Chuyến xe lửa chạy đến đâu ông Dư cũng không biết, vì toa xe
bị che bít bùng và tù nhân bị nén vào nhau như một hộp Sardine....Những người
tù trẻ đứng bên ngoài cố dán mắt vào những khe hở để phỏng đoán xem xe đang chạy
qua tỉnh nào rồi reo lên cho bạn tù trong toa cùng nghe.
Ông Dư ngồi trong góc toa xe. Bất chợt những người tù đứng
vòng ngoài reo lên: “Nhatrang. Nhatrang. Mình đang đi ngang Nhatrang.” Ông Dư vội
ghì chặt bao ny-lông đựng quần áo vào người, lính quýnh muốn đứng lên để nhìn lại
quê hương; nhưng sự dồn nén của nhiều người khiến Ông không đứng lên được. Lòng
Ông quặn đau theo tiếng bánh sắt nghiến trên đường rầy. Ông Dư biết thế nào xe
cũng sẽ chạy ngang nghĩa trang Phật-Giáo. Phần mộ Ba Mẹ của Ông được chôn tại
đó từ bao đời. Sau năm 1975, tất cả mộ trong nghĩa trang phải bị đào lên, dời
đi, nếu không, sẽ bị san bằng, để “nhà nước” nới rộng quốc lộ. Bỗng dưng ông Dư
nghĩ “cách mạng” kết tội Ông đúng quá. Quả thật Ông có tội! Ông Dư có tội vì
không gìn giữ được quê Cha và không bảo vệ được vợ con của Ông! Ý nghĩ mỉa mai
cay đắng này cứ bám víu, ray rức lòng Ông suốt mười năm tù ngoài Bắc-Việt.
Sau khi ra tù, trên chuyến xe lửa trở về Nam, ông Dư được
thong dong ngắm nhìn cảnh vật dọc hai bên đường. Khi xe vừa qua khỏi hầm Đèo Cả
ông Dư cảm thấy lòng rộn ràng, xao xuyến rất lạ lùng.
Xe qua khỏi đèo Rù-Rì khi mặt trời vừa ưng ửng hồng cuối
vùng biển xa. Gió lành lạnh, thơm thơm mùi rong, mằn mặn mùi biển. Ông Dư chồm
người lên thành cửa sổ. Trong tầm mắt Ông, hòn Miếu vẫn im lìm soi mình trong
vùng biển lặng. Khoảng không gian từ Xóm-Bóng đến Cầu-Đá trông êm đềm và tươi
thắm biết bao nhiêu, nhưng sao ông Dư lại cảm thấy héo hon và tê tái trong
lòng!
Vì muốn xua đuổi nỗi buồn, ông Dư quay người lại, tính ngồi
xuống để khỏi bị ngoại cảnh chi phối.
Nhưng vừa khi đó ông Dư chợt nghe văng vẳng một tổng hợp âm thanh ba bè;
rõ và nổi nhất là giọng nữ chính: “Ra đi, biết mặt trùng dương, biết trời mênh
mông, biết đời viễn vong, biết ta hãi
hùng...” Ông Dư ngạc nhiên, nhìn quanh toa tàu. Không ai hát. Không ai có
radio. Ông Dư lại chồm người lên thành cửa sổ. Tiếng hát lại rõ hơn: “Hãy ghé bến
bờ có những xóm dừa, chiều nhuộm vàng làn tóc ngây thơ. Có những núi mờ đứng
mãi ngóng chờ, chờ người về đầu non trắng xóa. Ánh sáng chói lòa, hương say
kinh kỳ, ai quay cuồng nhịp đời dương thế....” Theo tiếng hát, ông Dư tưởng như
Ông thấy được hình ảnh một đứa bé gái, tóc kẹp, mặc đồng phục trắng của trường
Võ-Tánh, lung linh trong ánh nắng chan hòa trên vùng quê Mẹ thân yêu. Đứa bé
gái vẫn tiếp tục hát một trong những bản khó hát nhất của Phạm-Duy “...Viễn xứ
ước thề. Phá hết lối về để đẹp lòng người bước ra đi...” Ông Dư chợt nhớ ra, đó
là bản Viễn-Du, do Huyền, con gái lớn của Ông, trình bày, với vài phân đoạn có
người hát bè phụ, tại rạp Tân-Tân Nhatrang, vào dịp Ban Ca Nhạc Bình-Minh gây
quỹ để cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung. Và hình ảnh đứa bé gái chờn vờn
trong nắng trông giống Huyền quá!
