay tém miệng trầu một tay ôm tôi vào lòng dỗ ngọt:
- Thôi con đừng khóc. Cha giận cha rầy thêm. Lỡ rồi, chắc con đâu muốn vậy. Thôi để mẹ bảo chị hai con làm thịt quay chảo cho con ăn. Trước sau gì mình cũng ăn.
Gà nuôi để ăn thịt mà!
Theo lời chị tôi kể lại, chính thằng Long hồi còn sống, nó khuyên đừng di dời mộ dì Tư [nó nói gia đình nó đâu có bắt buộc phải dời, ai cũng sẵn lòng dành một khoảnh đất đâu có thiệt thòi gì?] và bởi chị em chúng tôi ai cũng có công ăn việc làm đàng hoàng,
cuộc sống đang an bình, sau chiến tranh ai cũng còn nguyên vẹn thì không nên làm điều gì xáo trộn.
 Và đây cũng là lúc tôi cần mở dấu ngoặc để nói về sự thân cận giữa tôi với thằng Long. Cũng theo lời chị tôi kể, hồi đó,gia đình ông bà ngoại tôi nghèo, sanh đông con, ở đâu miệt Thủ Thừa thuộc Long An, bằng lòng cho bà Bái ba nuôi thời con gái, bà ngoại của thằng Long. Bà Bái là bạn hàng xóm láng giềng với ông bà nội tôi. Hai miếng đất giáp ranh bởi con rạch Lái thển chảy ra sông Ba lai. Con rạch mà tuổi thơ của tôi trầm mình tập bơi lội dưới dòng những chiều nước lớn và khi nước giựt ròng tôi theo chị tôi xúc tép đãi hến và sau này lớn lên một chút tôi thường cắm câu dọc theo kinh lúc đêm về với cả chục cần câu chuốt bằng tre gai. Con rạch mà hồi nhỏ tôi bơi muốn hụt hơi mới tới bên kìa bờ thật ra nó chỉ rộng vừa đủ chiếc ghe chài lui tới chở dừa đem cân. Thấy được tuổi, nội tôi bằng lòng cưới vợ cho cha tôi còn bà Bái ba đứng ra gã, hai bên kết thông gia từ khi mẹ tôi mới vừa mười bảy tuổi còn cha tôi cũng hai mươi. Lập gia đình xong cha tôi quyết định ra riêng. Bà Bái ba chỉ miếng đất trong vườn bà cho cha tôi cất nhà nói là để tiện cho mẹ tôi lui tới sớm hôm với bà. Có lẽ mẹ tôi về sống với bà được bà thương yêu đùm bọc coi như con nên đặt chị ba Hoài thứ ba mặc dầu chị là con đầu lòng và cũng tiện cho vai vế khi xưng hô vì phía cha tôi - thứ hai.
Thật tôi không ngờ, đứng trước ngôi mộ của mẹ tôi lại là chòm mộ của gia đình chị ba Hoài. Mộ của chị, và nằm sắp lớp xung quanh là mộ hai Phường, ba Tiệm, mộ thằng Núp và sau cùng ngôi mộ mới tinh vừa quét vôi ràng ràng mộ thằng Long.
Mới tết vừa rồi, chị tôi cũng sửa sang chỗ nằm của mẹ tôi tươm tất. Con Ẩn, không chồng, sau ngày ba mưới tháng tư cũng chỉ giữ vai trò khiêm nhượng là chủ tịch hội phụ nữ giải phóng Xã mỗi tháng chỉ họp lấy lệ một lần với công lao kháng chiến hưởng tiền hưu, chủ yếu hoa lợi nhờ vào miếng vườn để giữ ngôi nhà thừa tự. Sáu Ẩn cũng đã chỉnh trang chòm mộ đặc biệt sau khi anh nó thằng Long mãn phần. Hai anh em sống hủ hỉ suốt năm tháng sau chiến tranh.  Thằng Long chết vì bịnh ung thư gan khi nó chưa kịp hưởng căn nhà thừa tự mà hai anh em nó dành dụm mới vừa xây xong.
 Tôi thắp nhang vái mẹ tôi xong, rồi đi vòng vòng cắm ba nén nhang cho từng ngôi mộ. 
