Trong suốt cuộc chiến Việt Nam, quan điểm chính trị và quân
sự của Mao Trạch Đông thay đổi nhiều lần. Từ một Mao chủ hòa sau hiệp định
Geneva trở thành một Mao chủ chiến trong giai đoạn đầu của cuộc chiến vào thập
niên 1960 và lần nữa trở về với Mao chủ hòa sau Thông Cáo Chung Thượng Hải ngày
27 tháng Hai 1972.
Mao và lý luận “chiến tranh giải phóng dân tộc”
Phát xuất từ quan điểm cố hữu “lấy nông thôn bao vây thành thị” và cũng vì
không đủ khả năng để trực tiếp đương đầu với Mỹ, Mao chủ trương gây khó khăn
cho Mỹ, kẻ thù chính của Trung Cộng trong giai đoạn từ 1949 đến 1972, qua hình
thức chiến tranh cách mạng tại bất cứ quốc gia nào Mỹ đang có quyền lợi hay có
thể tạo ảnh hưởng.
Trong dịp tiếp phái đoàn báo chí Chile ngày 23 tháng Sáu
1964, Mao tuyên bố: “Chúng tôi chống chiến tranh, nhưng chúng tôi ủng hộ các cuộc
chiến chống chủ nghĩa đế quốc do các dân tộc bị áp bức phát động”. Từ Phi Châu,
Nam Mỹ, và Á Châu, Mao tích cực yểm trợ võ khí và cơ sở lý luận cho các phong
trào “giải phóng dân tộc”, chống “đế quốc thực dân”. Các phong trào Maoist lan
rộng khắp nơi, từ Nepal bên rặng Hy Mã Lạp Sơn ở Á Châu cho đến tận những cánh
đồng ở Ecuador, Nam Mỹ.
Trong mắt Mao, ba “anh hùng” được xem là những lãnh tụ tiêu
biểu của phong trào “giải phóng dân tộc” là Hồ Chí Minh tại Á Châu, Fidel
Castro tại Nam Mỹ, và Ben Bella tại Phi Châu. Trong số ba “anh hùng” đó, Hồ Chí
Minh và đảng CSVN vì lý do ý thức hệ và địa lý chính trị, được Mao quan tâm nhất
và bằng mọi giá phải nắm chặt trong tay.
Khi phong trào giải thực bước vào giai đoạn chót vào cuối thập
niên 1960, hầu hết các nước thuộc địa đã được trao trả quyền độc lập hoàn toàn
hay độc lập trong khuôn khổ thịnh vượng chung. Hai trong số ba nước tiên phong
gồm Algeria và Cuba nghiêng về phía Liên Xô, Mao chỉ còn lại một đàn em trung
thành duy nhất ở Á Châu là CS Bắc Việt. Mao tìm mọi cách để kiểm soát CSVN về mọi
mặt từ giáo dục tuyên truyền, đường lối lãnh đạo cho đến kinh tế, văn hóa, xã hội.
Mao và quan điểm về chiến tranh Việt Nam
- Sau hiệp định Geneva 1954 đến 1964: Trung Cộng là
nguồn cung cấp duy nhất cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả lý
luận tư tưởng. Nói chung đời sống từ vật chất đến tinh thần của đảng CSVN lệ
thuộc sâu xa vào đảng CSTQ. Khắp miền Bắc, từ công sở đến gia đình, hình ảnh của
Mao được đặt trên mức linh thiêng.
Hồ Chí Minh và lãnh đạo CSVN đã thi hành một cách nghiêm chỉnh
hầu hết các mệnh lệnh đầy tai họa từ Mao và các chính sách phi nhân này đã dẫn
đến cái chết oan uổng của nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam vô tội qua các chiến
dịch Cải Cách Ruộng Đất. Sau tổn thất nặng nề trong chiến tranh Triều Tiên, Mao
có ý định tập trung vào các chính sách đối nội, và cũng muốn CSVN đặt thứ tự ưu
tiên vào việc CS hóa xã hội miền Bắc trước. Tuy nhiên, để đồng thuận với đảng
CSVN anh em, Mao cũng đã tích cực yểm trợ quân sự trong chủ trương CS hóa Việt
Nam bằng võ lực. Tổng số viện trợ quân sự của Trung Cộng trong giai đoạn này gồm
320 triệu yuan, 270 ngàn súng ngắn, 10 ngàn pháo, 200 triệu viên đạn, 2.02 triệu
đạn pháo, 1 ngàn xe tải, 25 máy bay, 1.18 triệu bộ quân phuc.