Ông Dư chăm chăm nhìn hình ảnh đứa bé gái, nhưng trong tâm
Ông lại hiện ra quang cảnh hãi hùng trên bờ biển Nhatrang vào những ngày cuối
tháng Ba, năm 1975. Huyền bị thất lạc tại bãi biển Nhatrang khi gia đình Ông
chen chúc, tranh nhau để lên tàu Hải-Quân, nhưng bị thiên hạ phía sau kéo xuống.
Sau khi chính quyền Quốc-Gia rút khỏi Nhatrang, đích thân
ông Dư đi dọc theo bờ biển Nhatrang, lật xác từng người để nhận diện, nhưng
cũng vẫn không thấy Huyền. Không ai biết Huyền thất lạc hay đã chết. Bao nhiêu
năm qua Ông cứ cố nghĩ rằng Huyền còn sống và đang thất lạc nơi phương trời nào
đó. Những lúc mơ thấy con là những lúc vô tình nghe hoặc nhớ một đoạn nhạc mà
ngày xưa Huyền thường đàn hoặc hát. Nhưng hình ảnh hôm nay và tiếng hát này khiến
Ông nghĩ rằng Huyền không còn nữa! Lòng buồn quá, ông Dư cố tập trung tư tưởng
để hình ảnh của đứa bé gái không biến đi và tiếng hát của nó cũng sẽ vang mãi
trong lòng Ông.
Nghe đứa bé gái cứ hát tới hát lui đoạn điệp khúc ông Dư cảm
thấy như có một mãnh lực cực mạnh thôi thúc khiến Ông muốn nhảy khỏi xe lửa
ngay tức thì để được lăn tròn trên đất như ngày nào Ông cùng các bạn và đám Tây
con tranh nhau trái banh, té lăn nhào tại sân vận động; để được bước những bước
chân trần, như những bước chân trần của Mẹ, ngày xưa, nhẹ nhàng đi quanh khuôn
viên Cấp-Cô-Độc; để được chạy mãi chạy hoài dọc theo bờ cát mịn rồi vòng qua
Xóm-Mới, chạy tuốt lên Núi Một, nơi có di tích cuối cùng của người Cha; để được
đạp xe đạp, vai đeo bao vải đựng đàn, ghi-đông treo tòn teng đôi giày đá banh;
để tìm lại Huyền và tiếng hát xưa...
Nếu ở đoạn điệp khúc, tiếng hát xưa khơi dậy trong lòng ông
Dư những nao nức bồi hồi, những ước mơ không tưởng thì ở phân đoạn cuối, dòng
nhạc và tiếng hát – có bè phụ – trở nên
dịu dàng, thiết tha, khiến ông Dư bình tâm trở lại. Và Ông chua xót nhận thức
được rằng trên vùng đất thân yêu này Ông không còn ai, Ông không còn gì! Có còn
chăng là những kỷ niệm vụn vỡ nhưng vô cùng sắc bén, lúc nào chỗi dậy cũng khiến
lòng Ông đau!
Suốt khoảng thời gian xe ngừng tại ga Nhatrang, thấy mấy cô
nữ sinh mặc đồng phục trắng đi xa xa phía ngoài sân ga, ông Dư lại nhớ Huyền và
những đêm nàng thức khuya học bài.
