Tôi trở về Nhà Từ Đường sau 15 năm đi xa. Thật ra con số 15 năm là không
đúng. Nó chỉ đúng tính theo ngày tôi bỏ nước ra đi, chứ không đúng tính từ ngày
tôi trở lại Nhà. Hồi còn ở trong nước chẳng mấy khi tôi lên ngôi Nhà Chung này.
Tôi thấy mình lúc nào cũng bị cái hiện tại lôi cuốn theo như một hạt bụi giữa
cơn lốc. Học hành, thi cử, bạn bè, nghề nghiệp, chiến tranh, tình yêu…. Hết Đà
Lạt rồi Sài Gòn. Giữa hai thành phố ấy còn có Huế, Cần Thơ, Mỹ Tho, Rạch Giá, U
Minh, Cái Sắn…Trong cái mớ chằng chịt về con người và địa danh ấy, tôi thấy
mình như một người bị quấn cuốn giữa những chiếc vòi của con bạch tuộc.
A, anh hỏi tôi chuyện chiến tranh hả? Chiến tranh? Ừ, thời của tôi ai mà
chẳng bị chiến tranh chi phối. Tuổi tôi chỉ là tuổi bản lề, thời của ông anh
tôi là một cuộc chiến, và thời kề cận tôi là tiếp tục một cuộc chiến sắp tàn.
Tuổi trẻ tôi cũng thở cái không khí sặc sụa mùi tử khí. May sao, thế hệ kế đó
vừa mặc bộ treillis vào người thì chiến tranh cũng vừa kịp kết thúc. Anh nói
anh không biết chiến tranh hả? Năm nay anh bao nhiêu rồi? Mới hai mươi bảy à?
Phải. Anh nói anh mới hai mươi bảy, có nghĩa là anh quá trẻ để biết cuộc chiến
Việt Nam.
Anh nói lúc mẹ bế anh xuống tàu ở Bến Chương Dương trong một ngày Tháng Tư
1975, anh chưa đầy tháng tuổi phải không? Ừ. Tuổi ấy thì biết gì? Nhưng anh có
biết là anh đã chào đời trong những giây phút của một cuộc chiến sắp tàn – chứ
vẫn chưa tàn không? Anh có biết là mẹ anh bế anh chạy trong khi ven đô súng còn
nổ và cả thành phố Sài Gòn chìm trong cơn hỗn loạn không? Còn bây giờ? Trên cái
đất nước tưởng là yên ổn này, hải đảo của hòa bình, thiên đàng của hoan lạc, có
thật là chúng ta đang đứng bên ngoài cuộc chiến không? Sau cái vụ 911, nước Mỹ
có thật sự bình yên không? Còn tình hình Trung Đông hiện nay, vùng đất ngày nào
cũng khét lẹt thuốc súng, ngày nào cũng có khủng bố và người chết. Và Iraq? Và
bán đảo Triều Tiên? Và trước đó không lâu là Afghanistan. Liệu nước Mỹ có tấn
công Iraq không? Liệu nước Mỹ có còn bị khủng bố chơi những đòn nặng như vụ Tháp
đôi ở New York nữa hay không? Và liệu rồi đây con cái của anh có phải ra trận
không?
Chiến tranh là ngu dốt. Nhưng liệu khi người ta muốn hòa bình thì có hòa
bình được không?
Có lẽ, không một người Việt Nam nào không có kinh nghiệm về chiến tranh. Sài
Gòn hay Hà Nội có chiến tranh theo cách riêng của nó. Những cuộc xuống đường.
Những trái hỏa châu chiếu sáng khu ngoại ô hằng đêm. Lựu đạn cay trên đường
phố. Mìn nổ ở một quán ăn. Bom phá sập một cao ốc. Và Hà Nội những ngày hoảng
hốt vì bom Mỹ. Những lo sợ của người dân trước cuộc chiến leo thang. Đường mòn
Hồ Chí Minh. Đường Trường Sơn “ào ào lá đổ”… Đâu cần phải nhích chân ra khỏi
vòng đai thành phố người ta mới biết được thế nào là khói lửa và súng đạn.
