
Chỉ cần đọc cái tựa tập truyện Một Thời U Ám với mẫu chữ hoa vàng
xỉn in trên nền bìa đen của nhà văn Đỗ Xuân Tê người ta cũng có thể đoán được
nội dung toàn tập là những truyện u ám một thời của tác giả. Thật vậy, đọc
những bài viết từ chuyện trong tù cho tới ngoài tù chuyện nào cũng phết lên một
lớp màu u ám, nhưng cũng may không hề … hắc ám. U ám được hiểu ở thế thụ động,
cam chịu, hạ phong ngược với hắc ám luôn thể hiện bằng bạo lực, ức chế.
Đọc những bài viết của Đỗ Xuân Tê, ta có thể nói mỗi một truyện được tác giả
nối kết liền mạch như một thể truyện dài. Bút pháp sâu sa mà giản dị, mộc mạc
mà rướm máu, gợi cho người đọc một cảm giác ray rứt, một nỗi buồn khôn nguôi.
Nhìn chung, văn phong của Đỗ Xuân Tê có vẻ thích ứng với nỗi buồn. Cách hành
văn và thế giới hình tượng về con người, tù ngục trong hai mươi mốt câu chuyện
đã nói lên điều này. Cái hay của nhà văn là không dùng chữ nghĩa để làm dáng
nghệ thuật, chính sự cảm hứng sáng tạo đã trải niềm đam mê vô lượng của anh
trên trang giấy để hình thành Một Thời U Ám khó quên.
Sau 30 năm chiến tranh tận diệt, chưa bao giờ đất mẹ từ Nam ra Bắc lại mọc
lên nhiều trại tù như thế. Vào truyện, hình ảnh đầu tiên là một trại tù trên
đất Bắc xa xăm. Sâu trong rừng trong rú, trên non cao núi cả, những láng trại
bằng cột kèo, cỏ tranh, phên lá vội vã dựng lên.
Anh khéo léo tả cảnh: “Trại tù nằm sâu trong thung lũng hẹp, dựa theo
sườn đông của rặng Hoàng Liên Sơn”, rồi mỉa mai: “Địa hình vùng này
quả là nơi lý tưởng để giam tù cải tạo. Bốn bề là đồi núi, cây trái không thứ
nào ăn được, ăn lầm là hết thở”.
Cũng ở chốn thâm sơn cùng cốc này anh có nhắc đến loài chim “bắt cô trói
cột” làm tôi nhớ hồi tôi đi tù cải tạo cuối tháng 3 năm 1975 trên cao nguyên
lạnh giá. Ngoài tiếng chim “bắt cô trói cột” tôi còn nghe tiếng chim “bắt bà xã
…ụ tà tà” chen với tiếng chim “ông lão đầu bạc” đua nhau kêu khàn cả núi rừng
mỗi khi chiều xuống. Rừng núi thuở ấy, với tôi – tiếng chim ồn ào một
cách dễ thương. Không như họ Đỗ nghe chim kêu lại có cảm giác như tiếng kêu của
một vong hồn oan nghiệt, nghe riết phát khùng. Ngày nay núi vẫn còn
đó, nhưng rừng đã mất và tiếng chim cũng không còn.
Lúc mất nước và sau nhiều năm đi tù Cộng sản sống sót trở về, không ít người
viết về tù cải tạo. Có người cho rằng không bị đày ra Bắc thì may mắn hơn, đỡ
khổ hơn, nhưng rốt cuộc ngục tù Cộng sản ở phương nào cũng đầy nguy nan, đói
rét, bệnh tật, chết chóc. Ở đó, không xa những mái tranh tù, nhấp nhô những
ngôi mộ tù. Ở đó không hề có khúc hát màu xanh, không mọc nỗi một nụ cười dù
gượng. Nhìn chung chuyện đời tù dĩ nhiên không vui, lúc nào cũng u uất, nghẹn
ngào, cứ bàng bạc một nỗi đau. Ngục tù là địa ngục do chính tay những người tù
bại trận bị bắt dựng lên ở chốn non cao rừng thẳm. Núi non thì cao ngất, rừng
thì trùng điệp, hiểm nguy.
Một Thời U Ám có nhiều buổi sáng lầm lũi và co quắp. Mỗi buổi sáng
tinh sương, những người tù lặng lẽ lên non lao động khai quang trồng trọt để có
cái ăn qua ngày. Họ phải tự lực cánh sinh, phải lách mình qua cơn sinh tử trước
họng súng bạo lực và trò chơi chính trị của kẻ thù. Ở trong tù, nuốt vội hột bo
bo hay nhấm nháp miếng khoai, miếng sắn; nỗi niềm của những ngưòi tù đã âm thầm
chôn sâu trong từng miếng ăn.
