Hơn một chục bà sồn sồn họp mặt, tranh nhau xôn xao cười nói
ồn ào như chim vỡ tổ, ăn uống liên miên không dứt, tâm sự dông dài. Nói qua đủ
các đề tài trên trời dưới đất. Rồi chuyển qua chuyện chồng con. Chị Xuân “khai
hỏa”:
“Ông chồng em lười như hủi mấy chị ơi. Không biết tại sao ông trời lại sinh ra
được một kẻ lười đến như vậy. Không làm được việc gì nên thân. Nhờ đi mua mấy
bó rau răm thì đem về rau húng. Mua trái cây, không khi nào chịu lựa, thò tay bốc
đại, đem về toàn cả đồ hư thối. Ngay cả việc đổ rác cũng không xong.”
Chị Hạ phụ họa lời chị Xuân: “Đàn ông, theo em định
nghĩa, là một giống vật lười. Chị đừng than thở chi cho mất công. Cứ thử hỏi
các chị quanh đây, có ông chồng nào không lười? Thôi, trách móc kết án chỉ là
thừa. Tôi hỏi thật chị nhé, ông xã chị lười, nhưng có lười trong chuyện…chuyện
phòng the hay không? Đó mới là điều quan trọng nhất.”
Các bà ngồi quanh cười hi hi. Chị Xuân đỏ mặt. Nói lí nhí:
“Lười thì mọi việc đều lười.” “Hừ, lười chuyện phòng the … mà quần nhau có
đến sáu đứa con? Nếu không lười e có hai chục đứa hay sao?” Chị Hạ nói tiếp:
“Ông chồng chị đâu có lười bằng chồng chị Hương? Nghe nói ông nầy lười đến độ
những khi nào vợ chồng ‘vui vẻ’ cũng vẫn còn để nguyên cả áo quần. Thế mà chị
Hương có bao giờ than ông ấy lười đâu? Nầy chị Xuân ơi, chị nói chồng chị lười,
mà có lười việc sở không? Có lần nào bị đuổi việc vì tội lười biếng chưa?”
Chị Xuân cao giọng: “Việc sở, ông ấy đâu có dám lười? Lười để bể nồi cơm sao?
Lười để cả nhà dắt nhau đi ăn mày? Ở sở, ông ấy chăm chỉ, đi sớm về muộn, đôi
khi làm việc sở quên cả giờ ăn trưa đó! Thỉnh thoảng lại còn mang công việc sở
về nhà nữa!”
Chị Hạ hỏi dồn: “Về nhà, ông ấy có dạy và kiểm soát việc học của các con
hàng ngày không? Có cắt cỏ, tưới cây không? Có sửa chữa nhà cửa điện nước
không?” Chị Xuân hừ một tiếng dài: “Các việc đó mà lười nữa, thì ai lo
cho!” Chị Thu lớn tiếng xen vào: “Tôi thì chỉ mong có ông chồng lười cho đỡ
mệt. Ông chồng tôi ham làm vườn quên ăn quên ngủ, quên giải trí, quên hết.
Ai đời đi làm việc về, vội vã thay áo quần, chạy mau ra vườn,
xới đất trồng cây cho đến khi trời tối mịt thì thắp đèn lên làm tiếp. Mãi cho đến
chín mười giờ mới chịu vào ăn tối. Cơm canh nguội lạnh. Thứ bảy chủ nhật, cũng
loay hoay ngoài vườn từ sáng sớm cho đến khuya. Vợ con không nhờ được việc gì cả.
Quanh năm bốn mùa lăn lóc trong khu vườn. Những khi mưa đổ như trút, gió thét ầm
ầm, thì co ro che dù, mang áo mưa, tưởng như bị trời hành. Tôi kêu gào rát cả cổ,
cũng không suy suyển, chán quá, tôi cũng không thèm nói năng chi nữa!”
