Ðể nhớ Tuấn
Nắng chiều đã tắt nhưng tôi vẫn như cảm nhận được cái nóng hừng
hực qua cung cách vén ống tay áo để lau mồ hôi trán của người tưới cỏ. Tôi lơ đễnh
nhìn theo vòi nước khi người tưới cỏ vừa tưới vừa bước dọc theo con đường thoai
thoải cạnh hồ bơi. Khi đến bên một gốc cây, người ấy dừng lại, tay nâng ống nhựa
để vòi nước chảy quanh gốc cây. Từ gốc cây, ánh mắt tôi hướng dần theo thân cây
và tôi nhận ra đó là cây phượng – có nơi gọi là cây điệp. Mấy mươi năm kể ngày
xa quê hương, đây là lần đầu tiên tôi thấy lại loại cây mà trước đây tôi cứ ngỡ
chỉ có quê tôi mới có.
Nhìn cây phượng sum sê, lá xanh biếc và cuối mỗi cành là một
chùm hoa đỏ rực, tôi không liên tưởng đến những ngày tháng đáng yêu của tuổi học
trò mà tôi lại bùi ngùi nhớ đến em tôi – Nguyễn Anh Tuấn.
Tôi không nhớ Tuấn học từ ai và từ bao giờ mà Tuấn lại có
ngón đàn Tây-Ban-Cầm rất tuyệt vời – không thua gì tiếng Tây-Ban-Cầm của John
Mayer – và nét vẽ rất lạ.
Dạo còn đi học, tôi ghét cay ghét đắng môn địa lý, nhưng khi
nào thầy cô bảo vẽ bản đồ là tôi được điểm cao; vì tôi nhờ Tuấn vẽ hộ. Bao giờ
cũng vậy, vẽ xong, Tuấn vẽ một đoá hoa phượng nho nhỏ bên góc phải rồi mới trao
bản đồ cho tôi. Mới đầu tôi không hiểu, vội cự nự. Tuấn cười hiền hòa: “Để chị
khỏi mất công viết tên của chị.” Vỡ lẽ ra, tôi dí nhẹ ngón tay trỏ vào trán
Tuấn...
Giữa lúc tâm trạng của tôi đang bềnh bồng trong dòng hồi tưởng
thì Sammy – hướng dẫn viên của công ty
du lịch Globus – đến cạnh , yêu cầu tôi trở lại với nhóm du khách để Sammy
thông báo những điều cần thiết và trao chìa khóa phòng.
Trước khi nhận chìa khóa phòng và điền mấy mẫu giấy thỏa thuận
về những chuyến đi chơi riêng (excursions), tôi hỏi:
- Sammy! Cho tôi một đặc ân, được không?
Dù chưa biết tôi sẽ yêu cầu điều gì, Sammy cũng vui vẻ gật đầu.
Vừa nói tôi vừa chỉ về hướng cây phượng:
- Sammy cho tôi căn phòng chỗ có cây hoa đỏ đó, được không?
- Vậy mà tôi đang lo, cứ ngại bà sẽ bảo tôi đưa bà đi xem
kho tàng của vua Tutankhamon ngay bây giờ.
Cả nhóm du khách cùng cười ồ lên.
Ði ngang cây phượng, thấy trái phượng lủng lẳng trên cành, tự
dưng tôi chậm bước, lòng buồn rười rượi. Sau khi vào phòng, nhìn qua cửa kính,
thấy thân cây phượng gợn lên màu xam xám nhờ ánh đèn sáng rực từ khuôn viên hồ
bơi, tôi mới nhận biết được nỗi buồn chợt đến trong lòng tôi là do cây phượng
này gợi lại trong tôi hình ảnh cây phượng già trước ngôi nhà xưa của Ba Má tôi.
Dưới gốc phượng già của Ba Má tôi, tôi không nhớ vào dịp
nào, Ba Má và mấy chị em tôi chụp chung một tấm hình, phóng lớn, treo ngay
phòng khách. Trong ảnh, mấy chị em tôi đứng sắp hàng từ lớn xuống nhỏ; Ba Má
tôi đứng sau hai đứa em gái nhỏ nhất – Mai-Trâm và Trúc-Uyên. Mấy mươi năm qua
tôi gần như quên bẳng tấm ảnh đó; nhưng cách nay không lâu, Tuấn gửi sang tặng
tôi. Thấy tấm ảnh tôi không dám nhìn lâu, vì nhiều người trong tấm ảnh ấy không
còn nữa! Phía sau tấm ảnh Tuấn viết: “Trả
lại chị những ngày vui xưa”.
Những ngày vui xưa của chị em tôi là những buổi trưa trốn ngủ
trưa, lén leo lên cây phượng, hái trái, giả Les Trois Musquetaires, chơi trò
đánh kiếm. Trái nào bị gảy, chị em tôi tét vỏ ra, lấy hột ăn một cách ngon
lành. Nhiều khi mê chơi, chị em tôi quên canh giờ, Ba tôi thức dậy đi làm, vậy
là chị em tôi bị rầy. Chị em tôi chỉ sợ lúc đó thôi, vài hôm sau cũng lén lập lại
trò chơi cũ. Trò chơi ấy cứ tiếp diễn mãi cho đến năm tôi lên trung học đệ nhị
cấp mới chấm dứt.