Khi tôi bước qua nhà đi dự đám giỗ thì gặp tư Xê và sáu Ẩn đon đả mời chào. Những người đi dự đa số tôi đều biết mặt. Người lớn có, nhỏ có, ngang hàng có, chỉ trừ các em cháu nhỏ sau này là tôi không biết gốc gác con ai. Thấy tôi ở xa về ai cũng xúm xít hỏi thăm cuộc sống của tôi ở Mỹ ra sao, nghe nói có vợ về sao không thấy? Hồi trước giải phóng làm chức vụ gì. Tôi trả lời vắn tắt. Tôi là sĩ quan trước phục vụ ở bộ tư lệnh vùng bốn Cần Thơ, làm việc ở văn phòng không có đi tác chiến cấp bực trung úy tuy có quyết định thăng cấp đại úy chưa kịp nhận thì bị vụ ba mươi tháng tư. Sau khi đi tù về rồi sang Mỹ diện H.O. Sau mấy tuần rượu đẩy đưa, mời ép thì tôi chỉ cầm đũa cầm chừng mà không buồn gắp thức ăn, Tư Xê sợ tôi ngại ăn gà vịt sợ bịnh cúm gia cầm nên nói bảo đảm gà vịt ở nhà nuôi không lây nhiễm. Tôi làm sao nuốt cho vô trong khi ngồi ở bàn tiệc nghe những điều mà mình muốn quên đi:
- Thời chiến tranh ác liệt mầy không ở dưới quê là may. Giờ hòa bình lại được ở Mỹ là đại phước!
- Bồ mà còn ở lại chắc cũng phải không theo bên nầy cũng theo bên kia. Chắc bồ còn nhớ thằng Ức con bộ Hào theo nghĩa quân cũng bị anh em mình giết chết. Thằng Út con bộ Tánh bỏ làng theo sư đoàn bảy. Đi hành quân bị thương về ở làng thương phế binh. Sau bảy lăm cách mạng vào giải tán trại, bị đuổi về vườn sống bữa đói bữa no, vợ nó là con Á con tám Kinh. Hiện nay thì bị tai biến mạch máu não đi cà xịt cà đụi quanh quẩn trong nhà chỉ nhờ vào con vợ đi bán bánh bò bữa được bữa không. Còn thằng Tam con Ghỉ A, đi theo cảnh sát hòa bình không thấy trở về chẳng biết còn hay mất.
- Không nói đâu xa.Hôm nay giỗ năm Long cũng nên nhắc lại tội ác của Mỹ ngụy.
Ai đời, tụi nó bắn chết ba Tiệm ở chân cầu Lái Thển, trước khi rút đi còn thâm độc gài trái lựu đạn lại. Nó cố tình giết thêm nhiều mạng người. Bữa đó, vì nóng lòng con, nóng lòng em, mà cô ba Hoài, hai Phường, thằng Núp cả nhà chết chùm. May mà tư Xê, không có mặt, vã đi lính ở miệt nào xa không biết. Còn sáu Ẩn thì theo bên nầy công tác xa nên thoát nạn, chứ không thôi...
Sợ buổi Tiệc không được vui tư Xê đánh trống lảng bằng cách châm rượu thêm cho tôi bắt qua chuyện khác:
- Anh chín, người ngồi kế anh là ai anh có biết không? Chồng sau của vợ ba Tiệm đó. Còn thằng hồi nãy bưng thức ăn nó chào anh. Nó là thằng Rắc con ba Tiệm. Ba nó mất hồi nó mới học mẫu giáo. Con Cụt chị, con Cụt em hai đứa đều lớn đại có chồng có con hết trơn.
Tôi à lên một tiếng. Thằng Rắc để râu ria lởm chởm trông muốn già bằng tôi.
Bỗng như nhớ ra điều gì, tư Xê giới thiệu với mọi người là tôi có trí nhớ dai. Ảnh còn nhớ vanh vách câu thiệu hay câu vè mà hồi đó mọi người đều biết. Những nhân vật trong làng mình, nhớ từng đặc điểm. Đâu anh Chín thử nhắc lại xem ai trong bàn tiệc nầy còn nhớ không?
Tôi bưng ly nước lạnh nhấp mội xong rồi thưa, sau khi đọc xong cho phép tôi kiếu trước, vì còn bận xuống nhà dưới để chào hỏi bà con một chút kẻo bị quở là ở xa về vô tình. Tôi đọc:
- Lội mương mắc cạn là chỉ ba Ơn [Có tiếng nói lao xao: ba Ơn ở ngõ ba lộ thầy Cai mập ú na ú nần...]
Ai có cơn là chị tư Lược [Tư Lược chết lâu rồi, bả có cơn thiệt]
Ai nói cũng được là con năm Kiểm Dầu [Con nhỏ lẳng lơ phải biết!]
Tánh hay câu mâu là cô mười Cứng [A, a cái này đụng chạm à nghen. Bả đang
còn sống. Bả mà nghe được chắc bả nổi sùng chửi cho một mách!]
Cặp nào xứng bằng cặp thằng Liêm [Không biết hai đứa nó giờ ở đâu? Có còn khắng khít như hồi mới cưới không hay đã rã bè?]