“Vườn có rộng không? Ông ấy trồng gì mà quanh năm không hết việc?” Một bà tò mò
hỏi. “Khá rộng. Ông ấy cứ bứng cây nầy, trồng cây kia. Làm non bộ, đắp núi
giả, gầy uốn cây bonsai, bắt ống nước, chạy dây điện. Cứ thế mà từ ngày nầy qua
ngày khác, năm nầy qua năm kia, không bao giờ xong. Những khi đau yếu chưa
lành bệnh hẳn, còn ho hen, xịt mũi, cũng ra vườn không kể chi đến nắng gió.
Ông ấy còn bảo, nếu không ra làm vườn, bệnh càng khó thuyên giảm, lâu bình phục.”
Bà bạn cười cười: “Chị có biết không, làm vườn cũng là một lối thiền cao độ. Hầu
như tất cả các đại thiền sư Nhật Bản, đều say mê việc tạo cảnh. Thiền là đó, chứ
không phải đâu cả. Hay là, hay là… chị cằn nhằn quá, nói nhiều quá, nên ông ấy
lấy cớ ra vườn lánh nạn. Cho đỡ khổ cái lỗ tai, đỡ phiền muộn chăng?”
“Vô duyên chưa?”- Chị Thu gắt –“Chị cứ suy bụng ta ra bụng người. E rằng, ông
chồng của chị cũng không khỏi khổ vì cái miệng hay chót chét của chị
đó!” Chị Thu thở dài chán nản tiếp: “Ông ấy mê cái vườn còn hơn mê vợ con,
mê công việc. Tôi thù ghét cái vườn. Không thèm nhìn đến, có khi cả tháng không
bước chân ra vườn, Cái vườn dành mất tình yêu của vợ chồng tôi.”
Người bạn vỗ vai chị Thu, dịu dàng nói: “Có được ông chồng không ham chơi, chẳng
rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn địch, chỉ ham làm vườn, lành mạnh như thế, mà vẫn
chưa bằng lòng, thì đòi gì nữa? Chị muốn có gì hơn?” “Hạnh phúc” Chị Thu
đáp.
Chị bạn cười mũi: “Hạnh phúc? Hạnh phúc thì phải do chị tự tạo lấy. Cứ ngồi
không mà chờ, thì khó có, rồi trách móc người nầy, kẻ kia. Sao chị không ra vườn,
tiếp tay với ông ấy, cùng cuốc xới, trồng trọt, tưới nước, chăm sóc cây trái. Rồi
tâm sự, chuyện trò, thì hạnh phúc tự nhiên tới. Chị cứ thử trong vài ba tháng
xem sao? Có mất gì đâu. Không chừng rồi chị cũng say mê làm vườn như ông ấy, và
từ đó, thuận vợ thuận chồng thì tát biển đông cũng cạn.”
Chị Hạ lắc đầu nói ngang: “Kế sách đó cũng hay. Nhưng tôi có một mưu chước
khác, làm ông chồng chị không dám ra vườn nữa. Nếu chị chịu, tôi bày cho. Nhưng
sau nầy xong việc, phải trả công cho tôi hậu hĩ đấy! Nầy nhé, chị cứ giả vờ yêu
mến cây cỏ, thiên nhiên, ra vườn cùng ông chồng, cứ đứng chống nạnh chỉ
tay.
Đòi cây nầy phải bứng qua góc vườn, cây kia phải phải chuyển
lại gần hàng rào, vồng hoa nọ không thích hợp với vị trí đó, nhổ hết trồng loại
hoa khác, cái vòi phun nước phải để qua góc bên trái mới mỹ thuật, cứ thế mà
đòi hỏi phê bình đủ thứ chuyện, lải nhải mãi. Tôi đoán, ban đầu ông ấy cũng sẽ
làm vài việc theo lời yêu cầu cho vợ vui lòng. Nhưng rồi càng ngày càng mệt, và
cứ bị đòi hỏi mãi, ông ấy cũng sẽ chán nản, bực mình và không dám ra vườn nữa.
Mấy chị nghe kế sách nầy có cao không?”
Một chị la lớn: “Không đựợc đâu! Lải nhải và yêu sách mãi, lỡ ông ấy nổi nóng,
phang cho một cán cuốc vào đầu thì uổng đời. Đừng có dại.”