Từ khi trở thành “cô nữ sinh đệ tam B4” tôi cứ hãnh diện ngầm,
vì cho rằng tôi không còn là con nít nữa. Nhưng kể từ khi vào đời, và ngay cả
giờ phút trong căn phòng sang trọng của khách sạn Oberoi Mena House Garden cổ
kính này, tôi cũng chỉ tha thiết ước mong được trở thành con nít một lần nữa
thôi!
Lòng tôi ôm niềm ước mơ không tưởng để đợi giấc ngủ đến;
nhưng tiếng hòa nhạc nơi hồ bơi làm tôi không ngủ được. Một lúc sau, hòa lẫn với
âm thanh của trống và các nhạc cụ quen thuộc khác, tôi nhận ra âm thanh của đàn
rababas. Giọng hát nao nao buồn, bằng thứ ngôn ngữ rất lạ, không thể nào tôi hiểu
được. Sau vài bài ca rất đặc thù của xứ Ngàn Lẽ Một Ðêm, bất ngờ tiếng trống lớn
hơn và dồn dập hơn, rồi ban nhạc chuyển sang Rock trong những tràng pháo tay
reo hò. Dù không thích nhạc Rock tôi cũng cảm thấy vui vui vì không phải nghe
thêm âm thanh áo não của rababas – loại nhạc cụ có hình dáng và âm thanh tương
tự như đàn cò của mình.
Tôi thật sự ngạc nhiên, không ngờ họ Rock cũng đến nơi đến
chốn, không thua gì ca sĩ Việt-Nam hát nhạc Mỹ. Tôi tò mò, ngồi dậy, vén màn cửa
sổ vừa nhìn vừa nghe. Giữa mỗi tiết mục họ giới thiệu bằng thổ ngữ của họ nên
tôi không hiểu. Tôi chỉ nhận biết khi nghe những bản nhạc quen hoặc khi họ hát
bằng Anh ngữ hay Pháp ngữ.
Bỗng dưng sự nhộn nhịp bên hồ bơi hơi lắng xuống khi một
thanh niên ôm Guitar đến gần micro. Anh ấy dạo phân đoạn đầu. Tôi nhận ra tiết
điệu của tình khúc Please Don’t Go. Rồi anh hát: “I love you. Yeah, Babe. I love you so. I want you to know that I’m
going to miss your love...”. Tiếng đàn và giọng hát của anh không điêu luyện;
nhưng tôi thích nghe, vì bản này tôi từng hát, từng đàn và từng nghe. Chính lúc
này tôi mới hiểu tại sao ngày xưa, khi tôi lớn lên với Giấc Mơ Hồi Hương,
Eternally, Gợi Giấc Mơ Xưa và giọng ca của Pat Boon, Elvis Presley, Paul Anka,
Dalida, The Beatles, v. v. thì Ba tôi vẫn cứ
Tino Rossi, Ðêm Thu, Santa Lucia, Đêm Đông, Xếp Bút Nghiên, Goodbye
Hawaii, v. v. Tôi chỉ “gặp” được Ba tôi ở những bản bán cổ điển của F. Liszt,
N. Serradell, J. Strauss, Chopin, Franz Schubert, v .v. Còn Mozart, Beethoven,
Bach, v. v. đều là “của Ba”, vì tôi không đủ trình độ để thưởng thức. Tôi nghiệm
ra, đối với Ba tôi cũng như đối với tôi, âm
thanh của dòng nhạc có mãnh lực đưa hồn mình trở về những ngày tháng xa
xưa để mình sống với những gì đã qua và đã mất .
Vì hồn tôi mãi lang thang tìm về những gì đã qua và đã mất
cho nên nhạc khúc Please Don’t Go dứt hồi nào tôi không hay. Anh chàng ca sĩ
tài tử bên hồ bơi đang hát một bài khác, lời ca và tiết điệu nghe cũng quen lắm.
“Yesterday, all my troubles seemed so far
away...” Tôi vui mừng reo lên nho nhỏ
“Ô, Yesterday” rồi tôi ngồi lên thành cửa sổ, lắng nghe.
Theo tiếng đàn và giọng hát của anh ấy, tôi tưởng như tôi thấy
lại Tuấn trong sân trường đại học Khoa-Học vào thời gian Saigon sôi sục, đầu thập
niên 70. Trong khi những sinh viên có khả năng văn nghệ khác thường đàn và hát
nhạc Trịnh-Công-Sơn cho hợp thời trang hoặc là họ muốn bộc lộ tư tưởng của họ
thì Tuấn chỉ Come Back To Sorrento, Yesterday, Only You, v. v. Tôi thường góp ý
với Tuấn: “Trong không khí như vậy Tuấn
chỉ nên hát những bản vui như Qué Será Será, Tous Les Garcons Et Les Filles,
Technique, Marina, v. v. Còn những bản tình cảm êm dịu hát nơi những chỗ đó phí
đi”. Tuấn chỉ cười. Sau đó không hiểu tại sân trường đại học Tuấn có thay đổi
hay không, nhưng mỗi khi ngồi trên sân thượng nhà tôi, đàn và hát một mình, Tuấn
cũng chỉ hát A Certain Smile, Unchainged Melody, Vaya Condios, v. v. Nhiều đêm
ngủ không được, tôi trằn trọc lắng nghe tiếng hát chơi vơi lạc lõng của Tuấn mà
tưởng như Tuấn hát cho tôi và hát cho cuộc tình lạc lối của tôi. Ðôi khi tiếng
đàn và giọng ca của Tuấn ru tôi vào giấc ngủ lẽ loi. Lắm khi tiếng đàn và giọng
ca của Tuấn làm tôi buồn quá nên tôi cũng lên sân thượng hát nghêu ngao với Tuấn.
