
Giáo sư Nguyễn Văn Sâm
Sương Nguyệt Anh — một cái tên vừa quen, vừa lạ đối với tôi. Quen, vì đã
từng đạp xe qua đường Sương Nguyệt Anh, từng biết Sài Gòn có trường Nữ Trung
Học Sương Nguyệt Anh, từng được dạy Sương Nguyệt Anh là con gái cụ Đồ Chiểu.
Lạ, vì chẳng biết gì… hơn nữa. Nếu không được đọc Ước Vọng Bay Tan của
giáo sư Nguyễn Văn Sâm có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ biết gì về thêm về người phụ
nữ có tên Sương Nguyệt Anh.
Sương Nguyệt Anh (1864-1921) nhũ danh Nguyễn Thị Ngọc Khuê. Làu thông chữ
Nho, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, và biết cả tiếng Pháp. Có lần bà bị kẻ xấu toan làm
nhục nhưng được ông Nguyễn Công Tính cứu thoát. Bà kết hôn với ông Tính và hạ
sinh bé gái Nguyễn Thị Vinh. Nhưng ông Tính mất khi bà mới 30. Từ đó, bà ở vậy
nuôi con. Có thể chữ Sương được thêm vào bút hiệu Nguyệt Anh để tỏ rõ tâm
nguyện sống trọn đạo thủy chung.
Cuộc sống bất hạnh không dập tắt được ý chí của nữ sĩ. Năm 1917, bà vận động
sáng lập tờ tuần báo dành riêng cho phụ nữ — Tờ Nữ Giới Chung (Fémina
Annamite) ra đời. Sương Nguyệt Anh làm chủ bút. Tờ báo đã được đón tiếp
nồng nhiệt. Nhưng chỉ sau 22 số, khoảng 5 tháng, Nữ Giới Chung bị đình bản.
Theo Thanh Việt Thanh, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa tờ báo vì “nhận thấy
ảnh hưởng của Nữ Giới Chung ngày càng to lớn”.
Ngoài nhiều bài thơ chữ Hán và chữ Nôm, Sương Nguyệt Anh đã viết những bài
tiểu luận bằng quốc ngữ với đề tài xã hội như: Thế Lực Người Đờn Bà • Nghĩa
Nam Nữ Bình Quyền Là Gì? • Nghĩa Tiện Tặn • Cách Ăn Mặc Của Đờn Bà Nước Ta v.v…
Kiếm lâu trên Net vẫn không tìm ra các bài văn của nữ sĩ, tôi chỉ còn cách
cầu cứu “Thày Sâm.” Ông gởi ngay cho tôi những bài báo trong Nữ Giới Chung
mà ông đã cẩn thận nhờ người gõ lại.
Nguyễn Văn Sâm quả không hổ danh là một nhà biên khảo tận tụy với nền văn
học miền Nam.
Ước Vọng Bay Tan là một đoản kịch chỉ có hai nhân vật: mẹ và con
gái. Tại sao quá ít diễn viên như thế? Theo tôi, đó là một gợi nhắc ý nhị vì vở
kịch đã mô phỏng theo chuyên mục Cách Trí – Mẹ Con Nói Chuyện trên tờ Nữ
Giới Chung. Trong mục này, người mẹ dạy đứa con những kiến thức khoa học
đơn giản. Còn trong Ước Vọng Bay Tan, người mẹ trò chuyện êm ái nhưng
vẫn bảo ban thâm trầm.
– Mẹ! Nhẹ buông liếp xuống mẹ nhe!
Đèn bão sông đen ánh lập lòe.
Gợi lửa ma trơi vờn cổ mộ,
Gợi bóng âm hồn ẩn bụi tre.
– Con yêu! Mẹ thả liếp giùm con
Chuyện lửa ma trơi, chuyện âm hồn.
Chỉ có trong tâm người yếu đuối
Đó lửa thuyền chài, lửa áo cơm!
Tuy vỏn vẹn tám câu thơ nhưng chất chứa những đức tính của Sương Nguyệt Anh:
sự dịu dàng của người mẹ, sự hiểu biết của người thày, sự thông tuệ của người
trí thức.
Bà giải thích cho con biết những ánh lửa bên sông chẳng có gì đáng sợ, thế
nhưng, bà vẫn buông liếp xuống vì biết không nên bắt trẻ nhỏ phải chịu đựng
những điều quá sức của nó.
Điều này phản ánh lời dạy nơi bài Nữ Tử Giáo Dục trong Nữ Giới
Chung: “Và lại còn một đều cần nhứt nữa là phải để ngũ tạng của trẻ cho
nhuần chớ nên ép gấp nó, dầu việc học cũng vậy…”
Ngày nay, xã hội ta có rất nhiều phụ nữ đơn thân độ tuổi 40 và thành công
trong xã hội, nhưng kiếm được người có tầm nhìn và tấm lòng như nữ sĩ vẫn còn
quá hiếm hoi.
