Khuất Đẩu. Ông sinh năm 1940 tại Bình Định. Tên thật là Trương Đẩu. Nhưng
lại có cái tên mọi người thường gọi là Trương Thanh Sơn. Khi tác phẩm “Những
tháng năm cuồng nộ” của ông xuất hiện trên trang mạng Talawas tháng 3 năm 2010
dưới bút hiệu viết tắt K.Đ, người đọc đã bị “bất ngờ”, cái bất ngờ gây cảm giác
“thú vị” cho cả người đọc lẫn người viết. Bất ngờ là vì cái giọng văn già dặn,
từng trải, chắc nịch, gọn và khô ấy đã thể hiện thật xuất sắc nội dung những
điều ông muốn gởi đến người đọc. Tác phẩm “Mẹ không anh hùng” chúng tôi muốn
giới thiệu đến quý vị trong “Truyện nhiều kỳ” lần nầy để cùng cảm nhận những
điều mà Khuất Đẩu muốn dàn trải những trăn trở của ông đến cùng người đọc. Xin
mời.
Xem phần 1
Xem phần 1
Bùi Văn Liên Xô
1
Chẳng có tổng tuyển cử. Chẳng có thống nhất. Sông Bến Hải như một nhát chém cắt
đôi đất nước ra làm hai miền thù địch. Miền Bắc thề đốt cả dãy Trường Sơn để
giải phóng. Miền Nam cũng đòi lấp sông Bến Hải để giải phóng. Những cái “giải
phóng” ấy đụng nhau nảy lửa ở khắp các mặt trận.
Như cá trong chậu, những người có chồng con đi tập kết bị gọi lên xã, lên huyện
cứ như cơm bữa. Người ta hỏi có biết chồng con ở đâu không, đã nhận bao nhiêu
lá thư gửi từ Pháp về, nhận những công tác gì, có gặp bọn nằm vùng hay không
…Bọn họ tối đến còn phải đi ngủ tập trung, giống như trâu bò sau một ngày đi
cày lại vào trong chuồng mà ngủ. Nhưng trâu bò còn được thả rơm cho mà nằm nhai
lại suốt đêm. Bọn họ thì cứ bị dựng dậy bất cứ lúc nào. Nhất là những người có
chút nhan sắc như nàng. Những cái nhìn như xé toang quần áo nàng ra, những câu
nói tục tĩu, những tiếng cười dâm ô của bọn lính gác, của quan chức lớn bé làm
cho nàng cảm thấy những năm tháng không có chồng con ở nhà thật là ô nhục.
Dù nàng chưa bị lột truồng ra, nhưng cuộc đời của nàng đã trần truồng như
nhộng. Chẳng có một bàn tay đàn ông nào che chắn bảo bọc. Những người khác,
mong đợi một ngày được chồng con trả thù rửa nhục, chứ nàng thì chẳng mong đợi
gì hết. Nàng sống mà không một chút hy vọng. Sống như một lưu đày ngay chính
quê hương mình. Sống như đốt cháy mọi niềm tin. Sống như tự mài mòn đi để trở
thành đá cuội trong lòng thác. Nói như mẹ chồng: sống mà như đã chết rồi.
Bà Cửu tuy không phải đi ngủ tập trung, không phải bị gọi lên gọi xuống, nhưng
với một đứa con ngỗ ngược, một đứa cháu hót những điều trái tai như sáo khiến
bà còn chán nản tuyệt vọng hơn cả nàng. Lấy chồng xa, mấy mươi năm chưa một lần
về thăm quê, cha chết rồi mẹ chết cũng chỉ biết khóc sưng mắt mà thôi. Chồng
chết, bao nhiêu năm ở vậy nuôi con, những tưởng lớn lên nó đã có thể thay cha
đưa mẹ về thăm nhà. Nào ngờ chiến tranh, rồi tập kết và nhất là nó coi bà như
kẻ thù giai cấp, thì chắc đến lúc nhắm mắt bà cũng không thể trèo qua đèo Hải
Vân mà thắp cho cha mẹ một nén nhang của đứa con bất hiếu.
Đã hơn mười năm, bà đã sống những tháng ngày nhạt nhẽo nhất trong đời. Sống với
con dâu thì mặn nồng làm sao được. Cho dù nàng dâu của bà cũng đã làm tròn, có
khi là hơn, bổn phận của mình với mẹ chồng, nhưng khác máu tanh lòng, sao bằng
đứa con đứa cháu ruột rà. Nhiều đêm bà nghĩ thương cho phần số của cả hai
người. Giống như hai cái cây bị róc hết cành nhánh, hai người sống cạnh nhau
như hai cay cau bị gió bão làm cho trốc gốc, nằm vật lên nhau cũng chỉ đợi người
ta cưa xẻ mà thôi.
Những tưởng bà sẽ phải chết dí ở cái nơi xa xôi này, không ngờ một ngày tháng
năm, người em trai út của bà tìm đến thăm. Hôm đó, một người đàn ông trọ trẹ
mới tới đầu đình đã làm cho mọi người tin chắc là ông ta đi tìm họ hàng. Những
đứa bé nhanh chân đã chạy nhong nhong đến báo tin cho bà. Chúng nó nói, bà Huế
ơi, cái ông mô mô tê tê gì kia có phải bà con của bà không? Trống ngực đánh
thình thình, bà không tin vào đôi tai đã bắt đầu nằng nặng cho đến khi người em
trai lúc bà đi theo chồng mới có 5 tuổi đứng trước mặt bà.
Khỏi phải nói là họ đã ôm nhau khóc một bữa đã đời. Khóc và tranh nhau nói.
Những tê, những mô, những răng, những rứa, những hỷ, những tề, những tiếng lâu
nay chưa có dịp tuôn ra giờ chảy ào ào như mưa nguồn thác lũ. Bọn trẻ con há
hốc mồm ra nhìn cuộc trùng phùng sau hơn 40 năm. Bà cho chúng quà, nào kẹo gầng
nào mè mè xững, những thứ lâu nay chúng chưa hề thấy bao giờ.
Bà Cửu cũng cảm thấy mình như được trẻ lại đến mấy chục tuổi. Bà nhớ lại hơn 40
năm trước đã từng bồng ẵm cậu em út, đã từng nựng nịu tưng tiu nó và thầm mong
khi lấy chồng cũng sinh một đứa con xinh như thế. Bà hỏi han đủ thứ chuyện và
mặc dù cậu lặn lội đường xa, bà vẫn muốn được chuyện trò suốt đêm. Cậu em đã
nói cho bà nghe chuyện cha mẹ, chuyện các anh chị thương nhớ bà như thế nào,
nhất là trong chín năm không biết bà sống chết ra sao. Khi nghe đình chiến đã
muốn vào thăm, nhưng tang cha, tang mẹ, rồi bận lo con cái học hành đi lính đi
tráng mãi đến nay mới vào được. Cậu tha thiết muốn được đưa bà về thăm quê.
Về thăm quê, còn gì vui hơn nữa. Mà lại về bằng máy bay thì đúng là dẫu có nằm
mơ cũng không thấy!
Ở Huế hai tháng bà nhận ra được một điều: Chiến tranh dù đã xảy ra trên 20 năm
nhưng ở tận đâu đâu chứ không ở thành phố. Bảo Đại dù xuống ngôi nhưng kinh
thành Huế vẫn nguy nga đường bệ. Vẫn còn đó cửa Ngọ Môn, điện Thái Hoà. Vẫn còn
đó cầu Tràng Tiền, chợ Đông Ba. Phố xá ngày càng tấp nập hơn. Những người bán
hàng xén ngày trước như bà giờ là chủ những cửa hàng đồ sộ. Họ giàu ngất trong
khi bà còm cõi dưới luỹ tre, hết chín năm kháng chiến đấu tố lại đến mười năm
tố cộng.