- 1964 đến 1965: Thái độ của Mao đối với chiến tranh
trở nên kiên quyết hơn. Cuối năm 1964, Hồ Chí Minh chủ trương cân bằng ảnh hưởng
giữa Liên Xô và Trung Cộng mong nhận được viện trợ của cả hai để theo đuổi mục
tiêu CS hóa toàn cõi Việt Nam. Điều này làm Mao lo lắng. Mao sai Đặng Tiểu
Bình, lúc đó là Tổng Bí Thư đảng CSTQ, bí mật thăm Hà Nội và hứa viện trợ Hà Nội
một tỉ yuan nếu Hà Nội từ chối viện trợ của Liên Xô. Ngoài ra, Mao cũng cứng rắn
chống lại mọi sáng kiến chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng phương tiện đàm
phán. Mao nói thẳng với Kosygin, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô, trong
chuyến viếng thăm của ông ta tới Bắc Kinh ngày 11 tháng Hai, 1965, “Liên Xô
không được dùng Việt Nam để mặc cả với Mỹ”. Mao cũng từ chối đề nghị của Liên
Xô về một phiên họp thượng đỉnh giữa ba đảng CS để thảo luận về đường lối chiến
tranh Việt Nam. Mao xem đảng CSVN chẳng khác gì một xứ bộ của đảng CSTQ.
- 1965 đến 1972: Khi chiến tranh Việt Nam gia tăng cường
độ, Lê Duẩn, trưởng phái đoàn đại diện đảng CSVN, trong chuyến viếng thăm Trung
Cộng tháng Tư 1965, đã chính thức yêu cầu Mao gởi quân sang Việt Nam. Đáp lại lời
thỉnh cầu của Lê Duẩn, Mao gia tăng hàng loạt viện trợ quân sự cho CS Bắc Việt.
Tháng Sáu 1965, các sư đoàn Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào miền Bắc
Việt Nam. Đến tháng Ba 1968, tổng số quân Trung Cộng có mặt tại miền Bắc là 320
ngàn quân với tất cả phương tiện yểm trợ và trang bị vũ khí đầy đủ.
Các cuộc dội bom ồ ạt của Mỹ lên miền Bắc gây tổn hại trầm trọng
trong mọi lãnh vực kinh tế, quốc phòng của CS Bắc Việt. Cùng lúc đó, Liên Xô,
các nước CS Đông Âu, và đồng minh của Mỹ Tây Âu khuyến khích CS Bắc Việt và Mỹ
ngồi vào bàn hội nghị để tìm cách giải quyết chiến tranh Việt Nam. CS Bắc Việt
đồng ý. Chủ trương của lãnh đạo CS Bắc Việt lúc đó là vừa đánh vừa đàm để tận dụng
mọi cơ hội có lợi nhất cho mục đích tối hậu CS hóa Việt Nam và đồng thời dùng
bàn hội nghị để mặc cả Mỹ giảm mức độ ném bom. Ngoài ra, Hồ Chí Minh lo ngại Mỹ
sẽ tăng cường thêm 100 ngàn quân tại miền Nam như y đã trao đổi với Mao vào
tháng Sáu 1965.
Mao thì khác. Mao chống đối phương pháp thương thuyết và chủ
trương kéo dài chiến tranh càng lâu càng tốt. Chủ trương kéo dài chiến tranh của
Mao phát xuất từ ba lý do: (1) Mao muốn tiếp tục làm tiêu hao khả năng của Mỹ,
(2) chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Mao trong thế giới thứ ba, (3) dùng chiêu bài
chống đế quốc xâm lược để củng cố vai trò cai trị của Mao tại lục địa Trung Quốc.