Mấy bà cùng cười vang. Chị Hạ cười nói tiếp: “Ông ấy có ăn học đàng hoàng,
đứng đắn, đâu phải bọn ba trợn vũ phu mà làm càn! Trong đám chị em chúng ta ở
đây, coi bộ chỉ có ông chồng chị Hạ là không có vấn đề. Gia đình vui vẻ hạnh
phúc nhất.”
Chị Hạ phản đối liền: A! Phải ‘nằm trong chăn, mới biết chăn có rận’.
Trông như không có vấn đề gì cả, mà sự thực lại trầm trọng. Ông chồng tôi là một
nhà giáo nghiêm nghị, nghiêm nghị trong lớp học, tại trường, nghiêm nghị ngoài
xã hội và nghiêm nghị cả với gia đình, vợ con. Lấy nhau mấy chục năm mà chưa
bao giờ thấy ông ấy cười.
Nụ cười hiếm hoi còn hơn nàng Bao Tự* đời xưa trong truyện
Tàu, mà U-Vương phải đốt phong hoả đài, gạt chư hầu về cứu giá, mới có được nụ
cười của người đẹp. Ông chồng tôi, chẳng có đẹp gì cho cam. Mẹ tôi nói đùa rằng,
hôm nào cả nhà đè ông ra mà thọc lét, để xem ông có biết cười hay không! Người
ta bảo, một nụ cười bằng mười thang thuốc. Nụ cười quý lắm. Mấy chục năm chưa lần
thấy nụ cười trên môi ông chồng. Tôi cũng biết vui, biết buồn, chứ phải gỗ đá
đâu mà cứ trơ trơ.”
Chị Đông nãy giờ chưa nói, bây giờ hứng chí cũng góp chuyện: “Không biết
cười còn đỡ. Ông chồng tôi thì mít ướt, thấy chuyện gì cũng cảm động mà khóc được.
Những khi xem phim bộ Đại Hàn, cứ khóc thút thít mãi như con nít bị đánh đòn,
lau hết cả hộp khăn giấy. Đọc truyện cũng thế, khi đọc đến những đoạn lâm ly,
thì khóc oà, bỏ sách xuống, không đọc tiếp được nữa.
Đi đám ma bạn bè, gia đình người chết thì tỉnh khô, mà mắt
ông thì ướt nhẹp, đỏ lòm, xụt xịt mũi nước. Tưởng như đóng kịch. Có lần trong bữa
cơm, ông kể chuyện hai vợ chồng bên Tàu thời Cách Mạng Văn Hoá, đói quá, bà vợ
đồng ý để chồng gả bà cho người khác, để có cơm ăn, cho bà vợ khỏi chết đói. Mới
kể nửa chuyện, ông khóc oà ra, để chén cơm xuống. Khóc như cha mẹ chết. Đứa con
gái nói: “Ơ kìa Ba, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!”
Mỗi lần nghe chuyện gia đình nào tan vỡ, mắt ông cũng đỏ
hoe. Lòng ông ấy mềm nhũn, yếu xìu, nên chẳng bao giờ nói ‘không’ với người
khác được. Bởi thế cho nên các cô thư ký trong sở tranh nhau, đánh ghen nhau
tơi bời. Ông chẳng dám binh ai, bỏ ai. Tôi cũng khổ vì cái tình cảm yếu mềm sướt
mướt của ông. Tôi cũng biết sôi máu ghen lên chứ! Đàn bà mà! Chồng của mình, chứ
đâu phải là của chung thiên hạ, dù biết ông chẳng bao giờ đủ can đảm để bỏ bê
gia đình.”
“Tôi cứ tưởng ông ấy hiền lành, chứ đâu ngờ đào hoa đến thế!” Một bà
nói. “Đúng, ông hiền lành! Nhưng nếu có ai thương, thì ông không nỡ từ chối.