Con mắt lim dim là con ba bà Lếch [Con ba con tư. Nhớ ra rồi. Bà Lếch vợ quản Đặng. Cả hai đều chết. Hai chị em nó có chồng ở đâu xa ít khi về đây. Nhắc chị ba bà Lếch tôi thù thằng cha tư Tương hết chỗ nói. Số là... Chị ba mới mua được chiếc xe máy đầm. Chị mới tập chạy chưa rành. Thế mà chị dám rủ tôi xuống chợ Bến Tre xem cải lương gánh Đồng Thinh có kép mùi Văn Thường đóng. Tôi ngồi sau yên xe vịn chặt dưới yên xe. Con lộ đất ngoằn ngoèo khiến xe lượn qua lượn lại, còn thân mình chị cũng uốn theo. Thế mà thằng cha tư Tương dám đặt điều bảo tôi bóp l. con ba bà Lếch! Chú sáu Xã đang đứng hớt tóc cho tôi, chú vừa húi cái đầu ca-rê thì tôi vụt đứng dậy xấn tới như muốn ăn thua đủ với tư Tương. Chả chỉ cười hề hề gạt nhẹ tay tôi ra. Chú sáu nói như an ủi. Ảnh nói giỡn chơi vậy mà. Đừng tức giận kỳ lắm!]
Tướng đi chấm phết là chị ba Dương [Mọi người cười cười. Chị ba Dương dâu ông mười Quản có tật chân]
Ăn nói lương khương là ông mười Quản [Tới ông già chồng đây. Ông nầy nói chuyện chậm rãi, rị mọ nghe bắt ghét]
Ông nào xài đản bằng ông bồi Minh [Ông bồi Minh giàu có, ăn xài thả cửa. Không biết ông chết đi nhà có còn bộ sắc thần mà ông nội của tôi bàn giao cho ông?]
Rốt cuộc ở một mình là ông bảy Chữ. [Nói bảy chữ chứ ông dốt đặc cán mai. Cho đến khi ông qua đời ông vẫn còn độc thân!]
Ai dữ bằng thợ Hai. [Chú thợ Hai làm nghề thợ mộc, có người vợ là cô ba Ký mắt bị mù vì bịnh đậu mùa. Vậy mà công việc trong nhà một tay cô sắp đặt rành rẽ như người sáng mắt. Nhớ có lần thằng On con dượng lội hớt cá thia thia ở vườn ông Huyện. Nó đạp nhằm cây chông cây. Về nhà nó mượn cây khoan của dượng ba ngồi khoan lấy khúc giầm ra. Nghe nói sau này nó theo du kích thủ cây tiểu liên nằm chết tử thủ trong hầm.]
Ai dai bằng thần Tài. [Chú thần Tài chuyên môn mua rượu chịu, chủ quán đòi trật vuột, chú hẹn lần hẹn lựa, riết rồi hễ thấy chú xách chai đi đong ai cũng bắt cười]. 
Tôi vừa định đứng lên kiếu từ thì thằng Khai chồng em Nhỏ đã giới thiệu Chủ tịch xã đi cùng với mấy người khác cũng trạc tuổi với nhau làm việc ở Ủy ban xã, vừa bước vô nhà đi thẳng đến chiếc bàn đã được dành sẵn. Thằng Khai lên tiếng:
- Giới thiệu với bạn. Đây là Xã trưởng, con trai của tư Xê. Nghe nói kỳ đại hội tới sẽ được đề bạt vào chức vụ cao hơn, bí thư xã. Nhờ có ít chữ nghĩa học bồi dưỡng các lớp bổ túc văn hóa mà gia đình toàn cách mạng và liệt sĩ.
 Tôi nghe mà để ngoài tai. Cái thằng bạn học thuở nhỏ, sau bao nhiêu năm chiến tranh xa cách, gặp nhau chỉ chào hỏi qua loa, tuyệt nhiên không đá động gì việc tôi ở Mỹ về.
Nó cũng là lính ngụy chứ có theo cách mạng cách miếc gì mà như không ưa tôi lại còn nói vùa theo họ? Nó là thương phế binh được giải ngũ trước bảy lăm. Con mắt trái lúc nào cũng đeo cái kính màu vàng ố nhét cục bông gòn. Ngồi vào bàn tiệc mà thấy nó tháo kính ra lau rồi thay cục bông gòn mới ai cũng muốn bỏ ăn. Nó có biết đâu, em Nhỏ vợ nó hồi nhỏ từng ở truồng tắm mưa với tôi. Em Nhỏ là con chị tư nhỏ. Chị ba Hoài có người em kế là anh Kiểm tư. Cưới vợ chị tư lớn ở không con, nên đèo bồng thêm chị tư nhỏ sanh một mụn con duy nhất rồi anh chết. Sau nầy chị tư nhỏ lại làm bé chú mười Thê. Chị tư lớn ở vậy sống cuộc sống tu hành. 