- Thông Cáo Chung Thượng Hải 1972 đến 30-4-1975: Quan
hệ giữa Trung Cộng và Liên Xô ngày càng xấu và khó có cơ hội hòa giải giữa hai
nước CS hàng đầu. Chỉ riêng năm 1969, đã có tới 400 vụ đụng độ dọc biên giới.
Đáp lại ý định rút lui khỏi Việt Nam của TT Richard Nixon, Mao nghĩ đã đến lúc
phải bắt tay với Mỹ để tránh bị bao vây cả hai mặt bằng hai kẻ thù mạnh nhất
nhì trên thế giới. Sau chuyến viếng thăm Trung Cộng của TT Richard Nixon cuối
tháng Hai 1972, tới phiên Mao cổ võ một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến Việt
Nam mà trước đó không lâu ông ta đã chống lại.
Mao và “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”
Hôm nay cả thế giới đều biết những tổ chức được gọi là “Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” hay “Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam” đều chỉ là các bộ phận thuộc đảng bộ miền Nam do Trung Ương Cục
Miền Nam, tên mới của Xứ ủy Nam Bộ đảng Lao Động, lãnh đạo.
Tổ chức gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam” (MTDTGPMNVN) hay thường được gọi tắt là “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” được
thành lập ngày 20 tháng 12, 1960 với mục đích: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu
tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô
Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân
chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện
dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình
thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á
và thế giới.”
Bí thư Trung Ương Cục đầu tiên là Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ
chính tri đảng Lao Động Việt Nam. Tháng 10 năm 1964, nhu cầu quân sự gia tăng,
Nguyễn Chí Thanh được điều vào Nam làm Bí thư Trung ương Cục kiêm Bí thư Quân ủy
Miền. Từ 1967 đến 1975, Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Phạm
Hùng, Ủy viên Bộ chính trị kiêm Chính ủy các lực lượng vũ trang miền Nam. Đầu
năm 1961, “Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam” cũng được Trung Ương Cục Miền Nam
thành lập. Dù chỉ trên danh nghĩa, “quân giải phóng” này lẽ ra phải trực thuôc
“MTDTGPMNVN”, tuy nhiên, theo nội dung chỉ thị của Tổng Quân ủy CSVN tháng 1
năm 1961 nhấn mạnh: “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân
đội nhân dân Việt Nam, do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo”.
Đáp ứng nhu cầu tạo thế đối trọng với chính phủ VNCH, ngày 8
tháng 6, 1969, Trung Ương Cục thành lập thêm một tổ chức mới gọi là “Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do Huỳnh Tấn Phát, đảng viên CS
từ thời 1945 làm Chủ tịch và Nguyễn Thị Bình làm Bộ trưởng Ngoại Giao.
Nhân dịp đánh dấu 40 năm hiệp định Paris, các cơ quan tuyên
truyền của đảng ca ngợi bà Bình là “nhà ngoại giao sáng tạo linh hoạt”. Điều đó
không đúng. Về nguyên tắc lãnh đạo, vai trò của “Chính phủ Lâm thời” trong đó
có “Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thị Bình” chỉ là mặt nổi đối ngoại, tất cả lời
ăn tiếng nói của bà đều được chỉ thị từ đảng ủy bên trong, đứng đầu là Lê Đức
Thọ. Chắc bà Bình cũng phải thừa nhận, dưới sự lãnh đạo của đảng CS, mọi “sáng
tạo linh hoạt” cá nhân là những điều cấm kỵ.
Dù sao, trước 1975, nhờ che đậy dưới mục đích rất nhân bản
và lương thiện “dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc,
tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách
trung lập”, “MTDTGPMNVN” đã thu hút khá đông “trí thức” miền Nam về phía họ và
nhanh chóng làm suy yếu cơ chế chính trị dân chủ còn rất non trẻ ở miền Nam.