Không nỡ làm mất lòng ai.”- Chị Đông đáp lại – “Khi nào tôi cũng cứ dặn lòng, cứ
bình tâm mà hưởng hạnh phúc dành riêng cho mình. Không thể nào thay đổi cái mềm
yếu của ông chồng, thì cứ chấp nhận. Vì ông rất trân quý gia đình, chăm sóc con
cái hết lòng, hy sinh mọi thứ cho vợ, con, và cả người ngoài nữa.”
Câu nói của chị Đông như gãi đúng chỗ ngứa của chị Hoa. Chị bắt đầu mở máy thở
than: “Tôi khổ và giận nhất là chuyện ông chồng bao đồng lo việc bên ngoài. Ăn
cơm nhà, vác ngà voi. Bất cứ chuyện gì, có ai kêu, vội nhảy nhổm lên mà chạy đến
cho kịp. Ai giao việc gì cũng ôm vào làm ‘chùa’ không công, ngày đêm.
Rồi tụ họp nhau ăn uống, cà phê, cà pháo liên miên. Lấy tiền
nhà chi tiêu cho việc chung thiên hạ. Không có tiền thì cà thẻ tín dụng.Việc
nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Mấy cái bóng đèn ở nhà đứt dây tối thui,
kêu gào rát cả cổ mới chịu thay. Cái vòi nước cứ ri rỉ long tong hoài, nghe bực
đến nhức đầu, không bao giờ chịu sửa. Những người như ông nầy, có lẽ đừng bao
giờ lập gia đình, để sức lực, thời gian mà lo cho việc thiên hạ.”
“Thế thì sao chị lại chịu lấy ông, để rồi bây giờ than van?”
“Tôi đâu có biết. Ngày xưa mới quen nhau, đến nhà chơi, ông làm đủ thứ việc,
nào là sửa điện, đóng lại cái bàn long chân, bắt ống khóa, mở cái đồng hồ chết
ra mà vô dầu, quét vôi tường ngày tết, cưa cây, trồng hoa, chỉ dạy bài học cho
các em tôi, đến cả nấu cơm, kho cá, làm đủ việc hằm bà lằng. Chịu khó giống như
các cụ ngày xưa đi ở rể.
Tôi cảm động lắm, nhưng không ngờ, ở đâu ông ấy cũng hăng
hái nồng nhiệt làm việc như vậy cả. Ông ấy sống cho thiên hạ, chứ không sống
cho gia đình. Tôi xét đoán sai, chọn lầm người. Đáng ra ông phải dành mọi sự ưu
tiên cho gia đình, vợ con đã, rồi nếu dư năng lực, thì giờ, mới lo cho việc
chung của thiên hạ.”
Một chị la lớn: “Nghĩ cho cùng, ông ấy là người tốt, có tấm lòng. Đáng khen,
không đáng trách. Nếu ai cũng lơ là việc chung, thì xã hội nầy đi đến đâu? Làm
chi có những sinh hoạt xã hội?”
Chị Nguyệt có chồng thi sĩ tiếp lời: “Ông chồng chị Đông, làm việc còn ích
lợi thiết thực cho thiên hạ. Chứ như ông chồng em, suốt ngày mơ mơ màng màng, tỉnh
không ra tỉnh, say không ra say. Cứ suy nghĩ vẫn vơ tìm vần dệt thơ, quên trước,
quên sau. Không nhờ được việc gì. Ban đêm đang ngủ, nằm mơ hay chợt tìm ra một
câu thơ lạ, thì vội vàng bật dậy chép liền.