Nhưng cũng không biết bao nhiêu lần tiếng đàn và tiếng ca của chị em tôi phải
nghẹn ngào đứt đoạn do giọng nhừa nhựa líu lưỡi vì rượu vang lên cùng với dáng
đi khệnh khạng từ dưới lầu đi lên: “Biểu...
dẹp woài...mà sao tối ngày cứ... đờn địch...ca hát. Ðờn ca...có té ra... đồng
xu...cứt nào không?..Im... đi... để... tôi ngủ...” Những lúc đó tôi xót xa
nhận ra rằng nhà tôi không có chỗ cho âm nhạc và văn học nghệ thuật mà lại là
nơi dung chứa hầu hết những đồi trụy của cuộc sống! Tôi không thể làm gì để
thay đổi, vì tôi trót được giáo dục theo nền “đạo lý thánh hiền(!)”, để “xuất
giá tòng phu” và “phu xướng phụ tùy”!
Ðể xua đuổi kỷ niệm buồn, tôi mở cửa, ra lang cang ngồi vào
chiếc ghế mây. Tiếng nhạc và quan khách bên hồ bơi đã “biến đi” tự lúc nào. Cái
nóng hừng hực của buổi chiều không còn nữa. Trời dìu dịu, mát mẻ. Nhìn quanh,
tôi thấy vùng không gian xanh tươi của sân vườn đắm mình trong ánh trăng non.
Và, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy ba kim tự tháp Cheops, Khafre và Khufu hiện
rõ trong tầm mắt tôi. Tôi phải chớp mắt nhiều lần để tự xác định là tôi không
mơ. Đang mãi nhìn một trong những kỳ quang của thế giới, tôi chợt nhớ đến phim
Cleopatra do Liz Taylor và Richard Burton thủ vai chính. Trong phim này kim tự
tháp trông tráng lệ và nguy nga cho đến nỗi tôi say mê, tôi mơ ước. Giờ đây, được
thấy tận mắt, sự say mê, niềm mơ ước trong tôi còn lớn hơn bội phần; vì, dưới
ánh trăng non, những khối đá khổng lồ được chồng lên nhau rất mỹ thuật để chôn
giấu xác thân và tài sản của người xưa trông hùng vĩ và kỳ bí lạ lùng.
Sáng sớm hôm sau, trước khi đưa chúng tôi đến kim tự tháp
Cheops, Sammy đưa chúng tôi viếng Sphinx và rạp hát giữa trời. Sphinx tôi thấy ảnh
hoài nên chẳng lạ gì. Nhưng những gì bên trong kim tự tháp – do ấn tượng từ
phim ảnh để lại – mới hấp dẫn, mới lôi cuốn, làm cho tôi nôn nao.
Sau một đoạn đường ngắn khá vất vả để lum khum chui vào lòng
kim tự tháp Cheops, tôi chỉ thấy đá và đá. Ðá chồng lên nhau. Ðá tựa vào nhau.
Ðá gắn bó nhau từ mấy ngàn năm qua. Cuối cùng là một khoảng không gian hơi rộng,
tôi thấy một hố nhỏ trống hổng – cũng được đục trong đá – giống như hình thể
quan tài! Sự nôn nao, rộn ràng trong tôi không còn nữa. Nhưng tôi lại hy vọng
hai kim tự tháp Khafre và Khufu sẽ thỏa mãn sự mơ ước của tôi. Tôi hỏi Sammy:
- Hai kim tự tháp kia có gì khác hơn tháp Cheops này không,
Sammy?
- Không. Một hãng phim ở Hollywood đang chế tạo một người
máy rất nhỏ, để đưa người máy đó vào bên trong kim tự tháp quay phim. Những gì
các bạn thấy lúc nãy chưa hẳn là bên trong.
Ngoài ba kim tự tháp lớn, tôi còn thấy vài kim tự tháp nhỏ.
Sammy giải thích đó là tháp của các hoàng tử và công chúa. Mọi người đều lộ vẻ
thất vọng, không ai muốn “chui” vào bất cứ kim tự tháp nào nữa cả.