Nhà văn Đỗ Xuân Tê lưu tâm ghi nhận Một Thời U Ám là thời kỳ mà
chính tác giả và những nhân vật tả chân trong đó, sau chiến tranh, đã bị áp đặt
cuộc đời mình giữa ngục tù ảm đạm cũng như trước cảnh đời thê lương. Những ngày
tháng sinh tử trong cái gọi là tù cải tạo.là thời kỳ mà tác giả mô tả những
bóng dáng lủi thủi của kẻ thua cuộc, đồng thời truy niệm thịt xương của đồng
đội đã nằm sâu dưới ba tấc đất. Nhìn thân phận tù và những ngôi mộ tù mới thấy
sự sống và cái chết mong manh như thế nào.
Trong lao tù Cộng sản, giữa tử và sinh cách nhau chỉ một sợi tóc là một bài
học hàng ngày, gần gũi và thương tâm. Không còn cơ hội cống hiến danh dự và
trách nhiệm cho tổ quốc, tinh thần những người bại trận đi tù đã mãi mãi điêu
tàn.
Hãy lướt qua một vài mẩu chuyện để thấy Một Cỗ Xe Trâu gợi lên cái
buồn ngơ ngác trước con trâu già biết khóc và tiếng khóc to của người tù già
vội vàng lấp mộ cho người bạn tù xấu số bằng những xẻng đất vô tri. Vài cây
hương dở được cắm xuống, như tác giả viết, người đọc có cảm tưởng như thắp
hương cho cả một đất nước điêu linh.
Truyện Bà Cô Tôi đầy nhân bản nhưng buồn thê thiết. Cảnh gặp gỡ
giữa cô cháu sau ba mươi năm cách biệt diễn ra trong hoàn cảnh éo le ở một trại
tù cải tạo trên đất Bắc thật xúc động. Bà cô của họ Đỗ là mẹ liệt sĩ, có con
sinh Bắc tử Nam, cháu cô (tức tác giả) thì đi Nam tù Bắc, rể cô mang thương tật
trở về làng cũ, một hoạt cảnh khắc sâu cái nghịch lý của cuộc chiến đối đầu
Nam-Bắc, mà hệ lụy của nó còn trải dài đến nhiều thế hệ mai sau. Gặp lại người
cháu thân yêu lần đó, ít tháng sau bà qua đời. Một câu chuyện buồn đầy nước mắt
của một kiếp người.
Còn nhiều câu chuyện chết chóc tác giả rỉ rả kể ra khiến người đọc buồn tê
tái. Nhưng nói đến thân phận tù cải tạo mà không nhắc đến những người vợ đầu
gối tay ấp là một thiếu xót. Nhà văn viết về những người vợ lặn lội ra Bắc thăm
nuôi chồng sao quá lớn lao tưởng chừng không bao giờ có được. Sáng tác của Đỗ
Xuân Tê gợi dậy ở người đọc nỗi nhức nhối khôn nguôi, xót xa những thân phận
lưu đày, thương cho lòng thủy chung của những người tòng phu và oán hận thay
cho sự bạo tàn của một chế độ.
Thời gian quá khắc nghiệt. Cuối cùng, sau mười hai năm tù cải tạo sống sót
trở về, cầm mảnh giấy tha, hít thở không khí tự do ngoài cổng trại dù đứt quãng
và mệt nhọc; lòng tuy mừng nhưng dưới đáy sâu tâm hồn của tác giả đã lộ ra một
vết thương lở loét suốt đời không ngậm miệng. Một chút hoài niệm lẫn ngậm ngùi
như ứa ra từ các trang sách, dù chắt lọc ngôn từ hay bình dị câu cú, tập truyện
vẫn phải dành hết cho thân phận con người một nỗi đau sau cơn bão thời thế.
Đọc hết tập truyện Một Thời U Ám khởi từ Vùng Đất Chim Độc
Thoại tới cuối truyện Người Đàn Bà Phố Hàng Khay, người đọc đều
cảm nhận được sự bi ai của một cuộc làm người. Qua những trang viết, ta ít khi
tìm thấy niềm vui nào trọn vẹn. Là vì những nhân vật trong truyện cũng như
chính tác giả đã lâm vào nỗi éo le, nhức nhối, xót xa, bạc phước như một số
kiếp mà con người phải gánh chịu.
Nhà văn Đỗ Xuân Tê tên thật Đỗ Xuân Thảo, sinh năm 1940 tại miền quê Bắc
Việt. Vào Nam khi đất nước chia đôi. Cựu học sinh Pétrus Ký, Chu Văn An. Tốt
nghiệp ĐHSP Sàigòn khóa 1963. 12 năm quân ngũ, 12 năm tù cải tạo. Đến Mỹ
năm 1991 theo diện H.O. Khởi viết từ khi ra hải ngoại. Cộng tác với nhiều
báo, và trang web có uy tín. Hiện cùng gia đình định cư tại California.
Tác phẩm đã xuất bản: Một Thời U Ám (Truyện ngắn, Giao Chỉ 2016). Hãy
Cho Nhau Nụ Cười (Tản mạn tâm linh, Muối của Đất, 2012). Sẽ in trong
năm Mưa Sàigòn Nắng Cali (Tạp Ghi Văn Nghệ).
Phan Ni Tấn