Sinh năm 1943, ông Bob Kerrey là một
chính khách khá lớn của Mỹ. Ông từng là Thống đốc tiểu bang Nebraska
(1983-1987), Thượng nghị sĩ (1989-2001) và là ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ vào
năm 1992. Lúc còn trẻ, đi lính, ông được điều sang Việt Nam. Vào đầu năm 1969,
đơn vị của ông gây ra một vụ thảm sát đầy tai tiếng tại làng Thạnh Phong, Bến
Tre.
Mấy ngày vừa qua, ở trong nước, trên
báo chí chính thống cũng như trên các diễn đàn mạng, người ta bàn tán sôi nổi
về việc ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại
học quốc tế Fulbright Việt Nam mới được chính thức cấp giấy phép thành lập tại
Sài Gòn.
Trường đại học Fulbright Việt Nam là
trường đại học tự trị, phi lợi nhuận và theo mô bình giáo dục của Mỹ đầu tiên
được thành lập tại Việt Nam.
Trong buổi nói chuyện tại Trung tâm Hội
nghị Quốc gia vào ngày 24 tháng 5 vừa qua, Tổng thống Barack Obama đã xem sự
xuất hiện của trường ấy như một dấu son trong tiến trình hoà giải và hợp tác
giữa Việt Nam và Mỹ. Nhiều trí thức Việt Nam chào đón sự ra đời của trường học
ấy như một bước ngoặt trong nỗ lực hiện đại hoá ngành giáo dục đại học tại Việt
Nam. Người ta hy vọng, với nó, một tầng lớp trí thức mới sẽ được đào tạo một
cách bài bản để có thể giúp việc xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, mừng thì mừng, nhiều người
vẫn áy náy, thậm chí, giận dữ về việc ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch
Hội đồng Quản trị.
Sinh năm 1943, ông Bob Kerrey là một
chính khách khá lớn của Mỹ. Ông từng là Thống đốc tiểu bang Nebraska
(1983-1987), Thượng nghị sĩ (1989-2001) và là ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ vào
năm 1992. Lúc còn trẻ, đi lính, ông được điều sang Việt Nam. Vào đầu năm 1969,
đơn vị của ông gây ra một vụ thảm sát đầy tai tiếng tại làng Thạnh Phong, Bến
Tre, ở đó, có 24 người, bao gồm 14 phụ nữ, trẻ em và người già, bị giết chết.
Theo lời ông Kerrey, mặc dù ông không trực tiếp giết một ai, nhưng cuộc thảm
sát do đơn vị của ông gây ra, cũng để lại trong lòng ông một vết thương và một
mặc cảm tội lỗi không nguôi day dứt. Ông luôn luôn tìm mọi cách để chuộc lại
lỗi lầm ấy. Trong nhiều vai trò khác nhau trong bộ máy chính trị của Mỹ, ông
luôn luôn tìm cách thúc đẩy tiến trình hoà giải giữa hai dân tộc, luôn luôn tìm
cách giúp đỡ Việt Nam, đặc biệt về phương diện giáo dục, trong đó có việc thành
lập trường đại học quốc tế Fulbright Việt Nam.
Sự hối cải và nhiệt tình của Bob Kerrey
vẫn không đủ làm cho một số người Việt Nam hài lòng. Họ vẫn nhớ đến bàn tay vấy
máu của ông. Họ vẫn cho việc ông làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị đại học
Fulbright Việt Nam là một tín hiệu không tốt: Nó gợi nhớ đến chiến tranh và
những tội ác của chiến tranh cũng như nó chạm vào vết thương chưa lành hẳn của
nhiều người.
Một số người khác cho cách nhìn ấy, tuy
chính xác, nhưng nặng về cảm tính. Họ cho trong thời điểm hiện nay, điều Việt
Nam cần làm là quên đi những vết thương của chiến tranh, cùng nhìn về tương lai
để cùng nhau cộng tác xây dựng đất nước cũng như thúc đẩy tiến trình hội nhập
của Việt Nam vào sân chơi lớn của thế giới.
Tôi đồng ý với quan niệm sau, của những
người muốn quên thù hận. Nhưng tôi cũng đồng cảm với những người vẫn còn loay
hoay với quá khứ. Tuy nhiên, trong bài này, tôi không muốn tham gia vào cuộc
tranh luận ấy. Tôi muốn nhân cơ hội này bàn một chút về ý nghĩa của ký ức, đặc biệt
về ký ức chiến tranh.
Để nhận diện đặc điểm nổi bật nhất của
loài người, trước, thời Phục Hưng và Khai Sáng, người ta chú ý đến lý trí (kiểu
“tôi tư duy vậy tôi hiện hữu” của Descartes hay “con người là cây sậy biết tư
duy” của Pascal); đầu thế kỷ 20, với Phân tâm học, người ta chú ý đến tiềm thức
và vô thức; từ vài thập niên trở lại đây, người ta chú ý đến vai trò của ký ức
với câu nói nổi tiếng: “Chúng ta là những gì chúng ta nhớ”.
Chính ký ức tạo nên ý niệm về bản sắc
của cá nhân cũng như của tập thể: Những gì chúng ta nhớ mang lại ý nghĩa cho
những gì chúng ta làm, chúng ta thấy, chúng ta nghe, từ đó, góp phần trả lời
câu hỏi ta là ai. Ký ức cũng nối liền từng người lại với nhau, tạo thành một
cộng đồng, hay rộng hơn, một quốc gia: Đó là một tập thể những người chia sẻ
với nhau một số những ký ức chung về nguồn cội cũng như về lịch sử, kể cả lịch
sử đương đại.