Ở đây đâu có ai đi tập kết, đâu có ai phải đi ngủ tập trung. Giữa thành phố và
làng mạc cách xa một trời một vực. Ở đây đèn điện sáng choang, còn ở làng quê
đèn dầu leo lét. Ở đây, những người cỡ tuổi bà vấn khăn nhung, đeo chuỗi ngọc
đi chùa, cỡ con trai bà mặc áo vét đi giày tây, cỡ con dâu bà áo dài màu tha
thướt, cỡ cháu trai bà đi xe đạp sáng choang…Chiến tranh đâu có trùm lên tất
cả.
Sao không bỏ nơi thù hằn, nơi ô nhục mà đi tìm nơi ánh sáng, nơi đồng tiền sẽ
đẻ ra tiền. Việc gì phải chui rúc trong gian nhà mà cứ tối đến là phải thắp đèn
đi soi từng hang hốc, việc gì phải còng lưng gánh từng gánh khoai gánh lúa chỉ
để đổi lấy một đôi dép mới mang ba bữa đã đứt quai, một cái áo mới giặt vài
nước đã tã ra, việc gì phải run sợ trước những thằng cha con mẹ còn thua bọn
khuân vác hay đạp xích lô mà lên giọng này giọng nọ, việc gì phải cúi đầu chịu
khổ khi trong tay mình có cả chục lạng vàng.
Đó là tài sản của cha mẹ để lại được anh em chia cho bà. Bọn họ còn đưa bà ra
chợ Đông Ba để xem người ta mua bán, nhất là xem hàng vải của đứa cháu dâu. Bọn
họ nói nếu không về Huế thì cũng phải bỏ cái xứ Đại Hữu tối tăm, cái xứ mà đêm
đêm thường nghe cộng sản đánh trống khua chiêng ở phía bên kia sông, cái xứ mà
con dâu bà không trước thì sau cũng bị làm nhục. Với ngần ấy vốn hai mẹ con dư
sức mở một cái sạp nhỏ. Nếu buôn may bán đắt thì chẳng mấy chốc sẽ phất lên.
Bà nghe bùi tai quá và với cái nhìn và suy nghĩ còn hơn cả làm cách mạng, bà
quyết đinh giao căn nhà họ Bùi cho người cháu họ. Cùng lúc ấy những ấp tân sinh
ở gần núi đã bị đốt. Không đắn đo gì nữa, bà và con dâu chỉ mang theo những thứ
cần thiết nhất lặng lẽ đi xuống Quy Nhơn.
2
Đầu tiên hai mẹ con thuê một căn nhà nhỏ ở gần kho xăng ông Tề. Phía sau là đầm
Thị Nại, trước mặt là núi đá vôi với những con dê thả rong suốt ngày kêu be be
trên những gộp đá. Hàng xóm cũng là những người đã sớm rời bỏ làng quê, những
Trung Lý, Trung Định, những An Đông, An Ngãi, An Nhơn. Vẫn chỉ có một mình bà
nói trọ trẹ mô tê giữa những âm thanh dẩy na chói tai ngộ nghĩnh. Tuy tiếng nói
có đôi chút âm sắc khác nhau, nhưng tim họ như cùng đập một nhịp khi nghe nói
tới hai tiếng cộng sản. Chẳng còn ai lạ gì những tiếng đấu tố, địa chủ, khả
năng. Chín năm đủ cho họ dù không ruột rà thân thích hay bè bạn, chỉ một cái
liếc nhìn cũng hiểu nhau những nỗi niềm lo sợ còn dội mãi trong lòng.
Cô cháu dâu nằn nì: “o vào trong nớ cố mà sang một cái sạp vải dù trong chợ nhỏ
cũng được. O và chị Hai nghe nói dễ thương lắm thế nào cũng bán được mà. Cháu
sẽ giới thiêu o với các đại lý ở Sàigòn, thấy bán được người ta sẽ cho o gối
đầu lo gì mà không đủ vốn”. Mặc dù đã có người bày cho đi buôn, nhưng bà vẫn
chưa dám. “Thôi hãy thư thả rồi sẽ liệu, bà nói với cô con dâu, giờ mình bày ra
bán bánh canh cua hay bánh bèo kiếm sống qua ngày đã”. Cô con dâu dĩ nhiên là
thuận theo ý bà. Nàng tất tả đi mua những thứ vật dụng cần thiết. Bà đi chợ xem
cách người ta mua bán cua, học cách chọn cua gạch và tìm người thuận bỏ mối cho
bà.
Với sự khéo tay của bà, cộng với sự ngăn nắp sạch sẽ của con dâu, chỉ dăm bữa
là cái gánh bánh canh cua của hai mẹ con bà đã được cả xóm cây xăng ông Tề biết
tiếng. Người ta khen sợi bánh canh mềm mà lại dai, thịt cua chắc và nhất là
gạch cua đỏ như son chen lẫn với hành ngò xanh trông rất bắt mắt. Một bát chỉ
hai đồng bằng giá một ổ bánh mì thịt, mà ăn tới đâu ngọt lịm tới đó.
“Cũng chẳng có bí quyết chi mô, bà nói, cái khó là phải lựa cho được cua gạch.
Bánh canh cua mà không có cua gạch cũng như một cô gái thiếu phấn son. Đẹp thì
có đẹp nhưng chưa chắc đã giữ được ai lâu dài”. Tuy không nói ra, nhưng bà tin
sở dĩ đắt hàng, một phần cũng nhờ cô con dâu có con mắt đen ướt khiến bà cũng
phải xiêu lòng huống hồ là đàn ông. Ngu chi mà ngu lạ rựa, bà nói, khi nghĩ tới
cậu con trai đi theo đảng không biết đói no thế nào trên đất Bắc. Vợ đẹp như
rựa mà bỏ đi đành đoạn!
Sống được với gánh bánh canh, hai mẹ con cũng quên luôn cái sạp vải trong dự
tính. Thực ra họ có nghĩ tới. Bán vải thì nhàn hơn, chỉ ngồi trong mát khỏi phải
kĩu kịt gánh từ xóm nọ sang xóm kia, khỏi phải lặn lội dưới mưa nắng và bà,
nhất là, bà khỏi phải thức khuya dậy sớm trong khi tuổi già làm cho lưng cổ lúc
nào cũng đau nhức. Nhưng bán vải thì to thuyền lớn sóng, lỡ trộm cướp hay cháy
chợ cháy nhà thì tiêu ma cả vốn liếng. Sống cái nhà, thác cái mồ, chi bằng mua
một căn nhà, dẫu có bị pháo kích cháy cũng hãy còn lại cái nền đất. Ở thành
phố, một tấc đất là tấc vàng., giữ vàng trong mình đâu bằng giữ đất. Thế là một
năm sau họ mua được một căn nhà bề ngang bốn thước, bề dài mười hai thước cũng
ở trong xóm cây xăng ông Tề.
Vậy là an cư lạc nghiệp.
Và, nàng trở thành cô hàng quà.