Ngày xưa đó, mỗi đêm, sau khi học bài xong, Huyền thích đàn
một bản nhạc ngắn rồi mới đi ngủ. Để tôn trọng sự yên tĩnh của đêm trường, Huyền
thường đàn cao hẳn một bát trình và không đệm bass, cho nên tiếng đàn rất dìu dặt,
thánh thót. Huyền thường đàn những bản rất hợp ý Ông, nhưng vì ở tù lâu quá,
Ông quên tựa, nay chỉ còn nhớ bản Emperor.
Ông Dư không nhớ trong họ-hàng-nhà-sư-tổ-âm-nhạc Strauss ai
sáng tác bản Blue Danube và ai là tác giả bản Emperor; nhưng ông Dư tự nghĩ, nếu
Blue Danube diễn tả được tất cả sự hùng vỹ, bao la cùng sự thướt tha, tươi mát
của một dòng sông thì Emperor dường như lại gói ghém và chất chứa tất cả nỗi đớn
đau, quằn quại của chính tác giả. Ông Dư còn nhớ, ngày đó, sau khi Huyền tập
đàn bản Emperor vài lần, Huyền cũng có cùng nhận xét với Ông. Và Huyền kết luận:
“Con không hiểu tại sao ông Strauss lại chấm dứt bản nhạc một cách đột ngột như
vậy? Con nghĩ ông Strauss sáng tác bản này trong lúc Ông ấy đau khổ ghê gớm lắm.
Và note Do cuối cùng là note Do...tuyệt vọng!” Ông Dư tức cười, thầm nghĩ, con
nhỏ dùng chữ lạ thiệt, lại còn nhè nhạc của sư tổ mà đặt là “note Do tuyệt vọng”.
Thời gian bị tù đày, nửa đêm thức giấc vì nhớ vợ, thương
con, ông Dư lại nhớ những đêm khuya nghe Huyền đàn bản Emperor. Ôi, “note Do
tuyệt vọng!”. Ông Dư không biết được Strauss tuyệt vọng đến mức nào khi chấm dứt
bản Emperor; nhưng ông Dư tự hiểu được rằng, thời gian tuyệt vọng trong chốn
lao tù, ông Dư chỉ muốn được nghe lại Emperor một lần nữa rồi thôi, rồi...có chết
cũng đành!...
Phiêu ngưng kể, rút bao thuốc, châm một điếu.
Trong khi Phiêu trầm ngâm nhìn khói thuốc cuộn tròn, bay cao
trong một buổi chiều im vắng thì Huyền nghĩ ngợi rất nhiều về hình ảnh đứa bé
gái đã hiện về trong tâm tư ông Dư lúc xe lửa chạy ngang Nhatrang. Huyền không
ngờ ông Dư cũng “thấy” được đứa bé gái. Từ mấy mươi năm qua Huyền cứ tưởng chỉ
một mình nàng mới “thấy” được nó. Huyền không biết đứa bé gái ấy hiện về bao
nhiêu lần trong tâm tưởng của ông Dư; nhưng Huyền biết đứa bé gái đó hiện về
nhiều và rất nhiều lần trong tâm thức của nàng. Khi nào cũng vậy, mỗi khi “thấy”
đứa bé gái Huyền cũng nghe nó hát những bản xưa thật xưa khiến lòng nàng dâng
lên nhiều nỗi luyến thương và tiếc nhớ. Huyền thương nó còn hơn thương chính
nàng nữa, chỉ mong nó sẽ ở lại lâu; nhưng
nó chỉ chờn vờn, khi ẩn khi hiện, rồi tan biến! Đôi khi soi gương, Huyền
thấy nó lấp ló phía sau khuôn mặt của nàng. Huyền nhìn nó chăm chăm rồi mỉm cười
với nó. Nó hát. Huyền hát theo. Giọng của nó trong và cao quá, “lên” đến “sol”
một cách dễ dàng. Nếu hát theo nó mà không phát ra âm thanh thì Huyền vẫn “lên”
được “sol”; nhưng khi hát thành tiếng thì, than ôi, chỉ mới đến “mi” là giọng
Huyền khàn lại! Như không muốn thấy sự thất vọng trên gương mặt của Huyền, đứa
bé gái biến nhanh, để lại nơi chiếc gương lớn một khuôn mặt cằn cỗi!