Niềm thất vọng này càng sâu đậm hơn khi chiếc buýt đưa chúng
tôi ra khỏi thành phố Cairo. Nếu ở Cairo tôi thấy được sự hòa nhập uyển chuyển
giữa nền văn minh cổ và nền văn minh Âu Mỹ hiện đại thì dọc hai bên đường này,
ngoài những cao ốc sạch sẻ và tươm tất của cơ quan chính phủ hay cơ sở thương mại,
tôi chỉ thấy sự nghèo nàn và dơ bẩn của không biết bao nhiêu đồ án được xây cất
dỡ dang. Tôi tò mò hỏi Sammy. Sammy cầm micro giải thích cho cả nhóm cùng nghe:
- Luật của nước tôi, nếu ngôi nhà chưa hoàn tất thì chủ ngôi
nhà đó chưa phải đóng thuế cho chính phủ; vì vậy, hầu hết nhà cửa ở đây, có khi
đã qua mấy thế hệ sinh sống trong đó và họ có tiền xây thêm một, hai, ba tầng lầu
nữa nhưng họ vẫn cứ để vật dụng phế thải trơ ra đó, chứng tỏ là nhà xây chưa
xong để khỏi bị đóng thuế.
Một du khách khác hỏi Sammy về tình trạng du lịch ở Ai-cập
ngay sau biến cố 9-11 tại Hoa-Kỳ. Sammy buồn bả lắc đầu:
- Tê liệt! Tê liệt hoàn toàn! Hai ngôi đền mà chúng ta sắp
viếng thăm trong khoảng 30 phút tới đây chịu ảnh hưởng nặng nhất. Mọi cổng và lối
đi dẫn vào đền đều khóa chặt. Tường và sân đầy rong rêu. Ngôi đền mà hơn năm
mươi du khách bị sát hại cách nay mấy năm cũng cùng chung số phận. Không khí ảm
đạm, chết chóc bao quanh những ngôi đền cho đến khi chính phủ vận dụng mọi nỗ lực
trong việc kiểm soát an ninh để chinh phục sự tin tưởng của du khách.
Câu cuối của Sammy khiến tôi nhận ra vai trò của một thanh
niên mang súng lục, ăn mặc lịch sự, ngồi ngay cửa của chiếc buýt.
Trên đường đến những nơi dạy dệt thảm tôi thấy cây chà là
(date-palms) oằn trái. Trái gần chín, màu vàng. Trái chín màu đỏ thẫm. Nhiều
nơi họ đào sâu dưới lòng đá để trồng chà là. Xe chạy ngang những “hầm” như vậy
tôi chỉ thấy ngọn của cây chà là chứ không thấy được trái.
Xe chạy ngang một khu vực mà lối kiến trúc trông rất kỳ dị.
Từng khối xi-măng hình bán nguyệt, tương tự nhau, chụp lên những ngôi nhà rất
thấp. Những ngôi nhà này tuy khác nhau về diện tích, nhưng dường như cùng xây
theo một mô thức và rất sát nhau. Sammy giải thích qua micro:
- Ðây là thành phố của người chết (The city of the deaths).
Ðó là mộ của những người giàu. Gia đình họ thuê người từ dưới quê lên giữ mộ,
giá rẽ hơn thuê người thành phố. Một cách kín đáo, người giữ mộ lén đem từng
người trong gia đình từ dưới quê lên sống trong nhà mồ. Lâu dần họ tìm cách hợp
thức hóa bằng hóa đơn điện, nước, rồi họ được sống tại đó.
Tôi chợt nhớ đến gia đình tôi. Sau khi Ba và các em trai của
tôi vào tù và tài sản “được” nhà nước quản lý, Má tôi và các em gái của tôi phải
“tình nguyện” đi kinh tế mới. Ðời sống tại kinh tế mới cơ cực quá, chịu không nỗi,
Má tôi phải lén đưa các em gái tôi chui rúc nhiều nơi, kể cả nghĩa trang, để
mong tìm đường trở về thành phố; nhưng lần nào cũng bị công an khu vực bắt, lùa
về lại kinh tế mới! Mai-Trâm và Trúc-Uyên không chịu được sự tủi nhục, sự đói
khát và sự cơ cực, đành xin thuốc giết chuột của người láng giềng, cùng kết liễu
cuộc sống!
Khi nào chợt nhớ đến sự sa sút thảm hại của gia đình, tôi
cũng không còn cảm thấy thích thú gì trong cuộc đời này nữa. Vì vậy, suốt thời
gian viếng thăm các ngôi đền và bảo tàn viện, tôi ngồi lại trong xe.
Người tài xế mở radio, đài nào tôi không biết, nhưng xướng
ngôn bằng Anh ngữ và rồi một giọng nữ đơn ca. Tôi không nhận ra giọng của ca sĩ
mà tôi lại nhận ra đó là ca khúc Unbreak My Heart. Tôi hỏi ông tài xế:
- Ở đây nhiều người nghe nhạc Mỹ không?
- Nhiều. Nhiều lắm. Ða số là người trẻ. Không những họ nghe
mà họ còn đàn và hát nhạc Mỹ nữa kìa.
- Thảo nào tối hôm qua tôi nghe ban nhạc chơi nhạc Mỹ tại pool party, nơi hồ bơi.
- Ðó không phải là pool
party mà là đám cưới. Ðám cưới nhà giàu.