Chẳng còn bị ai gọi tới gọi lui, chẳng còn ai lăm le làm nhục. Nàng thấy cuộc
đời bỗng dưng trở nên dễ sống, đáng yêu. Và còn đáng yêu, còn đẹp hơn nữa nếu
bên cạnh nàng có Bùi văn Mỹ. Nàng chi xiết nhớ con. Mặc dù lúc này nó đã 20
tuổi nhưng trong tâm trí nàng nó hãy còn là một đứa bé. Nàng nhớ xiết bao cái
tiếng gọi mẹ ơi, mẹ ơi. Nàng nhớ hai bàn tay bé bé xinh xinh với những ngón đỏ
hồng của nó xoè ra nâng niu những bông dúi dẻ, nhớ hàm răng lòi xỉ khi nó cắn
những trái chim chim đỏ mọng, nhớ cái đầu hơi méo của nó tựa trên đùi nàng khi
hai mẹ con ngồi nghỉ ở tảng đá đen trên núi Đất. Nhớ quá chừng, quá đỗi, mẹ nhớ
quá con ơi! Không đêm nào là nàng không khóc khi nghĩ tới nó.
Giờ nó đang ở đâu trên đất Bắc xa xôi? Nó đang đi học hay đi lao động ở các
nông trường. Nó ở Liên Xô, Trung Quốc xa tít tắp hay đang lẩn trốn ở núi rừng
Trường Sơn đầy ma thiêng nước độc. Làm sao tôi lại để nó đi được nhỉ? Sao tôi
không đu lên tàu mà kéo nó xuống, sao tôi cứ lặng lẽ khóc mà không biết đấu
tranh cho sự sống còn của chính nó và của tôi?
Đằng đẵng hơn mười năm trời, chồng nàng gần như chưa bao giờ hiện diện trong
tâm trí. Có những cặp vợ chồng, nàng thấy, họ mắng chửi nhau thậm tệ, nhưng sau
đó dường như người nào cũng thấy mình có ít nhiều lầm lỗi, nên lại thấy người
kia tội nghiệp, lại thấy thương, lại làm lành, lại chăm sóc nhau như lúc ban
đầu. Nàng thì chưa bị chồng tát cho một bạt tai nào chứ đừng nói tới chuyện nắm
tóc cột vào chân giường, xé đốt quần áo. Nhưng mà sao cứ thấy nhạt như nước ốc.
.
Nghĩ lại, nàng thấy mình cũng còn may. Có một bà mẹ chồng biết phải biết trái,
không hà khắc con dâu là xưa nay rất hiếm. Ngày trước nghe bà nổi tiếng khó
tính nàng rất lo sợ, nhưng có ở với nhau nàng thấy bà cũng đâu có khác gì mẹ
ruột dù nàng chưa biết mặt mẹ. Cái lần nàng ngủ trong ang lúa, cứ tưởng bà sẽ
chì chiết suốt đời, không ngờ bà nói như nói với con gái: dại chi mà dại rựa!
Đến bây giờ nàng vẫn thấy mấy tiếng dại chi mà dại rựa nó dịu ngọt làm sao. Một
lời nói như vậy, dẫu có chết vẫn còn muốn mang theo xuống mồ cho nó ấm áp.
Hai mươi năm.
Không như ngày trước, chiến tranh không chỉ là bom rơi đạn nổ ở làng quê, mà
bây giờ còn là đạn pháo kích vào thành phố,là lựu đạn nổ trong bar, là cầu bị
gài mìn, là truyền đơn trong rạp hát, là xe hụ còi inh ỏi, là máy bay trực
thăng bay lên bay xuống mệt nhoài để tải thương, là bồng bế gồng gánh, cả người
và trâu bò chen chúc nhau vào thành phố. Cái bộ mặt chiến tranh trở nên đểu
cáng hết chỗ nói. Thả bom cho nát bét ra rồi hội này hội nọ tới cứu trợ. Đốt
làng đuổi dân chạy như chuột rồi dựng lều dựng trại tiếp cư. Đùn đẩy đàn bà trẻ
con đi biểu tình chửi mắng để cho lính bắn rồi lu loa lên là tàn ác dã man.
Chiến tranh quy ước, chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính trị, chiến tranh
kinh tế… đủ thứ chiến tranh trút xuống như mưa trên đầu những người dân vô tội.
Một sáng nọ có một người đàn bà ăn bánh canh xong lại lẽo đẽo đi theo nàng. Đến
một chỗ vắng người, bà ta dúi vào gánh nàng một xấp truyền đơn. Bà bảo bà biết
rõ chị là ai và vừa khuyên vừa doạ chị hãy tỏ ra xứng đáng với chồng và con.
Nàng sợ đến nỗi không dám đi bán nữa mà gánh chạy tuốt về nhà. Mẹ chồng hỏi
“sao về sớm”, nàng bảo “con thấy chóng mặt nhức đầu quá”. Bà bảo,” thôi còn bao
nhiêu để lại ăn khỏi nấu cơm. Ngã bệnh thì khổ”. Nàng dạ, rồi vội vàng xuống
bếp ném thẳng vào lửa. Mãi đến khi tất cả đã thành tro, nàng vẫn còn run.
Hai hôm sau, cũng người đàn bà đó cố ý bỏ quên một cái xách tay trong một tiệm
ăn. Đến trưa thì nó phát nổ.
Thế là người ta bắt đầu chú ý đến những gánh hàng rong, những thúng xôi, những
rổ bắp. Những gã đàn ông không ăn quà chỉ đứng xa xa hút thuốc. Là công an
chìm, là mật vụ. Những con mắt cú vọ theo đuổi nàng như những con ruồi bay theo
nồi bánh canh. Cả trong giấc ngủ nàng cũng mơ thấy những tờ truyền đơn bay chấp
chới và những trái lựu đạn nằm lăn lóc.
Nàng sợ tưởng sắp phát điên, đành nói thật với mẹ chồng. Bà cụ thở dài. “Đồ vô
hậu, bà nói, thôi để mạ sang cho một sạp bán quần áo cũ. Mạ chỉ còn chút ít để
dành lo đau bệnh. Cũng đành dốc hết ra mà làm ăn chớ biết sao! Loạn chi mà loạn
rựa tề!”
3
Sạp bán quần áo cũ sang lại ở chợ nhỏ khu Năm. Mỗi bề rộng một thước rưỡi chỉ
đủ đặt một cái thùng gỗ cao hơn nửa thước. Có đến nửa thùng là đồ viện trợ gồm
những cái váy to như bồ lúa, những chiếc quần kaki rộng thùng thình mà dân tản
cư thường chọn mua lấy vải để may cho chồng con. Nó vừa rẻ vừa chắc. Nhiều bà,
trời lạnh, cả mấy mẹ con cùng chui vào một cái váy là đủ ấm, khỏi cần phải chăn
nệm. Các bác xích lô, bốc vác lại thích quần áo lính ta, trong khi thanh niên,
công chức thích vải gabacdin của Mỹ. Ngoài ra còn có giày bố, giày bốt đờ sô…
Cửa hàng tầm tầm nhưng cũng đã vét của bà Cửu đến những lạng vàng cuối cùng.
Được ngồi suốt ngày trong mát, được ăn mặc sạch sẽ dễ coi, nên dù không phấn
son như mấy cô bán hàng khác, nàng vẫn có một nét đẹp mặn mà. Không ai nghĩ là
nàng đã quá ba mươi.Trái lại người ta cứ tưởng là nàng kén chồng hơi kỹ nên tận
bây giờ vẫn chưa có ai.
Trong số những người để mắt đến nàng có một anh công chức làm ở toà hành chánh.
Anh đã mua của nàng cả chục bộ quần áo treo đầy tủ nhưng không mặc bao giờ. Cứ
mỗi lần ghé lại là anh mua một bộ. Anh chỉ chọn lựa, trả tiền rồi đi, không nói
với nàng tiếng nào. Chừng như, mối tình của anh tính theo quần áo, đã đến lúc
chạm nóc tủ, anh liền mua tặng nàng một chiếc nhẫn.