- Mao ve vãn các lãnh đạo “Mặt trận Giải phóng miền Nam
Việt Nam”: Không ai hiểu con bằng cha mẹ, tác giả của sách vở mà CSVN dùng
là của Mao và đường lối CSVN dùng cũng là của Mao đã từng áp dụng tại Trung Quốc
như trường hợp Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, gọi tắt là
Chính Hiệp sau 1949. Chủ tịch của các Hiệp Chính này không ai khác hơn là những
lãnh đạo tối cao của đảng. Mao Trạch Đông chủ tịch khóa I (1949 – 1954), Chu Ân
Lai chủ tịch các khóa II, III, IV (1954 – 1976), Đặng Tiểu Bình chủ tịch khóa V
(1978 -1983) Đặng Dĩnh Siêu chủ tịch khóa VI (1983 – 1988), Lý Tiên Niệm chủ tịch
khóa VII (1988 – 1992) v.v…
Qua kinh nghiệm lãnh đạo Chính Hiệp tại Trung Quốc, Mao biết
dù sao vẫn còn tồn tại một thành phần ngây thơ trong hàng ngũ “MTDTGPMNVN” nên
sau Thông Cáo Chung Thượng Hải, Mao tìm cách khai thác và ve vãn hàng ngũ này.
Điều Mao dự đoán không sai nhưng không đủ thế và lực để tạo ra ảnh hưởng lớn.
Sau 1975 các thành phần ngây thơ này tập trung dưới hình thức Câu Lạc Bộ Kháng
Chiến và nhiều trong số họ đã bị bắt.
Mao tiếp Nguyễn Thị Bình tại Bắc Kinh ngày 29 tháng Hai 1972
và nói với bà Bình “Chúng ta thuộc vào một gia đình. Bắc Việt, Nam Việt, Đông
Dương, Triều Tiên cùng một gia đình và chúng ta ủng hộ lẫn nhau. Nếu các bạn
thành công tại hội nghị Paris, không chỉ Nam Việt mà Bắc Việt cũng đạt đến mức
bình thường hóa với Mỹ ở mức độ nào đó”.
Tháng 11, 1973, Nguyễn Hữu Thọ và phái đoàn MTDTGPMNVN thăm
Bắc Kinh. Phái đoàn của y được Mao tiếp đón nồng nhiệt và hứa các khoản viện trợ
không hoàn trả. Các thành viên trong phái đoàn MTDTGPMNVN ngạc nhiên trước cách
đối xử khác biệt của Mao. Trương Như Tảng, Bộ trưởng Tư Pháp của “Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, kể lại trong vài ngày đầu thăm
viếng Bắc Kinh, các lãnh đạo Bắc Kinh tưởng Trương Như Tảng là người của Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên tỏ ra lạnh nhạt, nhưng khi biết y là thành phần của
phái đoàn Nguyễn Hữu Thọ, họ đã trở nên niềm nở.
- Mao và chủ trương hai nước CS Việt Nam: Chiều ngày
11 tháng 8, 1975, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Daniel P. Moynihan, hai lần
đưa tay phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của cả Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa lẫn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sau khi đơn gia nhập của Nam Hàn bị bác bỏ
tuần trước đó. Với lãnh đạo CSVN, việc hai miền CS Việt Nam cùng tham gia vào
LHQ chỉ là một chiến thuật đối ngoại về mặt nhà nước, nhằm “hợp thức hóa” việc
cưỡng chiếm miền Nam của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và gia tăng áp lực buộc Hoa
Kỳ phải viện trợ để “tái thiết Việt Nam”. Về mặt lãnh đạo, chỉ do một đảng CSVN
mà thôi.
Mao biết khuynh hướng thân Liên Xô trong lãnh đạo CSVN và hy
vọng lãnh đạo CSVN tại miền Nam hay gốc miền Nam sẽ có một khuynh hướng khác.