Tôi cảm thấy tiếc là tối hôm qua đã không biết để ra nhìn
xem cô dâu ăn mặc như thế nào. Quanh đây, tôi thấy đàn ông mặc áo thụng (Burka)
màu xám hoặc màu nâu. Nếu họ không choàng khăn lên đầu thì, nhìn từ xa, trông họ
như những vị tu sĩ Phật-Giáo; phụ nữ, trẻ cũng như già, đều mặc áo thụng, trùm
khăn che đầu và che mặt (Hijab), đa số dùng màu đen, trông họ giống như các vị
nữ tu trong nhà Dòng. Vài cô nữ sinh măc Jeans, áo chẽn như bên Mỹ, nhưng lại
trùm đầu, chỉ chừa mặt thôi. Da mặt của phụ nữ hơi đậm chứ không đen như da mặt
đàn ông.
Trong tất cả những nơi tôi đã đi qua kể từ sau khi rời phi
trường quốc tế Cairo, tôi chưa hề thấy một hành khất nào cả. Nhưng sau khi rời
khách sạn Elephantine Island Resort tại Aswan để du ngoạn bằng felucca đến đảo Kitchener Island, tôi thấy
vài em bé trai, mỗi cậu một chiếc thuyền
nhỏ -- thuyền được ghép lại bằng ba tấm kim loại, sơn phết rất lòe loẹt -- vừa
chèo theo felucca của du khách, vừa
hát bài Clementine để xin tiền. Loại thuyền nhỏ này tôi cũng thấy dân cư dọc
theo bờ sông Nile xử dụng để đi câu, đi gỡ lưới hoặc làm phương tiện di chuyển
dọc bờ sông.
Sông Nile! Dòng sông mà Tuấn đã nắn nót vẽ lên bản đồ cho
tôi ngày xưa, giờ đây không gây được cho tôi chút ấn tượng sâu đậm nào cả! Dọc
hai bên bờ sông, tôi thấy những mái nhà lụp xụp ẩn mình dưới bóng cây chà là.
Phía sau những vùng dân cư không đông đúc đó là một vùng đá thấp và cát, hoàn
toàn không có cây cỏ. Vùng đá thấp và cát này kéo rộng ra một đoạn khá xa thì
“đụng” phải hai bờ đá cao. Trên hai bờ đá cao đó tôi chỉ thấy triệu triệu đường
nứt nẻ chứ không thấy được dấu vết của sự sống.
Sự nghèo khó quanh đây khiến tôi nghĩ đến người dân quê trên
đất nước tôi. Người dân quê nơi xứ tôi nghèo nhưng còn thấy được mầm sống và sự
tươi mát của cây rừng, của đồng ruộng. Còn nơi đây, ngoài những khóm cây thưa
thớt dọc bờ sông Nile, tôi chỉ thấy đá và đá. Ðá tầng tầng lớp lớp kéo dài đến
vô tận. Nếu nơi đây một năm mưa hai lần thì người dân sẽ hoảng hốt, không hiểu
nguyên nhân nào gây ra “hiện tượng” lạ lùng đó!
Trong giải sa mạc rực nắng và thiếu mưa, chúng tôi leo hết bậc
cấp này đến phiến đá nọ để tìm xem đền đài và những ngôi mộ cổ. Ðến bất cứ đâu
tôi cũng thấy những hình tượng được tạc bằng đá và những nét vẽ rất lạ được khắc
vào đá. Tôi không thể vào sâu trong mộ vì diện tích bên trong rất hẹp, ít dưỡng
khí trong khi bên ngoài trời nóng như thiêu như đốt.
Khi chiếc du thuyền nhỏ đến Edfu, trong lúc “đi bờ” -- danh
từ của Hải-quân, nghĩa là rời tàu hoặc rời
đơn vị để đi phố -- tôi thấy người dân địa phương dùng loại xe được đóng bằng gỗ,
không mui, do ngựa hoặc lừa kéo. Xe lừa được phụ nữ dùng để chở rau cải, hàng
hóa. Thấy cảnh phụ nữ mặc áo rộng, trùm khăn, che kín từ đầu đến chân, ngồi hai
chân một bên, vắt vẻo trên xe, tay cầm cương, thúc con lừa đi, tôi không biết
tôi nghĩ gì!
Tôi cũng thấy tận mắt những con lạc đà da khô như vỏ cây
nhưng mắt thì hắt hiu buồn. Ðối với tôi, trong nhiều sinh vật mà tôi từng thấy,
chưa có sinh vật nào mang ánh mắt buồn bả và dáng vẻ khắc khổ, chịu đựng như lạc
đà.
Không hiểu tại sao dáng vẻ khắc khổ và chịu đựng của mấy chú
lạc đà lại khiến tôi nhớ đến Tuấn. Trong lần tôi trở về quê sau hơn hai mươi
năm xa cách, tôi không nhận ra Tuấn. Tuấn chỉ hơn 40, nhưng thân người khô đét
và khuôn mặt cằn cỗi trông Tuấn như ông già 70! Bao nhiêu bất hạnh và tủi nhục
được Tuấn dấu kín trong đôi mắt hắt hiu. Tôi đau lòng, không biết mở đầu câu
thăm hỏi như thế nào. Khi Tuấn búng tàn thuốc ra cửa xe tôi mới thấy ngón tay
trỏ của Tuấn bị mất một đốt. Tôi hỏi. Với ánh mắt thật buồn, Tuấn im lặng, nhìn
ra xa...