Nàng ngạc nhiên bảo là nàng có chồng rồi nhưng anh không tin, anh bảo là anh sẽ
cưới nàng làm vợ và nàng sẽ chỉ ở nhà lo cơm nước khỏi phải buôn bán chi cho
khổ cực. Nàng hơi bối rối, nhưng cái ý nghĩ lấy chồng một lần nữa làm cho nàng
cười thầm.
Ừ nhỉ, sao không bỏ quách mà đi lấy chồng khác như nhiều người vợ có chồng tập
kết mỏi mòn không chờ đợi được. Có chồng, còn là một cách vứt bỏ cái mũ thân
cộng đang đội trên đầu, là xoá sạch quá khứ tối tăm hướng đến một tương lại
sáng sủa. Có chồng, được quá đi chớ. Nàng đâu đã già.
Nhưng, dù anh Bùi văn Bang yêu đảng hơn yêu vợ, và Bùi văn Mỹ dù đã được đổi
thành Bùi văn Liên Xô cũng vẫn là con nàng, cho nên dẫu có phải đội hàng chục
cái mũ thân cộng trên đầu thì nàng cũng không thể nào hất xuống mà đi lấy chồng
được.
Chỉ khổ một điều, trong bóng tối người ta vẫn tưởng là nàng chung thuỷ với
chồng và trung thành với đảng nên vẫn tìm cách liên lạc để xin được tiếp tế hay
mua thuốc tây. Những lần như thế, nàng phải lén lút mua gửi lên núi mà xong
việc rồi đến cả tháng vẫn còn sợ. Nếu mật vụ biết được thì chẳng những nàng bị
đi tù mà sạp hàng, cơ nghiệp của mẹ chồng cũng bị tịch thu sạch!
Đồng tiền trong chiến tranh như nước chảy vào chỗ trũng. Dân càng chạy loạn
nhiều thì túi càng rổng, trong khi những người phố thị túi lại cứ càng ngày
càng đầy lên. Nàng tuy chẳng thấm vào đâu so với những nhà buôn lớn, nhưng cứ
thêm nhiều làng bị đốt là nàng lại bán thêm được nhiều hàng. Ngoài chuyện đủ ăn
đủ mặc, nàng còn dành dụm gửi mẹ chồng mua vàng. Giờ đây, nàng đẹp hơn, tươi
tắn hơn, áo hoa quần lụa chứ không phải thô nhám, xấu xí và đã biết lén thoa
một chút phấn, bôi một chút son mỗi khi ra chợ. Có người rủ nàng phi dê nhưng
nàng lắc đầu không chịu. Ai lại để cái đầu như tổ quạ. Nhưng nàng cũng biết để
cho thợ hớt bỏ cái búi tóc và kẹp bằng một cái kẹp đồi mồi. Những người quê cũ
gặp lại nàng đã phải kêu lên: chu cha sao bữa nay đẹp dử dẩy?
Mặc dù nàng không chịu nghiến răng cắt đứt quá khứ, nhưng cái tuổi xuân hơ hớ
cứ như gọi như mời, hết anh thư ký tỉnh lại đến một anh thượng sĩ.
Đó là một người cũng ngoài ba mươi như nàng. Một người Bắc di cư ăn nói từ tốn
nhỏ nhẹ. Anh không tán tỉnh, không chọc ghẹo nàng. Anh chỉ làm như tình cờ một
bữa trưa ghé qua hàng của nàng không mua mà xin đổi một đôi bốt đờ sô vừa chân,
bù bao nhiêu cũng được. Sau một hồi xỏ chân thử hết đôi này đến đôi khác, anh
chọn được một đôi giày Mỹ mới toanh. Anh hỏi nếu bán thì giá bao nhiêu. Theo
lời mẹ chồng dặn, nàng nhìn mặt anh một lúc rồi nói năm trăm. Anh rút bóp đếm
tiền trả đủ, không cò kè thêm bớt. Anh lại để đôi giày của mình nói, tôi không
cần đến nó nữa, rồi anh đi. Tuy được món lời kha khá, nhưng nàng cũng thấy bình
thường, chẳng một chút gì để ý đến anh ngoài cái ý nghĩ là anh ta làm ra bộ
bảnh.
Nàng quên mất anh ta cho đến một hôm trời mưa như trút, nước trong chợ dâng lên
đến chân sạp. Nàng loay hoay lo dọn dẹp. Đúng lúc ấy anh ta xuất hiện và giúp
nàng che chắn cho khỏi dột. Để cảm ơn anh, nàng kéo mấy chồng quần áo vào trong
cho anh ngồi ghé lên sạp.
Anh đem kẹo lạc ra mời, nàng lắc đầu. Nàng lờ mờ cảm thấy anh ta cười cái tiếng
nẫu, nên nàng chỉ ngồi im nghe anh nói. Không ngờ cũng giống như trời mưa, anh
tuôn ra hàng bao nhiêu chuyện. Anh nói tới những miền quê xa xôi của anh, những
con đê cao vút, những mái chùa xanh rêu, những cổng làng với cây đa, rồi tới
những ngọn tháp Chàm ở Bình Định…
Với một giọng ấm áp, thân tình anh đưa nàng đi từ chùa này đến tháp nọ. Nàng
trố mắt ra nhìn anh như một cô bé ngây thơ mười lăm tuổi. Mãi đến khi anh đi
rồi nàng vẫn còn ngẩn ngơ vì lần đầu tiên nàng được nghe một người đàn ông ăn
nói dịu dàng đến thế. Không như chồng nàng lúc nào cũng dấm dẳng nếu không muốn
nói là như dùi đục chấm mắm nêm!
Rồi sau đó, thỉnh thoảng những buổi trưa chợ vắng khách anh lại tới.
Vẫn những câu chuyện thương nhớ quê hương xa xôi, vẫn những nỗi buồn trầm trầm
lành lạnh. Dường như tất cả những thứ ấy đang ẩm mốc trong lòng anh cần phải
đem ra phơi nắng và nàng chính là thứ nắng mới ấm áp mà anh cần. Lạ lùng làm
sao, là chính nàng cũng có những thứ cần đem ra phơi dưới ánh nắng của anh.
Không còn sợ anh cười cái tiếng xứ nẫu nữa, nàng cũng nói về con sông chảy qua
làng, những cánh đồng lúa chín, những trái chim chim dúi dẻ ở núi Đất, về bộ
râu dài và trắng như bông lau của cha, về tiếng goi mẹ ơi nũng nịu của con
trai.
Dĩ nhiên nàng không nói về chồng. Nhưng anh nói về vợ anh. Cô ấy đẹp, thích
chưng diện, thích phiêu lưu tình ái, nên không chịu bay về cái tổ nghèo nàn
không được ấm của anh.
Thế rồi người nọ thấy nhơ nhớ người kia và người kia thấy thinh thích được gặp
người nọ.
Một ngày đẹp trời mùa hạ, bỗng nàng bằng lòng chịu để anh đưa đi chơi. Anh đã
đưa nàng lên tháp Đôi sờ những viên gạch đỏ thắm dù đã ngàn năm, đưa xuống gành
Ráng thăm mộ Hàn Mặc Tử, rồi đi ăn cao lâu ở tiệm người Tàu.
Lần đầu tiên nàng được một người đàn ông gắp bỏ vào chén những con tôm bóc vỏ,
những miếng mực trắng bong, rót nước ngọt cho nàng uống.
Lần đầu tiên nàng thấy mình được chìu chuộng cứ như một khách quý.