Mới năm tuổi, tôi đã biết thế nào là chiến tranh. Những người lính Nhật đã
trói Cha tôi bắt ông đi đâu. Má tôi bồng em tôi đi tìm chồng. Anh tôi đã vào
rừng đi kháng chiến. Tôi đi suốt từ căn nhà này đến căn nhà khác gõ cửa tìm mẹ
và xin ăn. Đôi khi người ta cho ăn [đôi khi người ta đuổi đi] … Mỗi ngày tôi đi
xa vào các làng quê. Tôi có khóc nhiều không lúc đó? Chiến tranh chỉ có chết
chóc và đói khổ. Người ta đói khổ đã nhiều, người ta không muốn gánh thêm một
miệng ăn và nổi khổ nào nữa, dù rất nhỏ. Tôi đi mãi, từ nhà này sang nhà khác,
từ làng này sang làng khác.
Trong một cuộc hành quân của lính Pháp, một người lính già Lê Dương nhặt
được tôi ngoài ruộng mang về nuôi. Đó là thời gian tôi có những phút giây gần
với súng đạn và cận kề chết chóc hơn, bởi vì cha nuôi tôi – mà tôi gọi là papa
Chopin – là một sĩ quan phụ trách vũ khí và cả bataillon luôn luôn di động. Cho
đến ngày ông chết trong một trận phục kích, tôi lại bơ vơ. May sao, một người
thông ngôn giúp tôi tìm lại được gia đình. Một cuộc trùng phùng đầy nước mắt.
Má tôi ôm tôi khóc rấm rức. “Má tưởng không bao giờ gặp lại con.” Mái tóc bà có
những sợi bạc. Hai gò má hóp. Hai đứa em gái tôi ngồi hai bên cũng khóc. Sao
hồi đó tôi không khóc, tôi nhớ như vậy! Đôi mắt má tôi luôn nheo lại, như lúc
nào cũng cười, nhưng là một nụ cười buồn bã, và cái dáng đi của má sao mà tất
bật, vất vả. Quê má tôi xa hơn quê cha tôi nhiều. Đó là khoảng cách của hai
thành phố. Hai ngọn đèo. Hai dân tộc.
Tại sao hai dân tộc? Dì tôi – bà chị của má tôi – như những người Hoa trong
vùng cắt tóc bôm-bê – nói tiếng Hoa và ở trong ngôi nhà gạch rộng thuộc loại dư
ăn thừa để trong cái thị trấn heo hút nghèo nàn. Anh Bảy, con dì tôi, cao lớn
khỏe mạnh, tóc quăn, có một chiếc răng vàng, làm chủ một tiệm chạp phô, nói
tiếng Việt bằng cái giọng lơ lớ. Thỉnh thoảng, tôi nghe anh nói tiếng Hoa với
má tôi, thứ tiếng mà bà không bao giờ nói với các con một lần nào.
Tôi trở về gặp mẹ, nhưng không gặp Cha. Cha tôi ở đâu? Bà nói suốt mấy năm
nay, ông đã đi tìm tôi và giờ đây, ông đang ở trong một căn chòi dưới chân Hòn
Lớn, một ngọn núi khá cao, cách xa nhà cả một ngày đường. Anh tôi thời đó như
những thanh niên cùng lứa tuổi đã vào chiến khu chống Pháp. Và mãi đến khi ông
Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống cha tôi mới trở về. Anh tôi đi Thủ Đức. Nhiều
năm sau tôi rời Nha Trang vào Sài Gòn học tiếp… Chiến tranh có lúc như lắng
xuống, nhưng có lúc ồ ạt… Chiến tranh là không khí của thành phố, chiến trận là
không khí của thôn quê. Bạn tôi, nhiều đứa hôm trước còn ngồi với tôi nói nói
cười cười, tháng sau, tuần sau, hôm sau đã không còn thấy mặt nữa, không bao
giờ trở về nữa.
Trở về Việt Nam sau 15 năm, tôi quyết định trở lại nhà Từ Đường. Tại sao à?