Có khi ngồi bóp đầu, bóp trán từ nữa khuya đến sáng, làm được
mấy câu thơ. Buổi sáng mặt mũi bơ phờ như người bệnh. Đem ra khoe. Không cần biết
hay hay dở, em chê liền. Rồi có trách móc, dằn vặt, thì ông ấy nói rằng ngày
xưa, có ông Giả Đào nào đó viết: ‘Ba năm mới làm được hai câu thơ, ngâm lên một
tiếng, hai giòng lệ rơi không cầm được, người tri âm nếu không cùng hưởng, mùa
thu sang ta về núi nằm.’ (**)
Chưa hết đâu nghe các chị. Lại véo vào ngân quỷ tiết kiệm của
gia đình mà in thơ, chất đống trong nhà. Rồi ra mắt sách, tốn thêm tiền thuê hội
trường, mua nước ngọt, thức ăn, phải có gì cho người ta ăn uống mới chịu khó ngồi
lại nghe. Còn phải gởi thơ mời, tốn thêm tiền in thiệp, tiền bưu phí. Cũng phải
chi chút chút cho ban nhạc phụ giúp vui, năn nỉ ca sĩ hát ‘chùa’. Đáng ra em phải
tránh xa các nơi ra sách nầy cho đỡ buồn, tủi, nhưng thấy ông chồng hăm hở tội
nghiệp quá, em đi theo ủng hộ. Lại càng buồn hơn.
Khách tham dự thì lèo tèo mấy chục người nói chuyện riêng ồn
ào, không thèm để ý đến diễn giả đang nói gì, ca sĩ đang hát hò gì. Chỉ bán được
mười mấy cuốn thơ cho đám bạn bè thương tình mua ủng hộ. Buổi ra mắt chưa xong,
mà khách đã về gần hết. Đáng ra, họ đã đến, thì ráng chịu khó thêm một chút, ở
lại cho đến khi kết thúc, nó lịch sự hơn. Cũng tốn bộn tiền đấy chứ!
Cái giống thi sĩ, xem tiền như rơm, như rác, nhẹ bấc. Nhưng
mình là con vợ, thì phải xem tiền là cơm, là gạo, là điện, nước. Tiền là mồ hôi
nước mắt. Chưa xong, đi đâu cũng lè kè mấy tập thơ, gặp ai cũng hí hửng ký tặng.
Ông ấy đâu có biết người ta đem về nhà, vất lăn lóc đâu đó, không đọc, hoặc
thương tình lắm, thì đọc phớt một hai bài. Thời buổi nầy ai rỗi mà đọc thơ?”
Chị Hạ khoa tay nói lớn: “Đáng ra chị Nguyệt phải hãnh diện có ông chồng thi sĩ
chứ! Ngày xưa, tôi cứ mơ có được một chàng thi sĩ đem tôi vào thơ, để ngàn năm
sau, hình bóng mình cứ thấp thoáng mãi trong văn chương. Chị Nguyệt ơi, ông chồng
chị làm văn hoá, đóng góp, thêu gấm dệt hoa cho đời, còn quý gấp trăm, gấp ngàn
lần làm ra tiền bạc. Tiền bạc chỉ có mình tiêu xài, và tiêu đi là hết. Văn hóa
còn đó, còn mãi mãi, phục vụ cho bây giờ và cho cả ngàn sau. Chị nghĩ sao?”
Chị Nguyệt lắc đầu: “Không, tôi thực tế, tôi chỉ muốn có cơm gạo. Còn mai
sau, có xui mà được lưu truyền tán tụng, tôi đã ra ma rồi, đâu biết chi nữa!
Ông chồng nhiều lần làm tôi sượng mặt, ông nghe thiên hạ xúi dại, trong các bữa
tiệc, ngâm thơ.
Đã già rồi mà lời thơ cứ anh anh, em em, khổ đau thất tình,
lửa yêu cháy bỏng, quằn quại, trái tim máu me, thân xác vật vã. Toàn cả những
hình ảnh ướt át thương đau. Anh em, khổ đau, da diết, với ai đó, chứ đâu phải với
tôi! Thử hỏi, bây giờ chúng ta cứ làm thơ thương tiếc người tình xưa, công khai
phô diễn cái đớn đau, xót xa cho mối tình cũ, thì các ông có chịu hay không?”
“Thôi thôi, đủ rồi. Lý do nào cũng đúng.” Một chị lớn tuổi cắt ngang. Rồi chị
tiếp lời: “Khổ đau của các chị là chuyện nhỏ, như đi đường đạp gai. Đáng ra phải
nhổ cái gai ra, các chị không chịu, để thế mà đi, gai cứ làm nhức nhối mãi. Tôi
còn nghe chị Hồng, chị Lê, chị Huệ than thở các ông chồng cứ ôm chặt lấy cái
computer suốt ngày suốt đêm, bỏ bê việc nhà.
