Để tưởng niệm hai bạn:
Ngô Đắc Phú, Lưu Khương Đức và những nam sinh trường trung học Võ Tánh Nha
Trang đã hy sinh trong cuộc chiến tương tàn!
Thân tặng các bạn Tam
B4 Võ Tánh, 1960-1961. ĐML
Giọng của Lệ Hằng nghèn nghẹn, không hiểu vì tuổi tác hay vì
xúc động. Lệ Hằng nhìn lên trần nhà, nhíu mày, ngâm tiếp:
...Chiến hào xưa vết
thù còn đấy.
Đỉnh cao này áo trận,
phơi thây.
Gần bốn mươi năm sao vẫn
đợi?
Hỡi nấm mồ hoang giữa
lưng trời!
……..
Lủi thủi ta về thăm đồi
Gió,
Rừng cao su vây kín một
màu xanh.
Trên đất thù đồi Gió
còn đau
Và An-Lộc còn nguyên dấu
máu.
Nhìn Đồng-Long dưới đường
mây trắng
Đang ngậm ngùi khóc
nghĩa trang xưa!
Xác ai chôn vội giữa
đêm mưa?
Ngày giặc tới – tìm
không thấy nữa!
Ta về, đồi Gió buồn
như thế,
Chân xiêu vẹo trên chiến
trường xưa
Ôi! Góc rừng tử khí
còn vương
Đồi Gió hỡi! Hôm này
gió chướng. (1)
Lệ Hằng trở về chỗ ngồi trong khi cả nhóm bạn vẫn còn bàng
hoàng, ngồi bất động! Khánh vừa tiến về micro
vừa vỗ tay. Lúc này cả nhóm bạn mới choàng tĩnh, vỗ tay thật lớn. Khánh dõng dạc:
- Bài thơ đẹp và buồn quá! Tôi nghĩ linh hồn những người bạn
xưa của chúng ta có lẽ cũng cảm nhận được rằng chúng ta không bao giờ quên các
anh ấy. Xin cảm ơn “bà xã của tui”, cô “dâu” của trường Võ Tánh …xưa.
Khánh quay sang lấy
thùng giấy, mời một bạn bốc thăm. Tên trên mảnh giấy nhỏ xếp làm bốn từ thùng
giấy ghi Tùy Trần. Khánh đọc tên và Tùy tiến về phía micro:
- Kính thưa quý bạn, từ ngày còn đi học các bạn cũng biết rằng
tôi chỉ có máu thể thao chứ ít có máu văn nghệ. Nhưng để giúp vui, tôi xin kể mẫu
chuyện vui trong gia đình tôi, như kiểu “Gia Đình Tôi” của Duy Lam vào thời
chúng ta cùng học dưới mái trường Võ Tánh.
Thưa quý anh chị, tôi chỉ có một cậu con “làm giống”. Năm
1975, qua Mỹ, cháu được bảy tuổi. Tôi thường rầy la để cháu lo học, đừng quá
ham vui với bạn bè. Một hôm tôi đang rầy cháu vì cháu không được điểm cao, cháu
hỏi tôi: “Tại sao con không la Ba mà Ba cứ
la con hoài vậy?”
Cả nhóm bạn cười ồ lên. Tùy tiếp:
- Sau khi lập gia
đình, cháu có được hai con. Một lần tôi bảo đứa cháu nội lớn xuống lầu kêu bà Nội
giùm ông Nội. Cháu đứng nơi cầu thang, gọi lớn: “Em ơi! Em!” Bà xã tôi cứ tưởng
con bé gọi em nó cho nên lờ đi. Một lúc sau bà xã tôi vẫn nghe con bé gọi như
thế thì hỏi: “Con gọi ai vậy?” Con
bé chỉ vào bà xã tôi, nói: “You. On Noi wants you.”
Tùy dứt lời trong tràng pháo tay và tiếng cười rộ của mọi
người. Khánh lại đem thùng giấy nhờ một bạn khác bốc thăm. Cầm tờ thăm, Khánh
cười lớn:
- Ha…Ha…Lần này chúng ta được nghe lại một giọng ca của ban
ca nhạc Bình Minh Đài Phát Thanh Nha Trang năm xưa. Xin mời người bạn thân thiết
của chúng tôi từ thời Tam “Bê Bối” (B4). Mời Thanh Điệp.
Thanh Điệp rụt rè đứng lên, bước đến micro:
- Xin cảm ơn anh Khánh đã giới thiệu tôi bằng những lời đầy
thân tình. Kính thưa quý anh chị, theo thuyết Vô Thường, không vật thể nào và sự
việc nào có thể tồn tại. Vậy thì thời gian năm mươi năm qua tôi có còn là Thanh
Điệp của thập niên 60 hay không? Chắc chắn là không. Do đó, tôi sẽ góp vui
trong lần gặp gỡ hiếm hoi này không phải bằng giọng hát của cô bé nhút nhát năm
xưa, mà sẽ bằng giọng khàn khàn của một…bà cụ.