Suốt một ngày, nàng như một con nhộng được anh ta trói buộc bằng những sợi tơ
mềm. Cho nên khi anh nằm xuống bên nàng nhẹ nhàng cởi cúc áo, nàng đã không bỏ
chạy trốn vào ang lúa! Nàng cũng không cảm thấy mình bị cưa xẻ ra làm đôi và
dường như nàng có kêu lên nhưng không phải là tiếng thét hãi hùng.
K.B.C của anh là…
Số quân của anh là…
Đơn vị của anh là …
Nơi đóng quân của anh: Phú Tài.
Nhiệm vụ của anh: giữ kho đạn.
Anh hứa tháng tới anh sẽ cưới nàng cho dù nàng là vợ của cán bộ đi tập kết. Anh
nói, “anh không đủ sức giải phóng miền Bắc. Anh chỉ đủ sức giải phóng em”.
Và họ tạm xa nhau.
Anh về kho đạn, nàng về sạp hàng.
4
Một tháng sau không thấy anh.
Hai tháng sau không thấy anh.
Ba tháng sau cũng không thấy anh.
Nhưng nàng thấy mất kinh đã hai lần!
Một hôm, đang ngồi ăn cơm, mẹ chồng bỗng hỏi, sau khi nhìn sững vào cổ nàng.:
“mi có mang rồi hỉ?”
– …ơ mà…!
– Có mang mà không biết à?
– Dạ…con chỉ thấy tắt kinh!
– Rựa là có mang rồi! Ai? Chẳng lẽ thằng Bang mò về?
– Dạ không…!
– Với người khác hả? To gan chưa tề! Thế hắn ở mô?
– Dạ ở Phú Tài.
– Làm chi?
– Dạ lính.
– Rứa là tiêu đời mi rồi. Lính tráng làm sao tin được. Nay chỗ này mai chỗ
khác, hắn quất ngựa thì biết tìm mô!
– Ảnh hứa sẽ cưới con.
– Ai cho hắn cưới mà cưới. Nói sướng chưa. Vậy mà mi tin hắn?
– Dạ con lỡ dại!
– Đã ba lăm tuổi đầu mà dại à?
– Dạ, thưa mạ tha tội cho con.
– Tội lệ chi mi. Chỉ có tội con gái già này thôi. Cả tiền oan nghiệp chướng của
cả nhà họ Bùi chỉ trút lên đầu tau mà thôi!
Bà buông đũa đứng lên. Ngay cả những lần bị gọi lên quận để tra hỏi về tung
tích của chồng con cũng không làm cho nàng sợ như vừa rồi.
Đêm hôm đó nàng khóc ướt cả gối.
Chẳng lẽ anh ta quất ngựa như mạ nói. Nhiều người trong chợ bảo chớ tin những
cái miệng người Bắc. Nàng cũng đã phát khùng với những cái miệng như thế. Nhưng
với anh, không hiểu sao nàng lại tin. Tin hơn cả cha, hơn cả mẹ (nếu còn mẹ).
Anh đâu có nói nhiều, cũng không trao nhẫn. Anh chỉ đón nhận một cách trân
trọng những gì nàng đã trao và nói như đinh đóng cột: “coi như chúng mình đã là
vợ chồng”.
Không thể chờ đợi được nữa, nàng nghỉ một ngày chợ, đi xe lên Phú Tài. Có phải
ra Bắc đâu mà không thể tìm tới.
Người sĩ quan trực sau khi nghe nàng nói là vợ chưa cưới, liền chỉ tay về phía
những bức tường ám khói, những miếng tôn vặn vẹo, cháy đen. “Đấy là cái kho đạn
vừa mới bị pháo kích, ông ta nói. Chẳng tìm được chút gì của anh ta. Thành thật
chia buồn. Phải chi đã cưới nhau thì đơn vị sẽ làm hồ sơ để cô nhận chút ít
tiền tử”
Nghe chưa xong, nàng đã ngất xỉu tại chỗ.
Phần số của tôi như thế này sao? Tôi biết mình sinh ra là để chịu đựng, nhưng
cũng một vừa hai phải thôi, chứ cay nghiệt như thế này làm sao tôi chịu đựng
nổi! Tôi có tội tình gì? Anh có tội tình gì? Chẳng lẽ thương nhau là một cái
tội. Hay là tôi ngu dại quá. Phải chi tôi lấy một anh thư ký hành chánh thì tôi
đã được yên thân rồi. Còn anh, sao không chọn làm lính văn phòng mà lại đi giữ
những thứ giết người để nó làm cho anh tan xác. Ai chết đi cũng có một nấm mồ.
Còn với anh như thế, tôi biết tìm đâu mà thắp cho anh một nén nhang.
Trở về nhà, nàng nằm suốt ba ngày không ăn uống. Mẹ chồng cũng hơi lo. Bà vào
buồng, ngồi xuống bên cạnh nàng. Bà nói trong tiếng thở dài:” Dại chi mà dại
rựa! Hắn trốn mất rồi phải không?” Nàng bỗng ngồi dậy ôm chầm lấy bà khóc nức
nở. “Anh ấy chết rồi mạ ơi!” “Ủa, răng mà chết”, bà hỏi dồn. “Dạ bị pháo
kích”.” Trời, ạc chi mà ạc rựa” Bà lại kêu lên câu nói quen thuộc. Một lúc sau
bà nói “ Thôi đừng khóc nữa. Cũng may còn được giọt máu của hắn, đừng có dại
dột mà đi phá. Mạ sẽ giúp cho con sinh nở đàng hoàng.” Rồi bà lại nói tiếp một
cách ngậm ngùi:” cũng hay đấy, vậy là mạ sẽ có cháu bồng!”
Năm ấy, trời bỗng mưa suốt hai tháng. Bà Cửu nói, chắc Diêm vương đi lấy gỗ về
xây cung điện. Hà bá phải dâng nước lên mới đem đi được. Ngọn núi trước mặt sạt
một mảng lớn. Chợ lúc nào cũng ngập. Nàng lội nước mãi, chân trắng bệch, sưng
phù lên. Bà Cửu bảo ở nhà nhưng nàng nghĩ sắp đẻ chửa, kiếm được đồng nào hay
đồng nấy. Ngồi không mà ăn, dù của núi cũng lở huống hồ là cái sạp đồ cũ bé nhỏ
của nàng.
Lúc này, VC áp sát thành phố. Chỗ nào cũng bị gài chất mổ, ném lựu đạn. Liên
gia đại biểu lập danh sách đen những gia đình thân cộng. Nhà nàng đứng đầu sổ.
Đây có thể là đầu mối giao liên, là cơ sở. Sạp hàng của nàng bị dòm ngó rất kỹ.
Một hôm, trên đường ra chợ, không có một cớ gì hết, nàng vẫn bị bắt đưa về đồn.
Một nữ an ninh hỏi nàng:
– Chửa ai đó? Nàng lặng im.
– Câm à? Mụ đập bàn quát.
– Tôi chửa ai thì việc gì đến bà!
– Chồng đi tập kết, không chửa chồng thì chửa ai?
– Không chửa chồng bà là được rồi.
– A, mày dám láo với bà hả. Bà sẽ cho mày tù rục xương.Chồng mày ở đâu, nói
mau!
– Tôi không biết!
– Chỉ biết chửa thôi à?
Mụ nguýt nàng một cái rõ dài rồi tống giam. Mãi ngày hôm sau bà Cửu mới tìm
được chỗ giam nàng. Như một con gà mái xù lông để che chở đàn con trước diều
hâu, bà cũng xù lông ra trước bọn an ninh. Bà lớn tiếng:
– Răng mà nhốt con tui?
– Con gái bà ?