Chồng chị Phương, chị Dung thì say mê thể thao, cá độ, mất hết
tiền bạc, nợ nần. Chồng chị Thành tối ngày say sưa bí tỉ, nhậu nhẹt tì tì từ
khi mở mắt cho đến khi đi ngủ. Lái xe trong khi say rượu, bị bắt còng tay. Còn
chồng chị An, chị Bích, chị Chi thì đóng đinh ở quán cà phê, đánh cờ tướng, nói
chuyện chính trị suốt ngày quên ăn trưa, ăn tối. Nào chị Giang, kể cho các bà
nghe về nỗi khổ vì chồng con của chị đi nào!”
Chị Giang trẻ nhất trong đám các bà. Mặt mày thanh tú. Nét đẹp kiêu sa của thời
con gái chưa phai tàn. Chị bình tĩnh vuốt tóc và thong thả kể:
“Ông chồng em sáu mươi chin tuổi rồi, gặp lại một bà bạn học chung lớp ngày
xưa. Bà nầy là cô giáo cũ của em thời trung học. Khi đi học, chồng em và bà
cũng chẳng có tình ý chi với nhau. Có lẽ học cùng lứa, thì các cô xem bọn con
trai như em út, và các anh nhỏ cũng không dám chơi leo tơ tưởng tới các đàn chị.
Năm trước họ vô tình gặp nhau, cả hai tuổi đều đã xấp xỉ bảy
mươi. Thế mà họ lại yêu nhau mê mệt. Em có thể hiểu được ông chồng mình, thứ
đàn ông mà trẻ không tha, già không kiêng, vốn tính trăng hoa xưa nay. Em cũng
đã chán, hết cả ghen tương từ lâu. Nhưng không hiểu được bà kia, tuổi tác đó,
chồng con đề huề, cháu nội cháu ngoại cả chục đứa.
Thế mà hai người chơi ngông, mết nhau, say sưa điên cuồng
quên hết mọi sự. Ngày nào cũng điện thoại cho nhau vài ba giờ, không biết chuyện
đâu ra mà nói nhiều đến thế. Mỗi tuần họ gặp nhau ba lần tại khách sạn, hú hí
đú đởn. Em cứ vô tình, không hay biết. Cho đến một hôm, trong lúc say rượu, ông
ủi xe vào hàng cây bên đường, bị thương ngất đi. Cảnh sát chở vào bệnh viện. Em
kêu hãng bảo hiểm nhờ kéo xe về nhà. Lục thùng xe tìm giấy tờ, thấy nguyên một
bao thư mấy trăm trang, in điện thư thư trao đổi qua lại của hai người nầy.
Đọc thư họ, em không khóc, mà chỉ cười, vì họ viết cho nhau
lời lẽ tình tứ như còn ở tuổi mười sáu, hai mươi. Già tuổi đó, mà viết được cái
tình cảm yêu đương mê muội của bọn con nít, thì họ cũng tài tình đáng phục. Bà ấy
liều mạng, nhiều lần viết rằng: ‘Em sẵn sàng chịu bị cạo đầu bôi vôi, bị lột trần
truồng dẫn đi rong bêu rếu và bị ném đá cho đến chết để có được tình yêu của
anh’.
Ghê khiếp chưa, một cô giáo có trình độ đại học mà rồ dại đến
thế. Em hẹn gặp bà, ban đầu bà định chối, nói là bạn cũ gặp nhau nhắc chuyện thời
đi học xa xưa. Em đưa cả xấp thư cho bà ấy xem. Bà hết hồn, mặt xanh như tàu lá
và run rẩy gần ngất xỉu.