Mọi người cùng cười. Thanh Điệp tiếp:
- Trở lại quê nhà sau gần bốn mươi năm lưu lạc, tôi mang
trong lòng nỗi niềm của Nhị Hà khi ông sáng tác ca khúc Trở Về Thôn Cũ, và tâm
trạng của Châu Kỳ khi ông sáng tác bản Trở Về. Nhưng khi gặp những người bạn
xưa trong khung cảnh đầm ấm này thì lời ca của tình khúc Trở Về Mái Nhà Xưa (2)
lại réo rắc trong tâm tưởng tôi những giai điệu chĩu nặng u hoài.
Vừa nghe Thanh Điệp nhắc đến một tình khúc tuyệt vời mà bất
cứ người chơi đàn nào cũng không thể không đàn, những ngón tay của Nhân búng
nhè nhẹ lên giây Guitar, dạo nho nhỏ
cung Do Majeur, nhịp Andantino.
Vừa nghe tiếng đàn Thanh Điệp vừa nhìn Nhân như chờ đợi. Đàn
đến cuối phân đoạn đầu, Nhân “rải” một tràng hợp âm và Thanh Điệp “bắt” vào: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. Về đây với
mầu gió ngày lang thang. Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng. Ôi! Lãng du quay về
điêu tàn!...”
Theo tiếng hát của Thanh Điệp, Khánh tưởng như Khánh có thể
thấy lại nhân dáng xinh đẹp, dịu dàng và thùy mị của Thanh Điệp lúc Thanh Điệp,
Nhân, Tùy, Phê và Khánh cùng học lớp đệ Tam B4, niên khóa 1960-1961.
Thập niên 60 cũng là thời kỳ nhạc Pháp rất thịnh hành trong
giới học sinh và sinh viên. Không có buổi văn nghệ nào trường Võ Tánh tổ chức
mà Thanh Điệp không đàn hoặc hát. Khánh nhớ thời gian mới sang Pháp du học, những
lúc nhớ nhà, Khánh không biết làm gì, chỉ đem hình ảnh gia đình và bạn hữu ra
nhìn. Khi nào thấy tấm ảnh của Thanh Điệp – không biết “đứa” nào chụp – đang đứng
hát, Khánh cũng nhớ lại phân đoạn mà Khánh rất thích: “…Et gratte, gratte sur ta mandoline mon petit Bambino. Ta musique est
plus jolie que tout le ciel de L’Italie…” (3) Ngày xưa, khi Thanh Điệp hát
đến cuối phân đoạn thứ ba: “…Avec tes
cheveux si blonds…” thì đám con trai cùng hô lên “Bambino! Bambino!...” (4) rồi Thanh Điệp tiếp: “Tu as l’air d’un chérubin…” đám
con trai lại: “Bambino! Bambino!” (5) Kỷ
niệm thời trung học của Khánh với Thanh Điệp chỉ có vậy thôi.
Khi bất ngờ gặp lại Thanh Điệp tại sân trường đại học Luật
khoa Saigon, Khánh mới biết Thanh Điệp vừa lập gia đình. Khánh không biết, và
cũng không muốn biết, chồng của Thanh Điệp tên gì, làm gì; thỉnh thoảng Khánh
thấy một chiếc xe, do chú tài xế lái, đón Thanh Điệp.
Hôm nào xe đón trễ, Thanh Điệp thường cùng Khánh đi chầm chậm
về hướng hồ Con Rùa, nói những chuyện bâng quơ.
Một hôm, những chuyện bâng quơ được thay bằng một tin vui:
Khánh được học bổng sang Pháp du học. Thanh Điệp reo lên: “Mừng cho ‘ông’ đó. ‘Ông’ mà không được du học thì ‘ông’ sẽ bị động
viên cũng như ‘ông’ Tuấn thôi.” Nghe nhắc đến người bạn vừa bị tử trận,
Khánh thở dài và trong lòng Khánh lại gợn lên những thắc mắc mà không ai có thể
giải thích được.
Không ai có thể giải thích nguyên nhân nào khiến Tuấn – con
trai độc nhất và cũng là một học sinh xuất sắc, hội đủ điều kiện để khỏi bị động
viên – tình nguyện vào Trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức sau khi đỗ tú tài I ban
toán. Bạn hữu hỏi Tuấn: “Nha Trang có
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, tại sao mày
không thi vào? Cùng lắm thì vào Trường Võ Bị Dalat để kéo dài thời gian ở quân
trường chứ tại sao lại đi Thủ Đức làm chi cho nguy hiểm?” Tuấn chỉ cười, nửa
đùa nửa thật: “Nguy hiểm cái con khỉ! Tao
sẽ tình nguyện về Biệt Động Quân biên phòng. Tao muốn được huấn luyện nhanh,
càng sớm càng tốt. Mấy trung tâm huấn luyện mà tụi mày nói đó phải huấn luyện
hai năm hoặc bốn năm, tao không thể chờ được.” Các bạn nhìn nhau, không hiểu
tại sao Tuấn lại “không thể chờ được”.
Bạn hữu không hiểu, nhưng riêng Tuấn, Tuấn rất bằng lòng với
quyết định của chàng.
Quyết định của Tuấn bắt nguồn từ cái chết rất bi thương của
ông Thuận – Ba của Tuấn. Ông Thuận đã chết một cách quá thảm khốc sau khi bị Việt
Cộng bắt trong trận đụng độ dữ dội tại biên giới Lào Việt.