Huyền vừa nghĩ đến đây, giọng trầm trầm của Phiêu đưa nàng
trở về thực tại:
- Tội nghiệp Ông Già, em chưa thấy một người nào có sức chịu
đựng phi thường như Ông Già.
Huyền cảm thấy thật ấm lòng khi nghe Phiêu dùng danh từ “Ông
Già”. Ngày xưa chị em nàng thường dùng danh từ “Ông Già” để nói về ông Dư những
khi không có sự hiện diện của Ông.
- Ba chịu đựng chứ Ba không khuất phục.
- Đúng, Ông Già không khuất phục. Lúc cùng ở tù với Ba tại Đồng-Găng,
chính mắt em thấy được điều đó.
- Phiêu biết không, chị còn nhớ, thời tản cư, chỉ vì sự say
mê đối với âm nhạc và văn chương Pháp, Ông Già bị kiểm thảo tư tưởng - Ông Già
bảo là khủng bố tư tưởng và đày đọa tinh thần - liên miên, vậy mà Ông Già cũng
vẫn không sợ, cứ sáng tác nhạc và dạy chị học Pháp-văn. Chỉ tiếc là Ông Già
nghe lời mấy ông Tàu, bảo “hữu xạ tự nhiên hương” cho nên không phổ biến những
bản nhạc đó một cách rộng rãi, quy mô.
- Chị quên Má là “con kỳ đà” của Ba sao!
Huyền chợt nghĩ đến “con kỳ đà” của nàng rồi cười như mếu.
Huyền nhìn ra xa. Những tia nắng cuối ngày đã khuất sau những
áng mây đậm màu. Người đốn cây cuối cùng cũng đã rời xa bìa rừng, trả lại không
gian cô tịch sự đìu hiu muôn thuở.
Quang cảnh này, nếu có vài vũng nước đọng, thì sẽ chẳng khác
gì buổi chiều xưa khi ông Dư chợt giật mình vì tiếng của chú tài xế xe lam: “ Tới
rồi đó, bác.” Vừa nói người tài xế xe lam vừa quay lui nhìn ông Dư, người khách
cuối cùng của chuyến xe chót. Ông Dư ngập ngừng như chưa muốn rời xe. Ông Dư đảo
mắt nhìn quanh vùng không gian xa lạ của một buổi chiều sau cơn mưa. “Tới là tới
đâu vậy, chú em?” Chú tài nhăn mặt: “Trời!
Bác biểu tui chở bác về kinh tế Xuân-Hưng thì đây là Xuân-Hưng nè.” Chợt nhớ ra
người khách già trông có vẻ như vừa từ trại cải tạo về, chú tài xế tiếp: “Chắc
bác đi cải tạo lâu quá, gia đình bị đuổi đi kinh tế mới nên bác không biết nhà,
phải không?” Ông Dư chỉ cười, kẹp cái bao ny-lông nhỏ vào nách, vừa khom người
rời chỗ vừa đưa tay sờ túi áo, tính lấy tiền trả cho chú tài xế. Chú tài xế bước
vội ra phía sau, đưa tay đỡ ông Dư: “Thôi, khỏi. Bác đi cải tạo về, ai nỡ lấy
tiền của bác, tổn thọ chết.” Ông Dư rối rít cảm ơn. Chú tài trở về phía trước,
rồ máy xe, “phóng” đi, không kịp nghĩ rằng xe chú đang đậu ngay trên vũng bùn.
Ông Dư chậm chạp, tránh không kịp những vệt bùn văng tung tóe từ hai bánh xe
sau. Đã quen sống dơ bẩn trong tù, ông Dư chẳng cằn nhằn gì cả, chỉ đưa tay phủi
những vết bùn trên mặt.