Thấy thái độ của bà, em cũng thương hại. Em lên mặt dạy đời
cô giáo cũ rằng: ‘Thưa cô, ngày xưa em kính trọng cái tư cách và phong thái đứng
đắn của cô. Có những điều cô dạy, đến nay em còn nhớ. Cô thử nghĩ xem, nếu ông
chồng cô, con trai con gái cô, dâu rể và cháu nội ngoại đọc được một phần
trong những lá thư nầy, họ sẽ nghĩ gì, và đối xử ra sao với cô?’
Cô ngồi run cầm cập, mặt trắng bệch như xác chết, im lặng,
điếng người, có lẽ vì quá xấu hổ, quá sợ, thở dốc từng hồi. Em nói tiếp: ‘Thưa
cô, em ước mong rằng, đừng ai gọt đầu bôi vôi, đừng lột trần truồng dẫn cô đi
bêu rếu, và đừng ai ném đá cô đến chết.
Đây, cô giữ lấy tập điện thư trao đổi nầy. Đây là bản duy nhất,
em không muốn giữ làm gì. Em thương em, và thương cả cô, vì chúng ta đều là nạn
nhân khốn khổ của một ông chồng mất nết. Xin cô hãy thương thầy, ông chồng già
đáng kính của cô, đã chia vui xẻ buồn cùng cô, hy sinh cho cô suốt trong gần nữa
thế kỷ dài. Cũng đã đi gần hết đời người rồi. Không còn bao lâu nữa.’ Em đứng dậy
và bước đi, không quay lại nhìn bà ấy.”
Tất cả các bà nghe đến đó, đều nhao nhao lên phản đối: “Tại sao ngu vậy? Tại
sao không chụp ra vài bản, gởi cho ông chồng và các dâu rể của bà để trừng phạt?”
Chị Giang bình tĩnh: “Để làm chi? Nếu không kéo ai lên được, thì cũng đừng
nên xô họ xuống hố sâu thêm. Người ta đau khổ, xấu hổ, mà mình cũng chẳng được
gì?”
Các bà đồng thanh nói: “Để trả thù, để trừng phạt. Thế thì bây giờ ông chồng
của chị ra sao?” Chị Giang thở ra: “Em không thù, thì trả thù làm
chi? Bây giờ ông chồng em vẫn bình thường, vào ra trong nhà như con chó cúp
đuôi biết lỗi. Con người đó, trăng hoa phóng đãng khó chừa, nhưng ông cũng còn
khá nhiều cái tốt khác mà ít người có được.
Em phải biết tự cứu mình, và cứu gia đình. Chắc các chị mới
thấy cái bề mặt cư xử nhân từ của em đối với bà ấy mà thôi, chứ chưa thấy cái
thâm độc nham hiểm còn hơn cả Hoạn Thư. Nếu em hùng hổ xỉ vả chửi mắng thô tục,
thì bà đó ít đau, ít thấm thiá hơn là những lời nói nhẹ nhàng nhân hậu đó.”
Bà chị lớn tuổi nhất đám đua hai tay lên trời mà than: “Ôi sao kiếp đàn bà
chúng ta chịu lắm khổ đau như thế nầy. Tất cả cũng đều do bọn đàn ông gây ra cả.
Thế nhưng, thiếu đàn ông, thì đâu có sống bình thường được, đàn bà sẽ khô héo
như đem cây trồng vào sa mạc.
Nhưng có phải khổ đau trong đời sống vợ chồng, một phần lớn
cũng do chúng ta tự tạo ra chăng? Bởi thế, tôi nhớ có gã triết gia cà chớn nào
đó viết đại ý rằng: “Nguyện vọng thiết tha nhất của đàn bà con gái là kiếm cho
ra một tấm chống, nhưng khi có một tấm chồng rồi, thì họ muốn có tất cả. Cũng
không phải hoàn toàn sai đâu.”
Tràm Cà Mau
==========
Ghi chú
* Bao Tự: một người đàn bà đẹp thời Xuân Thu bên Tàu
** “Nhị cú tam niên đắc. Nhất ngâm song lệ lưu. Tri âm như bất thưởng. Quy ngọa
cố sơn thu.”