Theo lời Thọ – một hồi chánh viên – kể với cơ quan Chiêu Hồi
thì ông Thuận bị thương trước khi bị bắt. Việt Cộng hành hạ, đánh đập và dùng
lưỡi lê khơi động vết thương nơi bụng của ông Thuận mà cũng vẫn không thể khai
thác được gì, địch quân bàn tính riêng rồi cho ông Thuận hay: “Chúng tôi trả tự do cho đại úy đấy. Đi đi”.
Biết có âm mưu gì đó chứ làm thế nào Việt Cộng có thể thả một đại úy Biệt Động
Quân biên phòng một cách dễ dàng như vậy, ông Thuận lắc đầu: “Các anh muốn hành xử với tôi như thế nào
thì cứ hành xử. Các anh muốn giết tôi, cứ giết.
Tôi chấp nhận. Đừng bày ra bất cứ âm mưu gì khác.” Giọng một cấp chỉ
huy: “Mở trói, thả nó đi đi.” Ông Thuận
nhìn cấp chỉ huy của địch như không tin. Người ấy nhìn ông Thuận, hất hàm: “Đấy, đi đi. Hãy ‘chở’ về để ‘niếm’ gót giầy
bọn ‘xen đầm quốc tế’ của mày đi.” Ông Thuận lựng chựng đứng lên, dáng ngần
ngừ. Người chỉ huy tiếp: “Địt mẹ! Đi
nhanh không ông nổi xùng ông bắn chết mẹ bây giờ!” Vừa khập khểnh bước đi
ông Thuận vừa ôm vết thương. Máu từ vết thương nhểu thành những đường kỹ hà
theo từng bước chân xiêu vẹo của Ông.
Ông Thuận vừa xa toán Việt Cộng khoảng vài thước, người chỉ
huy toán Việt Cộng liền đưa mắt nhìn thuộc cấp rồi gật đầu nhẹ. Ngay tức thì,
toán Việt Cộng ném về phía ông Thuận những viên đá mà họ có thể nhặt được. Ông
Thuận càng cố khệnh khạng tránh né bao nhiêu thì số đá ném về phía Ông càng nhiều
và càng nhanh bấy nhiêu. Cuồi cùng ông Thuận gục xuống!
Không biết ông Thuận còn sống hay đã chết, người chỉ huy toán
Việt Cộng bước đến, đá mạnh vào người ông Thuận. Ông Thuận lăn theo triền đồi
trong những tràng cười hả hê của toán Việt Cộng!
Cười thỏa thuê một lúc, toán Việt Cộng kéo nhau đi sâu vào rừng;
chỉ có Thọ – người đã không cười – lủi vào bụi rậm, trốn.
Suốt đoạn đường Hồ Chí Minh, Thọ đã chứng kiến nhiều cảnh huống
đau lòng khi bộ đội giết những người cùng đơn vị vì những người này bị bệnh, bị
thương hoặc vì một lý do nào đó, không thể đi theo đoàn quân Nam tiến. Thọ đã cố
che giấu những xúc động của chàng. Nay, thấy chính đơn vị trưởng của chàng hành
động một cách man rợ đối với một địch quân cùng chủng tộc, Thọ kinh tởm và chỉ
muốn xa lánh toán người đầy thú tính. Thọ tìm cách ra hồi chánh.
Những chi tiết do Thọ kể chỉ có gia đình Tuấn biết, nhờ có
người bà con tòng sự tại cơ quan Chiêu Hồi. Vì vậy, khi nghe Thanh Điệp nói về
Tuấn, Khánh đính chính theo sự hiểu biết của Khánh: “Tuấn tình nguyện vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức
chứ không phải bị động viên.” Thanh Điệp
ngạc nhiên: “Vậy à?” Khánh nhìn bạn: “Hồi còn học trung học ‘bà’ cứ ngơ ngơ, đâu
thèm để ý tới tụi này.” Thanh Điệp cười: “Tại vì hồi đó tui nhát quá và tui chỉ thích đàn, thích hát thôi”. Khánh
cũng cười: “Hồi đó các lớp B chỉ có ‘bà’
với ‘bà’ Nghiễn thôi cho nên ‘bà’ kênh, phải không?” Thanh Điệp giả vờ lườm
Khánh: “Kênh gì!Vì chỉ có 2 đứa con gái
cho nên tui càng sợ hơn nữa.” Khánh chuyển đề tai: “’Bà’ nhớ hồi tiễn thằng Tuấn đi lính ‘bà’ hát bài gì không?” Thanh
Điệp lắc đầu. Khánh tiếp: “Tôi không nhớ
tựa nhưng tôi nhớ khi ‘bà’ hát đến đoạn gì mà ‘anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về…’
thì cả lớp thật sự xúc động!” Thanh Điệp dừng bước. Sau một thoáng nhíu mày
suy nghĩ, Thanh Điệp reo lên: “Nhớ rồi!