Không bao giờ tôi ngờ được rằng tôi đã hỏi Tuấn một câu hệt
như câu mà Má tôi đã hỏi Tuấn vào năm 1976, khi Tuấn thì thầm cho Má tôi biết rằng
Tuấn sẽ vượt biên bằng đường bộ. Má tôi thoáng giật mình, nhưng vội trấn tỉnh
ngay. Má tôi lần trong thắt lưng lấy tất cả vốn liếng của mấy mẹ con – khoảng
hơn 50 đồng – dúi vào tay Tuấn. Tuấn nắm tay Má tôi, để trọn số tiền đó vào lại
trong tay Má tôi. Sự va chạm này khiến Má tôi nhận ra sự biến dạng nơi ngón tay
trỏ của Tuấn. Má tôi kinh ngạc, hỏi. Giọng Tuấn buồn buồn: “Những người vượt biên đường
bộ, nhỡ bị bắt họ thường bị ghép vào tội theo thế lực thù nghịch để chống lại
nhà nước. Vì vậy, con chặt bỏ lóng tay trỏ để, nhỡ bị bắt, họ biết con không có
khả năng xử dụng súng, họ sẽ không ghép con vào tội chống phá cách mạng, thì tội
của con sẽ nhẹ và con sẽ không ở tù lâu.”
Ước tính của Tuấn là như vậy. Nhưng khi bị bắt tại
Nât-Luông, họ đưa thẳng Tuấn vào giam tại nhà tù ở núi Sam bốn năm, không cần
ghép vào tội danh nào cả.
Suốt bốn năm tù, không biết bao nhiêu lần Tuấn hối tiếc vì
nhớ lại buổi chiều cuối cùng tôi gặp Tuấn tại nhà Thọ -- người bạn thân của Tuấn,
cùng học tại trường trung học Nguyễn-Trãi cho đến đại học Khoa-Học. Tôi bảo Tuấn
về nhà tôi, nhỡ có gì thì đi trốn pháo kích với gia đình tôi. Tuấn có vẻ suy
nghĩ, chưa vội trả lời thì Thọ bàn ra, khuyên tôi đừng đi đâu cả. Tôi thuyết phục
Tuấn. Tuấn hơi xiêu lòng thì Thọ lại lên tiếng: “Chị về trước đi. Em chở nó
theo chị ngay.” Tôi nhìn Tuấn, chờ đợi. Tuấn lập lại ý của Thọ. Tôi tin lời
Tuấn. Nhưng khuya đó, lúc gia đình tôi rời nhà, vẫn không thấy Tuấn về, tôi
khóc, vì biết Tuấn bị tuyên truyền!
Ngày đó tôi khóc vì thương thằng em nhẹ dạ, bị lừa. Ở trong
tù, mỗi khi ban quảng giáo bắt Tuấn đàn, tập cho cả trại cùng hát, Tuấn khóc thầm,
vì sự bất khiển dụng của ngón tay trỏ nơi bàn tay phải khiến Tuấn vụng về khi
búng giây đàn; và cũng vì Tuấn nhớ lại cảm giác rờn rợn khi thằng bạn dùng cái
rựa, bảo Tuấn kê ngón tay trỏ lên thanh gỗ, nhắm mắt lại để nó chặt. Một tiếng
“phụm” khô khan, đốt ngón tay lăn trên đất, máu tươi tuôn ròng ròng...
Tôi vừa nhớ đến đây chợt tiếng Sammy vang lên, cắt đứt dòng
ý tưởng của tôi:
- Ai cần mua nước chai thì mua bây giờ; bởi vì mình về đến
tàu là tàu nhổ neo đi Luxor ngay. Tôi xin nhắc lại, quý vị không nên đánh răng,
súc miệng bằng nước máy trên tàu.
Ðến Luxor, cũng dưới ánh nắng và sức nóng như trong lò hầm
than, Sammy thu xếp cho du khách đi thăm thành phố bằng xe ngựa. Cứ ba du khách
ngồi chung một xe.
Tiếng “lóc cóc” do móng ngựa chạm vào mặt đường như khơi giậy
trong lòng tôi dòng âm thanh xưa, trên những chuyến xe ngựa từ Nha-Trang đi
Thành, đi Cầu-Ðá hoặc Tháp-Bà, Hòn-Chồng. Ôi, những chuyến xe ngựa của tuổi
thơ!
Trong khi mọi người vui cười rời xe ngựa, đi vào xem chợ Trời
thì tôi vẫn ngồi yên, không muốn rời xe; vì tôi hoang tưởng, nghĩ rằng, mơ ước
rằng chuyến xe ngựa này là chuyến xe ngựa tuổi thơ của tôi!
Lúc mọi người trở lại, tôi tưởng hai người cùng xe với tôi sẽ
bước lên chiếc “xe ngựa tuổi thơ” của tôi, nhưng không, Sammy bảo tất cả du
khách chuyển sang xe buýt.