Những ve vãn của Mao đối với MTDTGPMNVN cũng chỉ là hành động “còn nước còn
tát”. Bắt được ý định đó, Hoa Kỳ đưa ra một “giải pháp trọn gói” tức cả bốn nước
Đông Nam Á gồm Bắc Hàn, Nam Hàn, Bắc Việt, Nam Việt cùng vào LHQ. Trung Cộng
không chấp nhận. Mao, vào thời gian đó, sức khỏe yếu dần nhưng đã đóng vai trò
quyết định trong “giải pháp trọn gói” của Mỹ.
Mao và lãnh đạo Trung Cộng khi ủng hộ chủ trương hai Việt
Nam không phải phát xuất từ lòng thương xót Việt Nam Cộng Hòa hay người dân miền
Nam mà chỉ muốn tiếp tục chi phối chính trị Việt Nam qua vai trò của Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên để trả giá cho chính sách đó bằng việc chấp nhận
Nam Hàn vào LHQ, Mao cho rằng không tương xứng. Vì Mao không đồng ý “giải pháp
trọn gói” tức cả bốn nước cùng vào LHQ nên chiều ngày 11 tháng 8, 1975, Đại sứ
Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Daniel P. Moynihan Mỹ phủ quyết CS Bắc Việt và CS Nam
Việt.
Tìm hiểu quan điểm của Mao qua các giai đoạn của cuộc chiến
để thấy phía sau những khẩu hiệu tuyên truyền đường mật, dã tâm của Mao vẫn là
khống chế Việt Nam bằng mọi cách. Tập Cận Bình hãnh diện là truyền nhân của
Mao, do đó, đọc lại Mao để có thể đo lường những bước đi tới của họ Tập. Ngoài
các đặc điểm kế thừa từ Mao, Tập Cận Bình còn đi xa hơn khi tham vọng bành trướng
cả Á Châu.
CSVN ngày nay không còn chọn lựa nào khác hơn là quy phục
Trung Cộng để tiếp tục tồn tại và duy trì quyền cai trị đất nước. Chọn lựa duy
nhất của các tầng lớp người Việt Nam yêu nước hiện nay là đóng góp hết sức mình
vào cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam. Dân chủ hóa Việt Nam là phương cách
“thoát Trung” đúng đắn và phù hợp với sự phát triển văn minh thời đại nhất. Mục
tiêu đầu tiên trong tiến trình dân chủ hóa là tháo gỡ cho được cơ chế chính trị
xã hội độc tài CS hiện nay.
Trần Trung Đạo
Tham khảo
– Discussion between Mao Zedong and Nguyen Thi Binh. December 29, 1972. Wilson Center.
– Chen Jian (1995), China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Cambridge University Press.
– Rosemary Foot, John Gaddis, Andrew Hurrell (2002). Order and Justice in International Relations. Oxford.
– Yang Kuisong (2002). Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973. Woodrow Wilson International Center for Scholars.
– Qiang Zhai (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
– Eric J Ladley (2007) Balancing Act: How Nixon Went to China and Remained a Conservative. iUniverse.
– Trương Quảng Hoa. Hồi kí cố vấn Trung Quốc. Diendan.org.
– New York Times, August 7, 1975 và August 12, 1975
– Trần Gia Phụng (2016). Lịch Sử Sẽ Phán Xét, Nhà xuất bản Non Nuoc, Toronto, Canada.
Tham khảo
– Discussion between Mao Zedong and Nguyen Thi Binh. December 29, 1972. Wilson Center.
– Chen Jian (1995), China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Cambridge University Press.
– Rosemary Foot, John Gaddis, Andrew Hurrell (2002). Order and Justice in International Relations. Oxford.
– Yang Kuisong (2002). Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973. Woodrow Wilson International Center for Scholars.
– Qiang Zhai (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
– Eric J Ladley (2007) Balancing Act: How Nixon Went to China and Remained a Conservative. iUniverse.
– Trương Quảng Hoa. Hồi kí cố vấn Trung Quốc. Diendan.org.
– New York Times, August 7, 1975 và August 12, 1975
– Trần Gia Phụng (2016). Lịch Sử Sẽ Phán Xét, Nhà xuất bản Non Nuoc, Toronto, Canada.