Nhớ rồi!” Trong khi Khánh chưa biết
cô bạn nhớ gì thì Thanh Điệp hát nho nhỏ, ánh mắt đăm chiêu như đang nghĩ đến
người bạn vắn số: “…Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó. Đem dấu chân soi tuổi đời
ngây thơ, đem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ. Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày
về…” (6) Khánh nhìn
Thanh Điệp: “Tui du học thì tui mong có
ngày về…” Khánh chưa dứt câu Thanh Điệp vội nói lên những ý tưởng đã làm
ray rức lòng nàng kể từ khi hay tin Tuấn tử trận: “‘Ông’ biết không? Lúc ‘ông’ Tuấn rời trường là lúc tụi mình còn nhỏ,
đã biết gì đâu. Hát tiễn ‘ông’ Tuấn đi lính, tôi chỉ nghĩ đến nỗi khổ nạn của
người lính để tìm bài hát cho thích hợp với hoàn cảnh chứ tôi đâu có ý ‘trù ẻo’
cho ‘ông’ Tuấn ‘chẳng mong ngày về’!” Khánh an ủi: “‘Bà’ đừng nghĩ bậy. Bạn bè hồi đó không ai nghĩ như vậy đâu.” Thanh
Điệp chưa kịp đáp lời Khánh thì chiếc xe quen thuộc dừng sát lề đường, cạnh
nàng và Khánh.
Nhìn theo chiếc xe, tự dưng Khánh cảm thây buồn buồn. Vừa bước
chầm chậm Khánh vừa ngân nga nho nhỏ: “…Trả
lại em yêu mối tình vời vợi, ngôi trường thân yêu, bạn bè cũ mới. Đường buồn
anh đi bao giờ cho tới? Nỗi đau cao vời, nỗi đau còn dài…” (7)
Buổi chia xa sau cùng với Thanh Điệp chỉ có vậy nhưng không
hiểu tại sao Khánh không thể quên được người bạn xưa.
Hôm nay gặp lại người bạn xưa sau 50 năm xa cách, Khánh rất
vui và cảm động. Khánh nhìn về hướng micro.
Thanh Điệp vẫn còn những nét cao sang, duyên dáng của một mệnh phụ. Nhưng thời
gian đã phủ lên người Thanh Điệp những vết cằn cỗi. Bất chợt Khánh đưa tay vuốt
những sợi tóc lưa thưa của mình.
Trong khi Khánh hơi buồn lòng vì mái tóc cứ thưa đi và trắng
dần thì Phê lại nhớ đến những ngày sang Hoa Kỳ tham dự Đại Hội Quốc Gia Hành
Chánh.
Sau những ngày vui vì được gặp lại bạn cũ thời đại học, Phê
và vợ đã dành thì giờ tìm gặp cô bạn thời trung học – Thanh Điệp. Phê điện thoại
rủ Tùy, một người từ San Jose đến thăm con tại Houston. Để đo lường trí nhớ của
Tùy, Phê dặn mọi người trong hai bàn tiệc đừng cho Tùy biết ai là Thanh Điệp.
Khi Tùy bước vào nhà hàng, mọi người chỉ cười, gật đầu chào.
Tùy nhìn quanh, giọng buồn buồn: “Ủa,
Thanh Điệp đâu? Thanh Điệp về rồi à?” Vẫn không ai nói gì. Tùy bắt tay Phê,
lại hỏi: “Có lẽ Thanh Điệp đợi tao hơi
lâu cho nên Thanh Điệp về rồi, phải không?” Phê chỉ cười, không đáp. Phê ngồi
xuống. Thanh Điệp nghiêng sang, nói nhỏ, chỉ vừa đủ cho Phê nghe: “Ôi, thời gian! Ta ghét mi!” Phê cười,
chỉ vào Thanh Điệp và nói với Tùy: “Tùy,
Thanh Điệp nè, mày nhìn ra chưa?” Tùy ngạc nhiên, reo lên: “Trời! Thanh Điệp!” Thanh Điệp cười như
mếu: “‘Ông’ Tùy! Có phải trong lòng ‘ông’
vẫn còn hình ảnh cô bé mặc đồng phục trắng, tóc dài hay không?”
Trong cuộc hàn huyên đầy thú vị giữa “ba đứa Tam Bê Bối
(B4)” Phê kể rõ tên từng người bạn cùng lớp còn ở Việt Nam như Phạm Khắc Sinh,
Phan Thừa Tấu, Phạm Vũ Động, Huỳnh Tri Chánh, v. v… Phê cũng kể về cái chết rất
thương tâm của Lưu Khương Đức. Đức tốt nghiệp Kiến Trúc, bị động viên và đã chết
tại Pleiku năm 1972. Tùy nói về Ngô Đắc Phú với những lời đầy tiếc thương. Phú
là phi công trực thăng, bị bắn hạ vào mùa Hè 1972 tại Vùng IV Chiến Thuật! Tùy
cũng cho Phê và Thanh Điệp biết Nguyễn Văn Cư hiện sinh sống tại California.
Thanh Điệp cho biết Nguyễn Đăng Dự, trước 1975, là hiệu trưởng trường trung học
Pleiku, nay đang sống tại Canada; Vũ Mạnh Hoàn du học Bỉ từ năm 1963 và Đỗ Thị
Nghiễn nay là Thích Nữ Thường Như. Nghe bạn đề cập đến một tu sĩ Phật Giáo, Phê
chợt nhớ và cho Tùy cùng Thanh Điệp biết Nguyễn Ưng đã thọ giới Tỳ Kheo được
hơn 20 năm rồi!