Chiếc buýt chạy khá xa nhưng tôi vẫn quay lui để nhìn lại một
lần cuối chiếc “xe ngựa tuổi thơ” của tôi.
Khi cùng nhóm du khách đi thăm đền đài và mộ của những ông
hoàng bà chúa thuộc về một nền văn minh đã tàn lụn, lòng tôi cũng còn vang vọng
tiếng vó ngựa gõ nhẹ và đều trên những con đường xưa.
Trong ý nghĩ của tôi, những chuyến “xe ngựa tuổi thơ” trên
những con đường xưa có sự sống – ít ra là trong hồn tôi – còn quanh khu vực
giành cho du khách thăm viếng, tôi chỉ thấy, ngoài nhóm công an mặc sắc phục,
còn tất cả là đá. Núi đá, phiến đá, ghềnh đá, tượng đá, hốc đá, viên đá và đá vụn
chứ tôi không thấy được bất cứ một sinh vật hay thực vật nào khác.
Khi ngồi trốn nắng nơi hốc đá ở Queen Hatshepsut’s
monumental rock temple, tôi chợt nghĩ, các em tôi chết trẻ, tôi không biết mồ mả
như thế nào, vậy mà suốt mấy ngày qua tôi lại lặn lội đi tìm xem mộ của những
người đã chết từ bao nhiêu ngàn năm trước! Ý nghĩ này làm lòng tôi buồn đến héo
hon!
Trở lại tàu, tôi lên thẳng sân thượng, tìm nơi khuất lấp, ngồi
một mình. Nhìn những áng mây đỏ rực cuối trời xa, tôi lại nhớ Tuấn. Tôi nhớ đến
lần Tuấn báo cho tôi biết, khi nhận vẽ bảng hiệu cho công ty xuất cảng cá tôm
sang Hoa-Kỳ, bất ngờ Tuấn gặp lại Thọ, là giám đốc công ty này. Thọ cần một người
có khả năng để giao dịch, mua và kiểm soát thực phẩm cho cá tôm ăn. Vậy là Tuấn
không phải lang thang vẽ bảng hiệu để kiếm sống nữa. Tôi mừng cho Tuấn và cũng
mừng cho tình bạn giữa Tuấn và Thọ.
Cách nay mấy tuần, Tuấn điện thoại, khuyên tôi không nên mua
cá tôm nhập cảng từ Việt-Nam; vì họ lấy gà vịt bị bệnh dịch đem về chế biến ra
thực phẩm cho cá tôm ăn. Tôi ngạc nhiên, báo chí Việt-Nam đăng tải là chính quyền
Việt-Nam đã ra lệnh thiêu hủy tất cả gia cầm nghi ngờ có mầm bệnh rồi mà. Tuấn
bảo họ đốt lấy lệ, để báo chí chụp hình cho bà con tin thôi, rồi họ lấp hờ tại
đó. Ðến tối, cũng chính nhóm người ấy trở lại, đào lên, đem về, lựa con nào kha
khá bán cho nhà hàng; con nào tệ, bán cho mấy công ty xuất cảng tôm càng, cá
tra để được chế biến thành thức ăn nuôi tôm cá. Tôi lo sợ, bảo Tuấn đừng nói
nhiều, nguy hiểm. Tuấn tự tin, bảo công an khu vực – tên Lực – là con của bà Ba
Giàu. Bà Ba Giàu, trước năm 1975, giúp việc nhà cho Má tôi. Ông Ba Giàu làm nghề
đạp xích lô. Hằng tháng, đến ngày Má tôi phát lương cho bà Ba Giàu, ông Ba Giàu
chở thằng Lực trên xích-lô, đến nhà tôi nhận tiền. Tối đó thế nào ông Ba Giàu
cũng “nhậu” mấy “xị” đế, rồi “xỉn”, thằng Lực phải chạy bộ qua nhà Ba Má tôi, gọi
bà Ba Giàu về cạo gió cho Ba nó. Tôi thầm phục Lực là người có tình, vì vẫn còn
nghĩ đến các em tôi như người thân. Tôi không hiểu làm thế nào Lực “ngon lành”
như vậy, nhưng tôi hơi yên lòng, vì các em tôi ở kinh tế mới, quen biết một người
có “chút thế lực(!)” cũng đỡ.
Tôi chỉ yên lòng được vài hôm thì Lộc, vợ của Tuấn, gọi
sang, báo cho biết Tuấn bị công an khu vực gọi đến trụ sở “làm việc” rồi bị tống
giam mà không viện dẫn lý do. Tôi chợt nhớ đến Lực, vội bảo Lộc liên lạc với Lực.
Lộc nức nỡ: “Dạ rồi. Anh Lực nói do trên
chỉ thị thì ảnh thi hành chứ ảnh không biết tội danh. Nhưng anh Lực hứa là ảnh
sẽ cố giúp nếu em có điều kiện...”
Tôi hiểu và gửi ngay về cho Lộc một số tiền kha khá.