Trở xuống nhà sau bé Ba gặp tôi vội vã nói:
- Cậu ngồi bàn trên chắc là không hợp. Con nhắc ghế ngồi với phe ta. Đây con giới thiệu: Chị Ba, bạn học thời Trung học. Trước bảy lăm nhà có tiệm vàng tổ chức đóng tàu vượt biên năm lần bảy lượt không xong, bị bắt lên bị bắt xuống, xài không biết bao nhiêu cây vàng, giờ cũng đành thúc thủ ngồi đây. Hai anh ngồi kế bên là bạn dây chuyền với nhau. Cùng phe ta nên dễ quen nhau. Cũng là sĩ quan. Nhưng không ra trình diện học tập, cũng bao phen đi mà không thoát, ở tù, lo tiền thả ra. Vợ con đi được gởi tiền về ở không xài chờ ngày bảo lãnh. Ngồi đây cậu có thể nói chuyện thoải mái. Con thông cảm với cậu mà!
Thấy tôi chịu ngồi xuống, các vị chĩa mũi dùi vào tôi hỏi tới tấp. Nghe nói bên Mỹ cũng có ăn xin đứng ở ngả tư? Ở bển có nghe rục rịch gì không? Không lẽ dân chịu đựng mút mùa lệ thủy sao! Báo chí bên này tụi nó bàn điệu nầy anh Mẽo lại sa lầy ở I-Rắc như ở Việt Nam? Liệu đảng Cộng Hòa kỳ nầy có tiếp tục hay nhả ra cho đảng Dân chủ. Bà vợ ông Clinton có thể trở thành nữ Tổng Thổng đầu tiên của nước Mỹ không? Toàn những câu hỏi mà tôi không dám trả lời chỉ lắc đầu cười trừ. Thật tình cuộc sống của tôi đâu có rảnh mà tò mò những chuyện đó. Tôi chỉ muốn nói không cốt để an ủi họ. Thế giới ngày nay đã đổi khác rồi. Cái gì trái quy luật cũng sẽ bị đào thải. Hãy sống để chờ. Chứ không chờ mới sống! Thôi quí vị cứ ăn uống tự nhiên. Tôi xin phép kiếu về sớm vì có nhiều việc cần làm. 
Bé Ba tiễn tôi một đoạn đường và không quên trao đổi số điện thoại với tôi, hứa về Mỹ gọi cậu cháu tâm sự nhiều hơn. 
“Alô! Xin lỗi ai ở đầu dây, có phải cậu Chín không? Con là bé Ba con hai Phường. Cậu về khỏe không? Còn con lần đầu từ ngày vượt biên năm tám hai, gặp lại gia đình
bên ngoại cũng vui mà buồn. Chiến tranh mà, trời kêu ai nấy dạ. Con tin con người có số mạng. Nếu như hồi đó má con bao đò không kịp chắc là đâu có chết chùm tức tưởi cả nhà như vậy! Thật sự giờ con chỉ muốn quên đi. Chỉ nghĩ đến tương lai mà thôi. Cậu năm Long con, giá như cậu chịu nghe lời lúc con lén đem cậu lên Saigon chửa trị cái lỗ mũi nó hành cậu dữ dội, cậu một hai đòi về nói là để trả thù cho cái chết của gia đình ngoại con. Thế mà chính cậu sau nầy lại là người xúi con tìm cách đưa mấy đứa nhỏ đi để sau nầy tụi nó có tương lai. Mà thật vậy. Hai đứa lớn, đứa kỹ sư, đứa dược sĩ, cả hai ra trường có công ăn việc làm vững chắc. Còn gái Út cũng đã năm thứ hai đại học. Bây giò cậu năm đã yên phận. Tội là tội cho dì sáu Ẩn. Giờ ở một mình không chồng không con. Lương hưu đâu có bao nhiêu. Con nói dì cần gì con giúp. Dỉ nói sao cậu biết không? Dỉ nói huê lợi miếng vườn cũng đủ để dì lo ngôi nhà thừa tự. Bây mà cho tiền nhiều người ta tưởng tao tham nhũng! Cái đó nó thành quen lệ rồi. Hễ lớn ăn theo lớn. Nhỏ ăn theo nhỏ.

Một mai lại đổi đời cũng móc họng ra ói! A! Nãy giờ con nói nhiều quá. Nói hước không cho cậu chen vô tiếng nào. Con xin lỗi cậu. Lần sau tới phiên cậu nói con nghe.”

Đạm Thạch