Nhìn những ngọn đèn dầu leo lét trong mấy túp lều tranh dọc
hai bên đường, ông Dư do dự, không biết nên vào nhà nào hỏi thăm. Vừa khi đó
ông Dư nghe tiếng “bịch, bịch” rồi tiếng xe đạp thắng gấp. Ông Dư quay nhìn và
thấy một đứa bé trai, trạc tuổi đứa cháu nội của ông, đang lui cui lượm mấy
khúc củi rồi cột lại sau yên xe. Ông Dư lên tiếng: “Cháu ơi! Cháu cho ông hỏi
thăm chút, cháu.” Cậu bé lễ phép: “Dạ, cụ cần chi?” Ông Dư nhìn cậu bé, cười,
gây thiện cảm: “Cháu biết gia đình bà Dư từ Nhatrang dời vào đây sống chỗ nào
không?” Cậu bé dắt xe đến gần ông Dư hơn: “Có phải bà Dư có người con tên
Phiêu, vừa cải tạo về không, cụ?” Từ sau khi bị chuyển ra Bắc, gia đình ông Dư
không đi thăm nuôi, vì nghèo, ông Dư không biết được nhiều tin tức về gia đình.
Phiêu được thả về từ lúc nào ông Dư cũng chẳng hay, nhưng nghe nhắc đến Phiêu,
ông Dư biết cậu bé nói đúng nên đáp: “Ờ, đúng đó, cháu. Cháu chỉ giùm ông,
nhen.” Đứa bé nhìn ông, ái ngại: “Từ đây vô trong ấy xa lắm, ông đi bộ không nổi
đâu. Để cháu chở ông đi.” Ông Dư vui mừng: “Cháu giúp giùm ông, làm phước.” Sau
một thoáng suy nghĩ, cậu bé đáp: “Ý, mà không được. Cháu phải chở củi về trước
rồi cháu quay lại đón ông. Nếu cháu để củi lại đây, chở ông về nhà ông thì người
ta sẽ lấy củi của cháu; còn chở cả ông và củi thì cháu đạp không nổi.” Ông Dư
ngại, nếu vì bất cứ lý do gì mà cậu bé không trở lại, làm thế nào ông có thể
tìm ra gia đình trong đêm tối như thế này, nên đề nghị: “Để ông chở, cháu ôm củi,
chịu không?” Cậu bé nhanh nhẩu: “Dạ, được.” Ông Dư chợt nhớ lâu quá không đi xe
đạp, nay sức khỏe yếu, chân đau vì hậu quả bị cùm lâu ngày, không biết ông có
thể giữ thăng bằng được hay không nên đề nghị: “Cháu để ông đạp thử một vòng
quanh đây xem ông còn nhớ cách đi xe đạp hay không, rồi ông chở cháu, nhen?” Cậu
bé vùng vằng, lắc đầu: “Ý, không được đâu. Rủi ông đạp đi luôn rồi cháu làm
sao?” Ông Dư nhìn cậu bé. Ông không cảm thấy tự ái bị tổn thương mà ông chỉ thấy
tội nghiệp cho đứa bé không có tuổi thơ. Xã hội đã hun đúc trong lòng đứa bé những
gian manh, dối trá, quỷ quyệt và nghi ngờ. Ông thở dài.
* *
*
Cả nhà đang ngồi trên manh chiếu, chia nhau nồi bo bo và củ
mì, chợt ngưng lại vì nghe tiếng nói chuyện rầm rì ngoài sân. Phiêu nhíu mày,
không hiểu ai lại vào khu vực này khi trời tối như thế này. Phiêu nhìn ra sân,
thấy chú bé đạp xe đi và một người đàn ông gầy gò tần ngần trước sân.
Trong khi ông Dư còn đang ngỡ ngàng thì Phiêu “phóng” nhanh
ra sân, reo lên: “Ba! Ba! Trời, Má ơi, Ba về.” Mọi người - và chú chó Tôtô mà
trước khi đi tù, ông Dư “lượm” về nuôi từ ngày chú còn bé tý teo, bị vất bên đường
- vây quanh ông Dư trong khi bà Dư chậm chạp bước ra, nheo nheo mắt nhìn, như
không tin người đàn ông này là ông Dư. Ông Dư bước đến bên bà: “Sao? Mắt bà
cũng còn cận nặng vậy sao?” Bà Dư không đáp lời ông. Bà quay tìm cu Út: “Cu Út
đâu? Sao không tới mừng Ba?” Cu Út cũng không nhìn ra ông Dư nên ngại ngùng núp
phía sau Phiêu. Phiêu đẩy cu Út và các con của chàng về phía ông Dư. Ông Dư ôm,
hôn cu Út và mấy đứa cháu nội trong khi bà Dư lấy ống tay áo quẹt nước mắt.