Trước khi chia tay, Tùy bắt tay Thanh Điệp rồi gian rộng đôi
tay, tỏ ý muốn hug người bạn xưa. Hai
người choàng vai nhau. Tùy nói, giọng tràn xúc động: “Bây giờ tui mới giám ‘hug’ bà chứ hồi đó tụi tui chỉ biết đứng xa xa
mà nhìn thôi” Phê bảo: “Ê, Tùy! Mày với Thanh Điệp về thăm tụi nó một
chuyến, nha. Nửa thế kỷ rồi, còn gì! Tụi mình già hết rồi! Về đi, tụi nó và tao
sẽ ra phi trường đón.”
Sau khi nhớ lại lần gặp gỡ Thanh Điệp và Tùy tại Houston
cách đây khoảng một năm, Phê cảm thấy bùi ngùi. Phê châm điếu thuốc vừa khi
Thanh Điệp chấm dứt tình khúc “Trở Về Mái Nhà Xưa”. Mọi người chưa kịp vỗ tay
thì có tiếng gõ cửa. Khánh bước ra, mở cửa. Một nhóm công an xuất hiện. Khánh hỏi:
- Các anh cần gì? Chúng tôi đang có khách.
- Ai là Nguyễn Cao Nhân?
Cuộc vui ngưng. Nhân lấy đàn ra khỏi vai, bước ra:
- Tôi. Các anh cần gì?
- Anh về phường
làm việc với chúng tôi.
Theo suy nghĩ của một người sống ở nước tự do lâu năm, Tùy
tách rời nhóm bạn, bước về nhóm công an, hỏi:
- Yêu cầu các anh cho xem trác tòa. Không có trác tòa các
anh không thể bắt người trái phép như vậy.
Một tên công an hất hàm vế phía Tùy.
- Muốn xem trác tòa hả? Đi về phường với chúng tôi mà xem.
Tùy ngại, im.
Nhân sờ túi áo và túi quần:
- Chờ chút. Tôi
vào lấy giấy tờ tùy thân.
- Bảo người nhà lấy.
Anh không được đi đâu cả.
Mọi người đến bên
Nhân, thái độ lo âu. Nhân rất trầm tĩnh, nói nhỏ với Thủy Ngọc – vợ của Nhân –
bằng tiếng Pháp để công an không thể hiểu:
- Em điện thoại cho các con biết ngay.
Khánh nói nhỏ với Nhân, cũng bằng tiếng Pháp:
- Mày đừng lo, có tụi tao đây.
- Tụi mày cũng biết rằng đây không phải là lần đầu tiên tụi
nó bắt tao. Tao tin vào lẽ phải.
Nghe xầm xì một ngôn ngữ lạ, một anh công an lên tiếng:
- Không được dùng tiếng “nước ngoài”.
Chiếc xe áp tải
Nhân chạy trên những con đường còn in đậm vết chân của Nhân và Tuấn từ những
ngày thơ dại cho đến thời gian Tuấn tử trận.
Khi theo bạn bè tiễn Tuấn về nghĩa trang, thấy bà Thuận và
các em gái của Tuấn rũ liệt như những xác người không hồn, Nhân mới ý thức được
sự bất công trong xã hội miền Nam. Trong khi Tuấn xông pha ngoài trận tuyến để
bảo vệ miền Nam và cũng để trả thù nhà thì biết bao nhiêu “thằng” con ông cháu
cha trốn lính? Một số tướng lãnh thiếu tư cách lãnh đạo. Như một ông tướng
Không Quân dùng phi cơ nhà binh đi tán gái.
Từ những bất mãn
về xã hội và về cái chết can cường của Tuấn, Nhân thường bộc lộ với bạn hữu rằng
tuổi trẻ phải làm một điều gì đó để tẩy bớt những ung nhọt trong xã hội hôm
nay. Đúng vào thời điểm này Nhân được một người bạn “móc nối” với Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam.
Nhân được chiêu dụ
rằng miền Nam cần phải được giải phóng khỏi ách cai trị độc tài, tham nhũng,
bóc lột, bè phái để mọi người dân được sống trong tự do, hòa bình và công bằng.
Khi đất nước hòa bình rồi thì không ai phải đi lính, không ai phải chết cho một
nhóm lãnh tụ vô lương. Nhân nhận thấy đường hướng của Mặt Trận thật đúng với lý
tưởng của Nhân.
Giữa lúc Nhân âm
thầm hoạt động rất đắc lực cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì Nhân nhận được
học bổng sang Pháp du học.
Đến Paris, Nhân
được nhiều sinh viên phản chiến đón tiếp rất niềm nở, lo và giúp đỡ mọi điều.
Nhưng điều khiến Nhân vui mừng nhất là Nhân gặp lại Khánh. Khánh và Nhân trở lại
thân thiết như thời cùng học trung học.