Sau khi nhận tiền của Lộc, Lực muốn thả Tuấn để “ôm” trọn số
tiền, nhưng không dám; vì Thọ đã báo cáo với công an rằng Tuấn phá hoại kinh tế
“nhà nước” bằng cách bảo người nước ngoài đừng mua tôm cá xuất cảng từ Việt-Nam.
Lực nghĩ chàng nên nói cho Thọ biết về một phần – Lực giấu phần còn lại để hưởng
một mình – số tiền chị của Tuấn gửi về lo cho Tuấn. Thọ tham tiền, sẽ không gây
trở ngại khi Lực thả Tuấn.
Tuấn hiền lành, lại điển trai hơn Thọ, và có tý văn nghệ nên
được nhiều người quý mến. Thọ không mặc cảm về những điều đó; nhưng Thọ lại khó
chịu và cảm thấy bất an khi sếp lớn của Thọ nhiều lần ngõ lời khen ngợi Tuấn.
Thọ ngại Thọ sẽ mất chức về tay Tuấn. Thọ tìm nhiều cơ hội đề nghị sếp lớn cho
Tuấn nghỉ việc, nhưng sếp lớn bảo ông ta cần những người như Tuấn. Ðến khi Phổ
-- bạn của Thọ và Tuấn -- trong khi chở giùm Tuấn về nhà, nghe cuộc điện đàm giữa
Tuấn và người chị ở nước ngoài, về mách
lại Thọ thì Thọ có lý do và cơ hội “loại” Tuấn ra khỏi công ty. Thọ kín
đáo báo cáo công an và ghi tên Phổ là nhân chứng. Tuấn vào tù mà Tuấn không hề
nghi ngờ Thọ.
Gặp Lực, Thọ thỏa thuận nhận số tiền do Lực trao rồi hai người
chở nhau đi ăn uống no say. Lúc bắt tay từ giã Lực, giọng Thọ nhừa nhựa vì rượu:
“Cứ thả thằng Tuấn đi, tao có cách khác
ngoạn mục hơn nhiều.”
Sau khi Tuấn được thả, Thọ đến tận nhà thăm và rủ Tuấn đi ăn
mừng. Tuấn vui vẻ nhận lời, không nghi ngờ gì cả.
Những chi tiết kể trên về sau tôi mới được biết. Còn khi tôi
đang kiểm soát lại lần cuối những thứ lặt vặt để sáng hôm sau ra phi trường, khởi
hành chuyến du lịch này thì tôi nhận được điện thoại từ Việt-Nam. Lộc cho biết
Tuấn được thả buổi trưa thì chiều Thọ ghé thăm rồi chở Tuấn đi ăn mừng. Tối Thọ
đưa Tuấn về. Tuấn say khướt, đại tiện, tiểu tiện ngay trên chiếu. Cơ thể của Tuấn
tím dần và Tuấn không nói được! Đem Tuấn đến bệnh xá, y tá bắt mạch, bảo Tuấn bị
trúng độc nặng lắm, không cứu được!
Nghe Lộc vừa khóc vừa kể về Tuấn, tôi lạnh toát người, đứng
trơ, không khóc được – và cũng không thể đình hoản chuyến du lịch này để ở nhà
khóc em!
Hôm đó tôi không khóc được. Nhưng, giây phút trên sân thượng
của chiếc du thuyền nhỏ neo bên bờ sông Nile, tôi âm thầm lấy khăn giấy thấm
nhanh những giọt nước mắt muộn màng!
Những áng mây rực rỡ lúc nãy không còn nữa, nhưng niềm
thương nhớ Tuấn cứ còn đọng mãi trong lòng tôi. Nhìn về hướng mặt trời lặn, tôi
không biết chính xác mặt trời có lặn về phía quê tôi hay không; nhưng tôi biết,
trên giải đất đầy oan khiêng và khổ nạn đó, Tuấn không phải là người đầu tiên
và Tuấn cũng chẳng phải là người cuối cùng phải chết vì tính dễ tin, lòng thành thật và sự thẳng thắn
của mình!
Nhìn ra xa, trong ánh hoàng hôn, dòng nước trong mát của
sông Nile vẫn lặng lờ xuôi ra biển, nhưng hồn tôi lại vượt không gian tìm về chốn
xưa; nơi đó, cũng như trong lòng tôi, tiếng hát của Tuấn lúc nào cũng chơi vơi,
lạc lõng, buồn buồn.
Tôi thương nhớ Tuấn như thương nhớ gốc phượng già trước ngôi
nhà xưa của Ba Má tôi; như thương nhớ một phần đời thơ ấu của tôi; như thương
nhớ tiếng đàn Accordéon của tôi; như thương nhớ những buổi tối hai chị em cùng
hát nghêu ngao trên sân thượng nhà tôi. “Yesterday,
all my troubles seemed so far away. Now it looks as though they’re here to
stay....”. (1)
Troubles are here to
stay mà Tuấn thì đã far away, đã
vút cao – cao hơn tất cả những nghịch lý, những hèn mọn, những đau thương, những
uất hờn và thù hận trong cuộc sống này! “...Oh,
yesterday came suddenly...”. (2)
1 và 2 - Yesterday, The Beatle.
Điệp Mỹ Linh
http://www.diepmylinh.com