– Con dâu
– Vậy bà là mẹ Việt cộng?
– Thì đã sao!
– Có chứ. Bà phải nói con bà trốn ở đâu. Nếu không cũng bị giam đấy!
– Thì cứ giam tau đi!
Nói thế chứ không ai muốn giam bà.
Buổi chiều bà lại đến. Rất bất ngờ, bà lôi từ trong bụng ra một chai xăng:”Tau
tự thiêu như Thích Quảng Đức cho mà coi.” Người ta vội vàng ôm chặt lấy bà. Và
cũng vội thả nàng ra. Từ đó, cả xóm cây xăng ông Tề đều gọi bà là bà Huế lựu
đạn.
Cuối năm, nàng sinh một đứa bé trai, tính ra thiếu mất một tháng. Nó được ghi
trong khai sinh là con tư sinh. Và vì sinh ở Quy Nhơn nên nàng dặt tên nó là
Trần văn Quy Nhơn. Nó èo uột khóc ngằn ngặt suốt cả ngày lẫn đêm. Cả nàng và mẹ
chồng đều phải khổ vì nó. Mặc dù chẳng phải máu mủ ruột rà, nhưng bà Cửu lại
rất thương thằng bé. Bà nói” chẳng đứa mô tội nghiệp như nó. Mới tượng hình
trong bụng mẹ mà đã mồ côi cha. Chết chi mà chết oan chết ức. Từ nay lấy ngày
kho đạn nổ mà cúng kỵ.”
Thật hiếm có người mẹ chồng nào như bà. Chỉ cần thấy con dâu vác cái bụng chang
bang về nhà là đã nổi xung thiên lên rồi. Không tống cổ ra khỏi nhà đã là may.
Lại còn cho phép giỗ thằng chồng mới trong nhà, lại xưng bà ngoại với thằng bé.
Vậy thì có khác gì là mẹ đẻ. Nàng xúc động nói:”con xin cảm ơn mạ. Không có mạ,
con chẳng biết day trở ra làm sao”! Bà nói:”ừ, nghiệp chướng chẳng phải riêng
gì tau mà còn cả mi cũng phải chịu. Thôi ráng mà ăn uống giữ gìn. Nghĩ mà
thương cho thằng Mỹ, chẳng biết lúc nào nó về! Còn thằng cha nó nữa, dại chi mà
dại rựa”!
Nghe nhắc đến hai cha con, nàng ngồi ôm mặt khóc nức nở.
Đúng là khôn ba năm dại một giờ. Dù sao tôi cũng có lỗi với anh. Có khác gì tôi
đi ngoại tình. Nhưng anh cũng biết đấy, sống với anh tôi héo hắt biết chừng
nào. Chỉ đến khi gặp anh ta, tôi mới biết cuộc đời tôi có thể tươi lên đôi
chút. Tôi chẳng ham gì chuyện ân ái, nhưng buổi chiều hôm đó, dưới bóng nắng
lưa thưa, tôi thấy mọi sự tự nhiên như nước sông là phải chảy, giọt mưa là phải
rơi. Tôi lại càng có lỗi với con tôi. Chính mẹ mới phải xấu hổ vì con, chính mẹ
mới bị con mắng té tát vào mặt. Nhưng mà con ơi, suốt bao nhiêu năm không thấy
mặt con, lòng mẹ lạnh lẽo quá. Mẹ là đàn bà, mẹ cũng cần có tiếng khóc tiếng
cười để sưởi ấm cho mình. Dù cho thế nào thì nó vẫn là em con, vẫn trong bụng
mẹ mà chui ra, vẫn cùng bú sữa của mẹ. Vả lại, anh ta đã không còn trên đời này
nữa thì nó chính là giọt máu linh thiêng mà tôi phải thờ phụng. Tôi phải nuôi
nó thành người. Tôi sẽ không để cho ai cướp đoạt con tôi một lần nữa.
5
Nhờ được chăm chút, nâng niu, thằng bé rồi cũng qua khỏi cái “đốt” khó nuôi. Nó
đã biết chạy biết chơi như những đứa trẻ khác. Trong căn nhà nhỏ lúc nào cũng
rộn vang tiếng nói tiếng cười. Giữa hai người đàn bà bao nhiêu năm khô mục héo
hắt, nó vươn lên như một mầm xanh tươi mới.Tết này nó được ba tuổi. Nó đã có
thể nắm áo theo bà đi lễ chùa.
Hàng họ khá đắt, nàng định năm nay sẽ ăn một cái tết to. Sẽ mua một nhành mai
để giữa nhà, sẽ đốt pháo, sẽ mua cho con quần áo đẹp, giày trắng và mũ kết đỏ.
Tuy chưa dám nói ra nhưng nàng dự tính sẽ thuê xích lô để hai mẹ con lên thăm
tháp Đôi. Rồi lớn thêm một chút nữa, nàng sẽ đưa nó đi ăn ở tiệm cao lâu, sẽ đi
thăm gành Ráng, nơi mà từ đó như hương hoa của đất trời, nó đã được sinh ra. Nó
càng lớn, nàng càng nhớ người cha tội nghiệp của nó, nhớ cái phút giây kỳ lạ
như một ánh sao băng bay qua giữa trời.
Dù vẫn không ngớt bị pháo kích, dù cái vòng đai an ninh đã bị thu hẹp lại dần,
nhưng dân thành phố vẫn rộn ràng chuẩn bị một cái tết có lẽ là sẽ to hơn mọi
năm. Dường như chiến tranh kéo dài lâu quá khiến người ta chai lỳ. Biết đến bao
giờ có hoà bình mà chờ. Biết chết nay sống mai đâu mà đợi. Thôi thì sống được
ngày nào hãy cứ sống. Vả lại, tết năm nào chẳng có hưu chiến. Hai bên cũng phải
nghỉ xả hơi chứ. Thế là rượu cứ chảy tràn, bia cứ việc rót tới, áo quần là lượt
cứ đem ra mà mặc, xe cứ chạy như bay…
Pháo đã nổ ran từ hăm ba tháng chạp để đưa ông táo về chầu trời cho nhanh. Pháo
lại nổ suốt chiều ba mươi để đón rước ông bà tổ tiên. Rồi pháo lại rền vang hơn
lúc nào hết trong đêm giao thừa. Cái phút giờ huyền bí linh thiêng ấy đã mở ra
trong lòng mọi người cánh cửa của bình minh. Người ta chúc mừng nhau đã sống
thêm được một tuổi, đã tai qua nạn khỏi, đã tránh được hòn tên mũi đạn…Tủi tủi,
mừng mừng, những người lính xa nhà thay tiếng pháo bằng tiếng súng. Bắn cho đỡ
nhớ người yêu, bắn cho tan nỗi buồn “xuân này con không về thăm mẹ”. Súng to,
súng nhỏ đều ngửa nòng lên trời mà bắn.
Nào ai có ngờ, cộng sản cũng muốn ăn một cái tết to bằng…súng đạn! Súng của họ
không chỉa lên trời mà chỉa vào những đồn bót “ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ
tràng”! Từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau, đạn của lính miền Nam xé nát bầu trời,
còn đạn của lính miền Bắc xé tan những lồng ngực. Những người lính đang nhớ mẹ,
nhớ người yêu, ai ngã xuống thì cứ ngã, ai tỉnh giấc mơ thì cứ đều quay ngang
đầu súng mà thi nhau vãi đạn về phía những người anh em lật kèo. Đạn đan nhau
còn dày hơn lưới một. Mọi người đều nằm rạp xuống sàn nhà.
Bỗng một tiếng nổ to: kho xăng ông Tề đã bốc cháy.