Con đi ngủ, mẹ ngồi đây xí nữa
Nghĩ tương lai, một tờ báo Nữ Chung.
Chuông phụ nữ gióng lên điều cần sửa
Ngàn điều bàn ngoài tứ đức, tam tùng…
Có đọc những bài xã luận của Sương Nguyệt Anh, mới thấy bà đã chọn con đường
đi với sự sáng suốt đầy trí tuệ chứ không nhắm mắt nghe theo những giáo huấn cổ
lỗ.
Trong kịch thơ, Nguyễn Văn Sâm nhắc nhở diễn viên đóng vai nữ sĩ cần ăn mặc
giản dị. Chính bà cũng từng luận về điều này trong bài Nghĩa Tiện Tặn:
“Lời rằng: Đang tiện tặng mà xa-xí dễ, đang xa-xí mà tiện tặng khó. Song
tưởng khó là khó về đờn ông, chớ đờn bà ta thì cũng dễ chút. Là vì sao? Vì đờn
ông còn đa mang những việc giao tế với xã hội, không lẽ đồng tiền coi lớn như
cái bánh xe. Còn đờn bà, chỉ chuyên có một nghề, tề gia nội trợ, giúp chồng dạy
con, quần nu áo vải, cũng chẳng ai cười mình là mẹ chiết. Cho nên tục ngữ cũng
nói rằng: Cái nết đánh chết cái đẹp là sự thế!”
Ngay tờ Nữ Giới Chung số đầu tiên, Sương Nguyệt Anh đã đưa ra đường
lối tờ báo là : Vun trồng gốc luân lý • Trau giồi lẽ biết thường • Gây dựng
cuộc công thương • Liên lạc mối cảm tình.
Nữ sĩ quả là người rất tiến bộ vào thời đại thuở ấy.
Nhưng than ôi! Anh hùng không tạo được thời thế.
Cuối cùng, nữ sĩ đành rũ áo ra đi vì không chịu bẻ cong ngòi bút.
Làm chủ bút, bung xung, bài tối thiểu
Viết nhiều điều… quốc sự! Bị tình nghi!
Chuyện nhạy cảm, không nên, vùng tế nhị
Mẹ tung hê, chức chủ bút, đáng gì!
Kịch thơ Ước Vọng Bay Tan chấm dứt qua sự so sánh thời thực dân của
Sương Nguyệt Anh với xã hội cộng sản ngày nay:
Nằm trở đầu hai bịnh nhơn giường hẹp
Không phong bao vô hóa đối vô tâm.
Chết như rạ, phận nghèo hèn tôm tép
Động lòng ai những tiếng khóc âm thầm!
Nếu bạn từng say mê những truyện ngắn Nguyễn Văn Sâm với những nam anh hùng kiến
nghĩa bất vi vô dõng giả, thì với kịch thơ Nguyễn Văn Sâm bạn sẽ thích thú
với vị nữ anh thư, người từng can đảm chiến đấu bằng tình yêu và trí tuệ Sương
Nguyệt Anh.
Ước Vọng Bay Tan có thể được hiểu là những ước mơ của nữ sĩ đã bay
cao nhưng rồi đành tan biến vào hư không? Cũng có thể là những ước mơ của hàng
triệu người dân miền Nam về một Hòn Ngọc Viễn Đông nhưng giờ đây chỉ còn là
vùng đất đầy tai ương?
Nhưng lẽ nào một vùng đất trù phú với những Đồ Chiểu, Sương Nguyệt Anh,
Huỳnh Phú Sổ, Nguyễn Trung Trực, Petrus Ký lại có thể… tan rã!
Nếu “Thày Sâm” trích thơ Tô Thùy Yên, tôi cũng xin bày đặt làm theo, trích
thơ Đức Thày Huỳnh Giáo Chủ trong bài Để Chơn Đất Bắc để thay lời kết:
Phong trần dày dạn gió sương
Chư bang ham báu hùng cường đua tranh.
Còn một cuộc chiếu manh giành xé
Khắp hoàn cầu ó ré một nơi.
Dòm xem châu ngọc chiều mơi
Sao đời không sớm tách rời cõi mê.
Uớc vọng dù không thành, nhưng Sương Nguyệt Anh đã tách rời cõi mê để tan
vào hư không.
Chỉ có chúng ta, quanh quẩn trong những ước mơ nhỏ hẹp, bao giờ chúng ta mới
có thể bay, và, có thể tan?
Trịnh Bình An