Liên quan đến chiến tranh Việt Nam,
cuộc chiến đã kết thúc hơn 41 năm, ký ức vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều
người, thuộc nhiều thế hệ và thuộc nhiều chỗ đứng khác nhau. Những người lưu
vong, hiện sống ở hải ngoại, xa lắc Việt Nam, vẫn không nguôi trăn trở với
những ký ức về chiến tranh, đặc biệt về trận Mậu Thân cũng như tháng 4, 1975 và
những tháng ngày sau đó, với các trại cải tạo và những cuộc vượt biển đầy nguy
hiểm. Những người ở miền Bắc vẫn không quên những chuyến vượt Trường Sơn và
những trận mưa bom dữ dội của Mỹ ngay tại Hà Nội. Mọi người vẫn nhớ và những
cái nhớ ấy vẫn tiếp tục chi phối cách suy nghĩ cũng như cách hành xử của họ.
Với những người ngoại quốc từng tham
gia vào chiến tranh Việt Nam, ký ức ấy vẫn còn nóng hổi.
Tại trường Đại học Victoria, trong
ngành Việt học, ngoài các lớp về ngôn ngữ, văn chương và văn hoá Việt Nam, tôi
còn có một lớp về chiến tranh Việt Nam, tập trung chủ yếu vào khía cạnh văn hoá
và ký ức chiến tranh (Many Vietnams: War Culture and Memory). Thường, mỗi năm,
tôi mời một cựu chiến binh của Úc đến trình bày kỷ niệm và kinh nghiệm của họ.
Nhớ nhất là cuộc nói chuyện của nhà văn Barry Heard. Ông vừa nói vừa khóc. Sinh
viên của tôi vừa nghe vừa khóc. Cuối buổi học, mắt ai nấy đều đỏ hoe.
Barry Heard kể ông vào lính lúc mới vừa
học xong trung học. Sau mấy tháng huấn luyện quân sự, ông được đưa đến Việt
Nam. Sau mấy ngày nghỉ ngơi tại Vũng Tàu, đơn vị của ông được máy bay thả xuống
một khu rừng rậm với một chỉ thị: Bắn bất cứ người nào họ gặp. Không bao lâu
sau, họ gặp người thật. Họ được lệnh khai hoả. Khi tiếng súng ngưng, họ chạy
đến xem. Thấy đó là một đoàn bộ đội, có cả phụ nữ. Lần đầu tiên nhìn
người chết, nhất là những người đó chết vì những viên đạn do mình bắn ra, cả
đơn vị, gồm những thanh niên vừa mới lớn, oà lên khóc nức nở. Có người còn ói
mửa liên tục. Nhưng rồi, họ cũng tiếp tục đi hành quân và tiếp tục bắn giết.
Khi trở lại Úc, Heard cứ bị ám ảnh mãi
bởi những hình ảnh những xác chết trong rừng rậm ấy. Ông bị khủng hoảng tâm
thần đến độ nhiều lần phải vào nhà thương điên. Sau, các bác sĩ khuyên ông hãy
viết tất cả những gì ông từng trải nghiệm trong chiến tranh Việt Nam lên trang giấy.
Nghe lời, ông viết cả mấy cuốn hồi ký. Tất cả đều bán chạy và từ đó, ông trở
thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất về đề tài chiến tranh Việt Nam tại
Úc.
Cuối buổi học, tôi hỏi ông bây giờ đã
thấy thanh thản hẳn chưa. Ông đáp: Chưa. Ông vẫn bị ám ảnh về những xác chết
trong rừng rậm. Thỉnh thoảng ông vẫn bị những cơn trầm cảm. Ông vẫn phải uống
thuốc an thần. Ông lấy một phần tiền từ nhuận bút các cuốn sách ông viết để
thành lập một quỹ học bổng giúp các học sinh và sinh viên Việt Nam nhưng ông
vẫn không dám về Việt Nam. Tôi hỏi tại sao. Ông đáp: Vì sợ. Ông sợ sẽ không
chịu đựng nổi khi nhìn lại khung cảnh Việt Nam. Vừa nói ông vừa ứa nước mắt.
Tôi cũng có một người bạn vốn là hoạ sĩ
tại Úc. Anh cũng từng tham chiến tại Việt Nam. Anh kể một lần đụng trận; anh
nhắm mắt xả súng về phía trước. Khi trận chiến chấm dứt, anh thấy trước mắt
mình xác một thanh niên còn trẻ măng. Trên cổ người thanh niên ấy có một sợi
dây chuyền với hình Quan Thế Âm. Anh vừa khóc vừa gỡ sợi dây chuyền ấy. Bây
giờ, gần nửa thế kỷ sau, anh vẫn còn đeo sợi dây chuyền ấy trên cổ. Một lần, kể
lại câu chuyện ấy với chúng tôi, anh vẫn khóc. Những ký ức về cuộc chiến tranh
xa xôi về cả không gian lẫn thời gian ấy vẫn còn sống mãi và vẫn còn khiến anh
đau đớn.
Tôi nghĩ Bob Kerrey cũng là một người
như thế. Cũng không thoát được những ký ức về chiến tranh Việt Nam. Và cũng
muốn làm một điều gì đó cho Việt Nam.
Nguyễn
Hưng Quốc