Bà Cửu và nàng ngồi ôm thằng bé nép sát vào một góc nhà Ánh sáng của ngọn lửa
kho xăng soi rõ như ban ngày. Nó nhắm mắt, rúc sâu vào ngực mẹ.
Vậy là hết tết, hết mặc quần áo đẹp, hết đi lên tháp Đôi. Chưa bao giờ nàng
thấy buồn như lúc này.
Ba ngày sau phía bên kia rút. Bên
nào cũng nói chiến thắng. Chỉ có cửa nhà đổ nát, người chết và bị thương là
thất bại hoàn toàn. Mặc dù rất bàng hoàng, lo sợ, nhưng mọi người cũng phải lao
vào cuộc sống. Chợ vẫn nhóm và tại đây người ta kháo nhau đủ thứ chuyện mà ai cũng
bảo là chính mắt mình trông thấy. Cảnh bắn nhau, cảnh rượt đuổi trên đường phố.
Và nhất là những xác VC được đem ra phơi nắng như những chiến công. Có người rủ
nàng đi xem. Nàng rùng mình lắc đầu.
Buổi chiều, đang lay hoay dọn dẹp, có một người ngó trước nhìn sau, lén đưa
nàng một tấm hình.
Đó là tấm hình đen trắng đã ố vàng. Nàng cũng có một tấm hình như thế, chụp hai
mẹ con ở Đập Đá. Nàng muốn hỏi xem ở đâu mà có được. Người ấy nháy mắt ra dấu
bảo dọn hàng. Nàng liền tộng tất cả vào thùng, khoá lại rồi đi theo.
Quanh co một hồi ở khu Sáu, hai người đến một căn nhà không số. Cửa hé mở cho
nàng vào nhà, người ấy ở lại bên ngoài cảnh giác. Chủ nhà là một cơ sở đưa nàng
ra sau. Trong gian buồng tối tăm chật chội, một người bị thương nhuộm đầy máu
đang nằm thở thoi thóp. Đó là chủ nhân của tấm hình.
Đây là con tôi, đứa con bé bỏng tội nghiệp đã xa mẹ gần mười lăm năm.
Đây là con tôi, là con của tôi, cho dù nó có là Việt cộng.
Con ơi, sao lại về với mẹ trong tấm thân rách nát như thế này?.
Sao con không đi Liên Xô Trung Quốc như cha con bảo?
Còn cha con sao không bảo bọc che chở, sao để con tết đến không được một chiếc
áo mà mặc, trên người chỉ có mỗi một chiếc quần cụt!
Sao con về mà không đi thăm mẹ, sao không để mẹ mua quần áo mới cho con, sao
không để mẹ dọn cơm ngon canh nóng cho con, sao không nằm ngủ bên cạnh mẹ một
đêm, sao con không mừng tuổi bà nội?
Trời hỡi, tôi biết kêu ai, biết gọi ai! Ai cũng lặng câm, những người chỉ biết
đứng sau lưng đàn bà và trẻ con mà hò hét, mà xúi dại như xịt chó vào bụi.
Nàng gục đầu lên ngực con muốn gào khóc thật to. Nàng nghe tiếng thì thào: “mẹ
ơi, mẹ đấy hả mẹ?”
Nàng vừa khóc tấm tức, vừa bế con lên. Người ta hỏi:”Làm gì vậy?” “Đi nhà
thương”, nàng nói thảng thốt. “Không được đâu. Đem đi là lính bắt ngay”
“Dù có bị bắt, dù có tù đày, tôi cũng phải cứu được con tôi”.
“Đã bảo là không được. Đưa bà tới đây là để cho đồng chí ấy được nhìn mẹ lần
cuối, chứ cứu chữa được gì”
“Vậy sao? Không ai cứu được con tôi sao. Thì bom đạn hãy rơi xuống đây cho mẹ
con tôi cùng chết”. Nàng không giữ gìn gì nữa, gào to lên.
Người chủ nhà hốt hoảng bịt miệng nàng. “Lộ ra là chết cả đám!”
Trong tay mẹ, Bùi văn Liên Xô bỗng rùng mình như một con gà vừa bị cắt tiết,
rồi tắt thở.
Phải khó khăn lắm nàng mới đưa được xác con ra khỏi thành phố. Nhiều chốt kiểm
soát được dựng lên để ngăn không cho VC thoát ra ngoài. Người ta nghĩ rằng VC
nhiều mưu mẹo có thể chui vào hòm giả người chết để trốn đi. Vì vậy, ngang qua
chốt nào cũng bị bắt mở nắp. Người ta lật khăn liệm, sờ nắn, xem đã chết thật
chưa.
Xe đến Đập Đá, chủ xe không chịu đi tiếp xuống làng vì sợ mìn. Phải mướn tám
người thay nhau khiêng mới đến được chân núi Mồ cu, là nơi thằng bé từng hỏi mẹ
sao con chim nhỏ mà mồ lại to thế. Người ta chôn vội chôn vàng để kịp về khi
trời tối.
Thôi con hãy nằm lại đây, còn hơn là phơi xác trên rừng Trường Sơn hay làm mồi
cho cá mập ở dưới biển. Chim cúc cu sẽ gù cho con nghe, bông dúi dẻ sẽ toả
hương cho con ngửi. Ông ngoại sẽ chống gậy đến thăm con, sẽ cho con đường phèn
để con nhai lộp cộp. Mai mốt hoà bình, mẹ sẽ xây cho con ngôi mộ to và đẹp. Mẹ
sẽ đặt bia đề tên là Bùi văn Mỹ chứ không phải Bùi văn Liên Xô. Giờ con là con
của mẹ, không ai rù quến phỉnh gạt con được nữa. Con vẫn trong trắng ngây thơ
như ngày nào. Con sẽ gọi mẹ ơi mẹ ơi khi mẹ đến thăm con.
Giữa cây cỏ hoang vu, nấm mồ trông bé xíu như những cái mả chuồn chuồn mà lúc
nhỏ hai mẹ con thường chơi trò đám tang. Những sợi khói mong manh, khói của
nhang và của trấu tan nhanh trong bóng hoàng hôn.
• Năm ấy là năm Mậu Thân, hãy nhớ lấy!
Trần Văn Qui Nhơn
1
“Nó là đứa nào?”, người đàn ông hỏi.
“Là con tôi”, người đàn bà nói.
“À ra là vậy. Thảo nào thằng Bùi văn Liên Xô chết!”
“Ông đừng nói với tôi cái giọng như vậy”
“Thế thì giọng nào. Con bị thương mà rửng mở với thằng lính ngụy, bảo sao nó
không chết”.
“Ông câm cái họng lại. Nó chết là do ông và cái đảng đáng nguyền rủa của ông.
Sao ông không đi giải phóng mà bắt nó đi?”
“Tôi cấm bà nói thế. Tôi cũng cấm bà và cái giòng giống Mỹ ngụy kia không được
ở trong nhà này nữa”
“Ông không cần phải đuổi. Cái nhà này là của mẹ ông mua mặc dù đã làm giấy cho
tôi. Khi thằng Bùi văn Mỹ chết rồi thì tôi và ông chẳng còn là gì với nhau
nữa”.
Đó là những lời đối đáp của những người đã xa nhau trên hai mươi năm, giờ gặp
lại.
Đó cũng là buổi tối mà cái quạt máy trên trần nhà quay 360 độ, cứ nghiêng qua
nghiêng lại như máy bay sắp thả bom, khiến hai mẹ con của một người đàn bà khác
cứ nép vào nhau, sợ sợ làm sao ấy!