Một thời gian sau Khánh mới ngạc nhiên khi thấy Nhân rất
tích cực trong mọi hoạt động chống lại chính quyền miền Nam. Mỗi lần Khánh
khuyên ngăn, Nhân lại đáp cùng một ý: “Mày
nhớ là thằng Tuấn ở cùng xóm với tao. Trong lớp nó ngồi cạnh tao. Hồi đó tụi
bay gọi thằng Tuấn và tao là hai thằng ‘cốt đột’. Ừ, hai thằng ‘cốt đột’
thương nhau như anh em ruột, mày biết không? Tại sao những thằng như thằng Tuấn
phải chết cho những tên vô tài, thiếu đức và không có học thức được sống phây
phây ở hậu phương?” Khánh im lặng, không biết phải biện luận như thế nào!
Ngày xưa Khánh
không biết phải biện luận với Nhân như thế nào, cũng như tối nay Khánh không biết
phải giải thích với Thanh Điệp như thế nào về những tấm ảnh Thủy Ngọc vừa trao
cho cả nhóm cùng xem.
Nhìn tấm ảnh Nhân
bị mấy tên công an lôi xềnh xệch như lôi một bao cát, Thanh Điệp nhíu mày:
- “Ông” Nhân làm
gì mà bị công an Việt Cộng đối xửa tàn tệ quá vậy?
Thủy Ngọc vừa lau nước mắt vừa đáp:
- Hình đó chụp lâu
rồi, lúc anh Nhân mới từ Pháp về quê nghỉ hưu. Các con của chúng tôi khuyên ngăn
thế nào anh Nhân cũng không nghe. Anh ấy bảo anh ấy còn nhiều việc phải làm. Mấy
cháu cho tiền mua ngôi nhà này để chúng tôi hưởng hưu. Nhưng, ngôi nhà này lại
là nơi làm việc của anh Nhân. Anh Nhân ra tuyên cáo, viết bài kêu gọi và xách động
thanh niên đòi chính quyền Việt Cộng phải có đa nguyên, đa đảng; vì anh Nhân thấy
rõ dưới chế độ tàn độc, khát máu và tham nhũng của Cộng Sản Việt Nam, đời sống
của người dân còn cơ cực, lầm than gấp trăm ngàn lần so với chế độ Thiệu Kỳ.
- Rồi cuối cùng?
- Tụi nó cho anh Nhân vào tù!
- Trời! Chị có nhờ
Tòa Lãnh Sự Pháp can thiệp hay không?
- Có. Nhưng ông Nhân ổng bướng lắm. Ổng không chịu vào quốc
tịch Pháp. Ổng bảo ổng là người Việt Nam tại sao lại mang quốc tịch của một nước
đã đô hộ dân tộc mình cả trăm năm?
- Lại một Trần
Văn Bá nữa!
Thủy Ngọc thở
dài:
- Anh Nhân không
phải là công dân Pháp, nhưng nhờ anh ấy là một chuyên viên ngoại hạng do Pháp
đào tạo cho nên Tòa Lãnh Sự Pháp can thiệp. Và lần đó anh Nhân chỉ bị tám tháng
tù thôi.
Vì là người chưa
từng biết gì về những hoạt động chính trị của Nhân, Thanh Điệp tò mò tiếp tục
xem những tấm ảnh của Nhân. Thấy tấm ảnh Nhân bị một tên công an đạp ngã trên
đường, tấm ảnh kế tiếp Nhân bị tên công an khác đạp vào mặt, Thanh Điệp run tay:
- Chị Thủy Ngọc
ơi! “Ông” Nhân lớn tuổi rồi mà sao công an đánh dã man quá vậy?
- Ảnh đó chụp
cách nay vài hôm, lúc anh Nhân dẫn đầu toán biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm
Hoàng Sa và Trường Sa. Tôi có quay video,
nhưng tụi công an giật mất rồi.
Một bà bạn khác lớp,
buồn lòng, nói bâng quơ:
- Đất nước gì mà
còn chiến tranh thì cha hoặc anh em trai chết trận; hết chiến tranh thì quân
nhân, công chức đi tù, nhà cửa bị tịch thu, Mẹ và chị em gái đi kinh tế mới.
Bây giờ hòa bình, độc lập gần bốn mươi năm rồi mà ở mấy tỉnh miền Trung và Cao
Nguyên, đi ra đường chỉ gặp toàn Chệt không! Vậy mà dân đả đảo Chệt thì bị công
an đánh đập không nương tay!
Một người khác mỉa mai:
- Thì cũng nhờ Chệt
mà tụi nó có vũ khí, vượt Trường Sơn vào Nam giết anh em. Chiếm được miền Nam rồi
thì tụi nó phải dâng đất, dâng đảo trả ơn cho Chệt chớ!
Khánh lên tiếng:
- Các bạn nên bình tâm. Mình phải hoặch định phương thức cứu
thằng Nhân.
Thủy Ngọc nhìn đồng
hồ tay:
- Lúc nãy, khi
vào phòng lấy hình ảnh của anh Nhân, tôi đã điện thoại cho các con của tôi. Các
cháu sẽ “tung” lên webs tin anh Nhân
bị bắt. Giờ này khuya rồi, mình không thể làm gì được. Sáng mai tôi sẽ gặp những
nhân vật trong tổ chức của anh Nhân và tôi sẽ liên lạc với Tòa Lãnh Sự Pháp.
Thôi, rất tiếc cuộc vui bị gián đoạn bất ngờ, quý anh chị có thể về nghỉ.