Bởi vì giờ đây, mộ Cha tôi, và mộ Anh tôi đã dời về đó. Hai ngôi mộ song đôi,
nằm giữa một vườn cây xanh lá. Trong một buổi sáng tháng Tám nắng vừa lên, tôi
ngồi bên mộ Cha và Anh, nghe tiếng chim hót trong bụi cây, tưởng như thấy lại
khuôn mặt khắc khổ của Cha, cái vẻ lặng lẽ lầm lì suốt ngày không nói một lời
của ông. Và khi ông phải nói, tôi nghe rõ cái âm thanh sấm sét mang theo hơi
rượu nồng nặc từ miệng ông phả ra trong cơn bùng nổ của một hỏa diệm sơn. Tôi
cũng thấy lại anh tôi, người đàn ông to lớn, khỏe mạnh, cười to, ăn mạnh, nói
lớn, lúc nào cũng giam chật trong bộ quần áo trận. Một người đàn ông khỏe mạnh
và quyết liệt, nhưng cũng tình cảm và lãng mạn biết là chừng nào. Anh yêu những
người lính của anh như anh yêu gia đình mình. Và anh yêu những người nghèo khổ
khốn cùng như anh yêu chính bản thân anh. Tôi chưa thấy ai có một trái tim
phóng khoáng và quảng đại như anh. Ba đứa em của anh, không một đứa nào có được
một chút lòng quảng đại và tính lãng mạn của anh.
Mộ Anh nằm cạnh mộ Cha, dưới bóng mát những tàng cây chôm chôm. Đứa con trai
lớn của anh từ trại tù cải tạo về, được nhà nước báo cho biết khu nghĩa trang
trên lưng một ngọn đồi gần đèo Rù Rì phải giải tỏa, đã mang hài cốt ba cháu về
chôn cạnh mộ ông nội trong vườn Nhà Từ Đường. Còn hài cốt má, vốn được chôn cất
cạnh bên đứa con trai, sau cùng theo ý nguyện của bà phải đưa về quê ngoại để
nằm bên cạnh những người chị em của bà. Khi sống Cha và Má tôi là hai người
khắc khẩu, và lúc ra đi, mỗi người trở lại với nơi chốn riêng tư của mình.
Sau 15 năm trở lại ngôi Nhà Từ Đường, thăm lại mộ Cha và mộ Anh, tôi mới
nhìn ra cái ngôi nhà đầy ánh nắng, lúc nào cũng ấm tiếng cười kia nay sao mà
lạnh lẽo!
Chiến tranh đâu còn nữa. Nhưng cái gì làm cho ngôi nhà kia âm u, khu vườn
cây ăn trái kia trở nên buồn bã?
Ngôi Nhà Từ Đường ấy, mặc dù vẫn còn cái sân tráng xi măng nằm dưới dàn cây
thanh long, và vườn sau nhà là những cây mãng cầu Xiêm, cam và bưởi, tôi nhìn
thấy nó đang xuống cấp. Cái vẻ lạnh lùng và ảm đạm của ngôi nhà quạnh hiu không
còn chút sức sống như thân thể của một người già máu đã rút dần ra khỏi thân
xác, chờ ngày chia tay…
Ông chú bà thím tôi cũng đã ra đi. Những người con của chú thím cũng đã
người ở Úc, người ở Pháp. Ngôi nhà bây giờ trao lại cho hai vợ chồng người cháu
gái, người phụ nữ trẻ đứng trước mặt tôi phải nhắc mãi tôi mới nhớ ra ngày xưa
chị chính là con bé tóc ngắn, mặt mũi trắng trẻo xinh đẹp đứng thập thò bên
chại nước mưa hái cho tôi những chùm chôm chôm.
Chiến tranh Việt Nam đã qua rồi. [Qua thật chưa?] Cha tôi nếu còn sống, chắc
thuốc lá và rượu cũng sẽ giết ông. Và anh tôi, một người cương trực, ghét sự
ác, yêu cái thiện, người tranh đấu không hề mỏi mệt cho những bất công xã hội.
Và một con người như thế vốn là một sinh vật hiếm hoi trong thế giới loài
người.