“Đồ của tụi Mỹ, cái gì cũng như muốn giết người”, người đàn bà thầm thì với
chồng.
Hai người rù rì với nhau, ước tính giá trị của những vật dụng đang bày biện
trong nhà: cái T.V, cái radô, cái máy hát đĩa, cái tủ lạnh, bộ xa lông trắc cẩm
lai…dù đã cũ, vẫn là một tài sản khổng lồ, cứ như trong nhà của bộ trưởng.
Người đàn bà, lặng lẽ xếp áo quần bỏ vào trong túi xách. Đến trước bàn thờ bà
lấy khung ảnh của một người đàn bà tóc bạc trắng, bọc giấy báo, buộc dây thun,
nói với người đàn ông:
“Đây là ảnh của mẹ ông. Cũng là mẹ tôi. Tôi xin giữ lấy để thờ. Ngoài ra không
lấy thứ gì khác”.
Bà bước ra khỏi nhà, dắt con theo.
Đằng sau vọng lại những tiếng nói, tiếng cười của người đàn bà giọng Bắc, vui
còn hơn khi nghe miền Nam được giải phóng.
2
Đạn bom trong những ngày tháng tư tăm tối thực ra không tàn phá bằng những bàn
tay của con người. Bọn hôi của làm chủ thành phố khi quân miền Nam rút đi trong
khi quân miền Bắc chưa kịp tới. Bọn chúng bắn vào các ổ khóa, mở toang các cửa
sắt những căn phố mà chủ nhân đã di tản, khuân hết gạo thóc, bột mì, nước ngọt,
bia rượu, vải vóc, tủ giường, chăn nệm…Chúng cũng mở toang các sạp hàng ở chợ,
vơ vét hết hàng hóa rồi châm lửa đốt chơi.
Cái sạp quần áo cũ của bà cũng giống như xương thịt của người chồng thượng sĩ,
không còn lại một chút gì.
Hai mẹ con lầm lũi đi về phía ngoại ô. Nơi đây không có được cái ang lúa như
ngày nào. Cũng không có được cái giường ngập trong bóng tối của mẹ. Nhưng có
hai cái tháp đứng cạnh nhau gọi là tháp Đôi. Họ chui vào đó, ở chung với dơi,
chuột.
Thế cũng xong.
Bà trở lại nghề cũ: bán bánh canh. Nhưng là bánh canh giả cua, vì người bán
không mua nổi cua và người mua cũng không đủ tiền mua. Dù vậy, cái gánh hàng
rong chỉ bán trong buổi sáng sớm cũng đủ tạm nuôi sống hai mẹ con.
Chiến tranh đã qua đi nhưng những người chiến thắng vẫn chưa thôi đánh những
người chiến bại. Hết đánh tư sản mại bản đến đánh những tàn dư của Mỹ ngụy. Lại
khám nhà, lại kìn kìn từng đoàn xe chở hàng bị tịch biên. Lại đốt sách, phá
những miếu âm hồn trên khắp nẻo đường quốc lộ.
Đánh xong đến xây.
Xây dựng đời sống mới. Từng đoàn thanh niên xung phong (thực ra là bắt buột) đi
đào kênh, đắp đập không công. Từng đoàn tù không mặc áo tù đi vào chốn rừng
thiêng nước độc, gọi là học tập cải tạo. Và cũng từng ấy đoàn trẻ già trai gái
lếch thếch bồng bế nhau lên núi, gọi là xây dựng kinh tế mới.
Trôi đi, trôi giùm cho mau những tháng năm dài không biết sống để làm gì!
Và mười năm trôi mau để cho con bà trở thành một thanh niên.
Giờ là lúc những người chiên thắng cao giọng. Mỹ còn đánh được thì Campuchia và
Thái Lan là cái thá gì. Đặng Tiểu Bình bênh đàn em Pôn Pốt thì chơi luôn.
Chiến tranh lại nổ ra.
Con bà tuy không đi thi vẫn trúng tuyển nghĩa vụ quân sự.
Buổi tiễn đưa rộn ràng cờ xí, khẩu hiệu. Một màu đỏ nặng nề đang cố sức thổi
bùng ngọn lửa cách mạng mùa thu đã tắt ngúm từ lâu. Hàng chục cái loa phóng
thanh đang mở hết công suất để át đi những tiếng gào tiếng khóc. Của mẹ, của
cha, của anh, của chị.
3
Thư viết vội của Trần văn Qui Nhơn:
Mẹ ơi, con đang ở trên đất giặc. Trời rất nóng. Chúng con thiếu nước uống.
Thiếu cả lương thực. Thiếu cả đạn. Bọn giặc cởi truồng bôi lọ nghẹ, đợi đến đêm
bò vào trại, gặp ai có áo quần là cắt cổ. Con sợ lắm. Lén viết mấy dòng gửi mẹ.
Thư được dấu trong một cái tượng con cóc nặn bằng đất sét.
Người đàn bà ngửa cổ nhìn lên đỉnh tháp. Ở đó có một khoảng trống hình vuông.
Một chút da trời xanh thẳm.
Trời hỡi, làm sao cứu được con tôi, hỡi Trời!
Tiếng thét của bà vọt thẳng lên như một ngọn lao. Một bầy dơi bay qua, rải phân
xuống đỏ như máu.
4
Lời kể của một người sau hai năm làm nghĩa vụ, cụt một tay, trở về:
“Bạn ấy chết thật rồi, thưa bác. Bọn cháu bị bao vây, nhưng chúng rất khôn,
không tràn vào trại mà cố tình để ngỏ một đường rút. Chúng cháu trốn ra, bị
chúng giết gần hết.”.
“Thế cậu có giữ được chút gì của em nó không?”
“Chỉ có một tấm hình hai đứa chụp chung, cháu xin tặng bác”
Người đàn bà nâng tấm hình trên hai tay. Hình đã cũ, nước thuốc ố mờ. Một tấm
hình rất giống với hình của thằng anh đã chết. Hai đứa cùng một kiểu chống
nạnh, rất chi là nhà quê. Nhưng đẹp xiết bao, quý xiết bao!
“Tôi xin cắn cỏ cắn rơm cảm ơn cậu”
Năm ấy là năm 1990, hãy nhớ lấy!
5
Lại mười năm sau.
Tháp Đôi đã trở thành di tích lịch sử. Và là điểm tham quan du lịch của thành
phố. Những người tá túc vật vạ như bà, tuy thần không đuổi nhưng người đuổi,
phải tìm chỗ khác. Trên lưng chừng một ngọn núi đối diện, bên cạnh những người
thợ làm nghề đá chẻ, bà dựng một căn lều bằng những thứ nhặt nhạnh được trong
các kho đồng nát.
Có hai con đều chết trong hai cuộc chiến tranh, nhưng bà không được cấp nhà
“tình nghĩa”. Dĩ nhiên cũng không được phong tặng “bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
Bà lại sống trong tăm tối và cô đơn như hơn sáu mươi năm trước đây trong căn
buồng của mẹ. Chỉ còn một chút an ủi, là từ đây, sáng trưa chiều tối, ngay cả
những đêm không trăng, lúc nào bà cũng nhìn thấy hai ngọn tháp đứng cạnh nhau
như hai anh em.
Bà nghĩ, chúng là con của bà. Chúng đỏ rực một màu khi nắng lên và vàng óng khi
chiều xuống. Chúng đẹp xiết bao, rực rỡ xiết bao, cho dù một ngàn năm nữa sẽ
trôi qua.
Khuất Đẩu
Viết lần 1, 2008
Viết lần 2, 2013
Viết lần 1, 2008
Viết lần 2, 2013