Lệ Hằng lắc đầu:
- Chúng tôi không
thể để chị một mình trong tình cảnh này được.
Cả nhóm đồng
lòng:
- Đúng rồi.
Nhìn quanh, thấy mặt ai cũng buồn buồn, đầy lo âu, Khánh bảo:
- Tôi có một đề
nghị, xin nói ra để quý anh chị xem như thế nào, nhé!
Mọi người nhìn
Khánh, chờ đợi. Khánh tiếp:
- Chúng ta không
nên có thái độ bi quan. Chúng ta phải “hâm nóng” tinh thần tích cực và cao cả của
những người đã và đang dấn thân chống lại sự xâm lăng của Tàu Cộng.
Một ông hồi xưa học
lớp lớn hơn đưa tay xin nói. Khánh chỉ ông ấy và mời:
- Dạ, xin mời anh
cho ý kiến.
- Thưa anh, “hâm
nóng” bằng cách nào?
Khánh xòe bàn tay
về hướng người vừa phát biểu, tỏ ý xin chờ, rồi quay sang Thanh Điệp:
- Thanh Điệp!
‘Bà’ còn nhớ những bản hùng ca xưa không?
- Cho trường hợp
nào?
- Chống rợ Hồ, chống
nhà Minh, chống quân Thanh, chống quân Tàu.
- Gò Đống Đa, Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, được không?
- Tốt lắm. “Bà” nhớ lời ca không?
- Không, chỉ nhớ âm điệu thôi.
Vừa nói ngang đó Thanh Điệp chợt nhớ, vội tiếp:
- “Ông” Khánh! “Ông” mượn computer của chị Thủy Ngọc, vào Google
tìm xem. Tôi nghĩ Google có lời
ca.
Cùng Khánh đến bên computer,
Thủy Ngọc ngạc nhiên reo lên:
- Ui chao! Sao lần này mấy ông công an không tịch thu computer kìa? Mấy lần trước mấy ổng
không những tịch thu computer mà còn
lục lọi, phần cứng, phần mềm gì cũng lấy hết...
Một ông mỉa
mai:
- Anh chị từ Pháp về
cho nên công an chỉ tịch thu computer
thôi; còn chúng tôi là dân Mít thành ra Đảng Cộng Sản Việt Nam “giải phóng”
toàn bộ tài sản của chúng tôi. Dân miền Nam đã chứng kiến cảnh nhiều đoàn xe vận
tải chở đầy nhóc TV, tủ lạnh, máy hát, radio,
bàn ghế, v. v. . . của dân miền Nam chạy rần rần ra Bắc. Ngày trước Việt Cộng
phải lén lút vượt Trường Sơn để vào Nam bắn giết anh em. Sau khi chiếm được miền
Nam và nhốt tù tất cả quân nhân, công chức, Việt Cộng hiên ngang và “hồ hởi” chở
về Bắc tất cả những gì của người miền Nam mà Việt Cộng thích. Vì Đảng Cộng Sản
Việt Nam ăn cướp trắng trợn cho nên người miền Nam có câu: “Tự nhiên như người
Hà Lội”.
Ông bạn vừa mỉa
mai xong, Khánh reo lên:
- À há!
Sau khi in và
phát mỗi người mấy bản, Khánh xoay về Thanh Điệp:
- Thanh Điệp! “Bà” hát một mình trước để mọi người nghe cho
quen rồi chúng ta sẽ đồng ca.
Sau khi tập hát
theo Thanh Điệp vài lần, mọi người đồng ca: “Từng
đoàn dân chúng trên đế đô tưng bừng đi…Cùng thăm nơi xưa ai là người không bái
sùng. Dòng máu ái quốc lưu truyền trong bao đấng hùng. Ngàn ngàn quân Thanh chết
dưới toán quân Việt Nam…” (6) Khánh không ngờ lời ca làm cho
không khí lo buồn lúc nãy trở nên sôi động hẳn lên.
Dứt bản Gò Đống
Đa, Thanh Điệp bắt sang bài Ải Chi Lăng: “Chi
Lăng! Chi Lăng!” Khánh hát đáp: “Tiếng ai hò reo vang trời!” Thanh Điệp
tiếp: “Chi Lăng! Chi Lăng!” Khánh hát
đáp: “Bóng ai tranh hùng muôn đời”. Cả
nhóm cùng nhập vào: “Trời âm u, gió tung,
rú lên, rít lên ào ào đồi non thung lũng đều long lỡ dưới trời bão…” Hát đến
phân đoạn thứ ba, cả nhóm cảm thấy niềm xúc động và tình yêu Quê Hương dâng lên
chất ngất trong lòng. Có người vừa hát vừa đưa ngón tay quẹt nước mắt: “…Hồi chiêng khua thúc quân, tiếng loa thét
lên long trời, hùng binh say máu, gầm như sóng, cố tràn tới. Cờ Nam phất lên
oai nghi. Nhà Nam vẻ vang một thì. Triều Lý, binh hùng ta liều thân sống quyết
chiến! Đồng tiến tuôn giày lên tàn quân Tống. Thù muôn năm, Liễu Thăng kéo quân
tiến qua biên thùy, ngựa phi như sóng, vượt khe suối, lướt rừng núi. Ngờ đâu tiếng
loa vừa báo, Lê tướng chước thâm tài cao. Đồng ứng phá tan giặc Minh. Hùng anh
múa tít gươm linh…” (7)
Khi cả nhóm hát trở lại đoạn điệp
khúc, Khánh xúc động quá, phải lẻn ra ngoài.