Này anh bạn, anh có bao giờ nhìn thấy cảnh một chiếc xe nước to tưới cho cả
một cánh đồng chưa? Chưa bao giờ thấy à? Nếu anh có dịp xem phim Chúng Tôi Muốn
Sống anh sẽ thấy xe nước đó. Nó nằm trên thửa ruộng thuộc Nhà Từ Đường của dòng
họ nhà tôi.
Từ thành phố Nha Trang, muốn lên Nhà Từ Đường của họ nhà tôi nếu đi xe đò,
cũng phải mất cả tiếng đồng hồ. Xe bỏ anh ở một góc đường đầy ổ gà và bụi. Anh
phải xuống xe đi bộ một quãng nữa. Băng qua những bờ ruộng và sau cùng là một
con đường mòn nhỏ giữa những hàng rào những bụi cây. Tốt nhất là anh nên đi xe
gắn máy hay xe đạp.
Hồi trước, người trông coi Nhà Từ Đường là chú thím tôi. Ông là một người
đàn ông nho nhả, khuôn mặt trắng hồng, môi đỏ, dáng dấp nhẹ nhàng như một thầy
đồ; còn bà thím tôi là một phụ nữ cao lớn, da ngâm đen, khuôn mặt có những nét
thô cứng. Bà có vẻ khó tính, nhưng là một phụ nữ tốt bụng và quán xuyến. Tôi có
cảm tưởng tất cả chuyện trong nhà ngoài ngõ đều do một bàn tay bà. Ngôi Nhà Từ
Đường ba gian. Những cây cột to lên nước đen bóng. Mái ngói đỏ, cửa lớn rộng,
chạm trỗ những hoa văn kỳ lạ. Có lần chú bảo tôi, lẽ ra cha mày phải là người
trông coi Nhà Từ Đường, nhưng ổng đã không làm công việc đó. Chú không nói cha
tôi bỏ làng ra đi từ hồi nào? Ông giang hồ bốn phương tám hướng, trong làng từ
lâu không ai nghe tên ông. Ông quen má tôi và cưới bà trong trường hợp nào, và
tại sao ông không đưa bà về quê, không ai trong nhà biết chuyện đó. Tôi tưởng tượng
ra cảnh một người đàn ông giang hồ, một hôm lạc vào một thị trấn nhỏ, gặp cô
thiếu nữ xinh đẹp con một nhà buôn người Hoa, anh chàng phải lòng nàng dừng
chân ở lại. Nhà gái chắc là không ưng chàng rễ vì nó là người Ố Nàm, và đặc
biệt nó không có vẻ gì là con nhà làm ăn buôn bán. Chắc má tôi phải yêu lắm sự
ngang tàng của ông mới chịu lấy ông. Và bên ngoại tôi chắc cũng không cho của
hồi môn. Chúng mày yêu nhau thì ráng mà sống với nhau như thế cho biết đá biết
vàng. Như thế Cha tôi không đưa Má tôi về Nhà Từ Đường. Hai người quyết sống
với nhau như thế – bất cần mọi thứ trên đời – coi có chết con giáp nào không.
Không ai nói cha tôi là con một ông Kinh lược của triều đình. Cũng không ai nói
với tôi rằng Má tôi con một chức sắc ngoại giao người Bắc kinh làm việc ở Luân
Đôn vì đâu lưu lạc đến một vùng quê nghèo khổ nhất miền Trung Việt Nam làm ăn
buôn bán?
Phải chăng đó chỉ là một câu chuyện hoang tưởng do một đầu óc không được
khỏe mạnh của tôi bịa đặt ra.
Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi trở lại thăm nhà, thăm lại khu vườn
nơi chôn cất Cha tôi và Anh tôi. Hai ngôi mộ nằm sát nhau, được xây cất rất sơ
sài. Vôi hồ gạch đã vữa nát. Đất giữa mộ đã chìm xuống, lá cây rơi ngập úa nhão
nhớp nhúa không ai dọn dẹp. Những dòng chữ trên mộ bia màu đỏ kia đã phai. Tôi
đọc được ngày sanh ngày mất của Cha và Anh. Tôi tưởng tượng mỗi ngày Cha và Anh
trò chuyện với nhau như hai người bạn. Có lẽ Anh sẽ là người được Cha tâm sự
nhiều nhất. Anh là người biết rõ mối tình của Cha, biết rõ người phụ nữ xinh
đẹp gốc Hoa kia vì sao chịu lấy một anh chàng Việt Nam giang hồ không một đồng
xu dính túi, đi lang thang như một tên du thủ du thực, không ngày mai. Và tôi
tưởng tượng một ngày nào đó khi tôi ra đi, liệu tôi có được một chỗ bên cạnh
Cha và Anh tôi không? Thật ra tôi có được cái quyền ấy không? Khi người ta
không làm được điều chi tốt đẹp trong cuộc sống, người ta không thể đòi cuộc
sống một điều chi hết. Khi người ta không nợ nần nhau, người ta không phải trả.
Mười lăm năm sau khi ra khỏi Việt Nam, tôi đã trở về thăm lại ngôi nhà xưa,
ngôi nhà mà lẽ ra Cha tôi phải ngồi đó thay mặt cho cả một dòng họ, nhưng ông
đã bỏ đi giang hồ khi ông vừa mới lớn. Ông đã xuống tàu viễn dương đi khắp năm
châu bốn bể như một thủy thủ, đã sống ở Pháp những năm của tuổi trẻ, đã có con với
một người phụ nữ bản xứ, đã đi lính Pháp, đã bị Nhật bắt, đã vào rừng sống như
một Lỗ Bình Sơn thời chiến, đã yêu một phụ nữ Trung Hoa, đã đẻ ra một bầy con,
và sau cùng đã trở về ngôi nhà của tổ tiên khi hai tay ông đã buông xuôi….
Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ.
Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ,
tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào.
Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bị xóa khỏi bản
đồ của trái tim.
Tôi nhớ những trận mưa bão thổi mù trời, nước dội xuống ngập thành phố,
những hàng cây trụ điện gẫy gục, và sóng biển thổi táp lên tận nhà hàng
Frégate, nơi có cô bé đầm lai tên Odette chờ tôi mỗi khi tan lớp ra về.
Tôi nhớ bà Dì của bạn T.T.L. người thường xuyên cho tôi được đến nhà hàng
của Dì “ăn cho bỏ những ngày cơ cực”. Tôi nhớ tôi là đứa học trò không có sách
cầm tay, đi lang thang từ nhà ông chú này đến nhà bà cô khác. Ngồi ăn một mình
dưới ngọn đèn điện tối ám hơn cả ngọn nến leo lắt nhất của ai đốt trên ngôi mộ
nghĩa địa. Tôi là một đứa trẻ lớn lên không có tình yêu. Và tôi hiểu tại sao
tôi yêu tất cả mọi người, kể cả những người không yêu tôi.
Mười lăm năm sau trở lại thăm thành phố, nơi đã nhìn tôi lớn lên như một thứ
cỏ cây, tôi muốn tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao tôi đã không đập phá nổi
loạn thời gian đó? Tại sao tôi đã không nắm dao đâm thẳng vào những kẻ quyền
thế hà hiếp kẻ khốn cùng? Tại sao tôi đã không cầm súng lia vào cái đám hãnh tiến
khốn nạn vẫn thường vênh váo, dửng dưng trước nỗi đau của người khác? Tại sao
tôi đã không cho nổ tan xác cái bọn phè phỡn trong khi những bà mẹ những bà chị
những người em còng lưng trên những gánh hàng rong suốt ngày, suốt đêm, suốt
đời vẫn không đủ tiền nuôi nổi một miệng ăn…Tại sao tôi đã không là một tên du
đãng?
Mười lăm năm sau ngày ra đi khỏi nước, tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy
không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh
phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ
một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về … Trở về nhưng không biết về đâu.
Nhà ông chú hay nhà bà cô. Và ngôi nhà nào sẽ mở cửa cho tôi bước chân vào?
Nguyễn Xuân Hoàng