Khánh ngồi lên
phiến đá nhỏ cạnh gốc bán dạ hương, lòng thầm thương cho sự nhẹ dạ của Nhân trước
kia và cũng thương cho hoàn cảnh của Nhân hiện tại. Khánh tự hứa, trong những
ngày còn lại của chuyến về thăm quê nhà kỳ này, bằng mọi cách, Khánh sẽ vận động
để Nhân được trả tự do.
Vừa tạm bằng lòng
với quyết định của mình, Khánh chợt nhận ra các bạn đã chuyển sang: “Đây Bạch Đằng giang sông hùng dũng của nòi
giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống anh hùng Nam Bắc Trung…” (8) Tiếng đồng
ca của các bạn làm Khánh nhớ lại chuyến về thăm quê nhà năm xưa.
Năm đó, từ cửa sổ
của chiếc phi cơ Air France Khánh thấy hình ảnh hùng vĩ của nhiều và rất nhiều
chiến hạm cùng chiến đỉnh của Hải Quân V.N.C.H. được giăng cờ rực rỡ. Trên mỗi
chiến hạm, quân nhân trong quân phục tiểu lễ trắng đứng quanh vòng đai chiến hạm,
xoay mặt ra ngoài. Chiến hạm và chiến đỉnh theo đội hình, giang hành chầm chậm
trước bến Bạch Đằng.
Thấy Tượng Đức
Thánh Trần Hưng Đạo nho nhỏ nơi bến Bạch Đằng, Khánh nghĩ đến mẫu tin Hải Quân
Việt Nam Cộng Hòa nghênh chiến chống Tàu Cộng tại Hoàng Sa. Trong trận hải chiến
đó, lực lượng giữa Hải Quân Trung Cộng và Hải Quân V.N.C.H. rất chênh lệch, cho
nên, hộ tống hạm Nhật Tảo, HQ 10, bị Tàu Cộng bắn chìm, mang vào lòng đại dương
Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và hơn 70 quân nhân các cấp.
Khánh cảm thấy
cay đắng trong lòng. Bắc quân đã vi phạm Hiệp Định Ba Lê và đã tận dụng khí giới
của Tàu Cộng để vượt Trường Sơn vào Nam giết hại anh em trong khi quân đội miền
Nam vừa chống trả sự xâm nhập của Bắc quân vừa anh dũng chiến đấu với Tàu Cộng
để bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa!
Vừa nghĩ đến đây,
Khánh cảm thấy niềm cay đắng vụt tan đi; thay vào đó là niềm tự hào về những
thanh niên miền Nam cùng thế hệ với chàng. Hải Quân V.N.C.H. đã mất 74 chiến sĩ
dũng cảm và hộ tống hạm Nhật Tảo; nhưng Hải Quân V.N.C.H. đã lưu lại những nét
sáng ngời trong thiên hùng sử Việt Nam.
Dòng ý tưởng của
Khánh dừng lại khi tiếng đồng ca vang lên: “Việt
Nam! Việt Nam! Nghe từ vào đời…Việt Nam không đòi xương máu. Việt Nam kêu gọi
thương nhau…” (9). Khánh nhìn con đường vắng trước sân. Theo tiếng đồng ca,
Khánh tưởng như Khánh có thể thấy lại những đoàn quân của các quân binh chủng
thuộc Quân Lực V.N.C.H. đang diễn hành. Thấp thoáng trong hình ảnh oai hùng của
đoàn quân là Quyền, Phú, Tuấn, Huy, Thiệp, Trí, Thuận, Ninh, Đức, v. v… Khánh
cũng không thể không nghĩ đến những người con ưu tú khác của ngôi trường Võ
Tánh đã chết trẻ trong cuộc chiến do Bắc quân chủ xướng! Mủi lòng quá, Khánh gục
đầu vào lòng bàn tay.
Từ nãy giờ Lệ Hằng
đứng xa xa, âm thầm quan sát chồng. Khi thấy Khánh trong trạng thái não lòng, Lệ
Hằng bước đến, nhẹ nhàng đặt tay lên vai Khánh.
Khánh cầm tay Lệ
Hằng – mà tưởng như cầm tay một trong những người bạn đã nằm xuống trong cuộc
chiến Bắc Nam – lòng thầm khấn: “Tụi bay
tha thứ cho thằng Nhân, nha. Nó biết nó đã nhầm! Nó chỉ muốn làm những điều tốt
đẹp cho Quê Hương thôi. Nó rất đáng thương!”
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/
1.- Trên Đồi Gió của Nguyễn Thanh Khiết.
2.- Come Back To Sorento của Ernesto De Curtis.
3.- Bambino của Dalida.
4 và 5.- Trả Lại Em Yêu của Phạm Duy.
6.- Gó Đống Đa không biết tên tác giả.
7.- Ải Chi Lăng của Lưu Hữu Phước
8.-Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước
9.-Việt Nam, Việt Nam của Phạm Duy.