Bất chợt ông Dư cảm biết như thiêu thiếu một cái gì nên dừng
lại, ngẫng lên, nhìn quanh. Mọi người im lặng. Giây phút vui mừng đột ngột dừng
lại. Ông Dư nghiêm giọng: “Trúc-Uyên với Mai-Trâm đâu?” Không ai dám trả lời.
Ông Dư nhíu mày, nhìn quanh một vòng nữa rồi Ông im lặng rẽ đám đông, đi vào
nhà.
Mọi người theo Ông, nhưng không ai dám gây tiếng động. Ông
Dư nhìn quanh nhà, chỉ thấy vài manh chiếu, mền và manh chiếu giữa nhà còn lỡ dỡ
bữa ăn chiều. Mắt ông Dư dừng lại nơi tấm vải dài, che từ nóc nhà đến gần mặt đất.
Sau một thoáng do dự, ông Dư đi thẳng đến, vén tấm màn lên.
Ông Dư nhìn thẳng vào hai bức ảnh của Mai-Trâm và Trúc-Uyên
trên bàn thờ một chốc rồi ông lẵng lặng thắp nhang cắm vào lon sữa bò đựng cát,
thế cho lư hương.
Như không thể chịu đựng thêm được nữa, bà Dư quỵ xuống.
Phiêu đỡ bà Dư và ra dấu cho Bà cố nén tiếng nấc. Không ai biết ông Dư nghĩ gì.
Không ai có đồng hồ để lượng định được thời gian ông Dư ngồi yên lặng trước bàn
thờ của hai đứa con mà khi ông đi tù thì hai đứa chỉ mới bước vào tuổi dậy thì!
Khi quay lại, thấy mọi người ủ rũ nhìn Ông, Ông nhìn bữa ăn
chiều vẫn còn trên manh chiếu, bảo: “Bà với mấy đứa ăn đi rồi tắt đèn đi ngủ
cho đỡ hao dầu.” Bà Dư nhìn Ông: “Ông cũng ăn vài hột dằn bụng rồi đi nghỉ”.
Ông Dư lắc đầu: “Bà ăn để cho con cháu chúng nó ăn. Tôi no rồi.” Quay sang Phiêu,
ông hỏi: “Con có thuốc, cho Ba một điếu.”
Nhận điếu thuốc mồi sẵn và mớ thuốc rê với vài tờ giấy quyến
từ tay Phiêu, ông Dư bước ra sân. Bà Dư lại sụt sùi. Phiêu im lặng, thở dài. Cá
tính của ông Dư vẫn vậy, khi nào có điều chi đau đớn trong lòng, ông Dư muốn được
lặng lẽ một mình với điếu thuốc. Thường thường không ai dám đến phá rầy Ông,
nhưng tối đó, chú chó Tôtô lặng lẽ bước theo Ông.
Ông Dư ngồi thu hai chân trên đống củi. Tôtô cũng leo lên, nằm
cạnh, gác đầu lên chân của Ông. Ông Dư cứ nhíu mày nhìn đăm đăm vào bóng đêm
nhưng Ông không tự biết Ông nghĩ gì, vì khối óc linh hoạt của Ông gần như tê dại.
Khuya lắm, sương xuống nhiều. Ông Dư ngồi xếp bằng. Tôtô cảm
thấy lạnh nên cuộn chân sát hơn nữa vào chân ông Dư. Lúc này ông Dư mới nhận ra
sự có mặt của Tôtô. Ông vuốt ve sóng lưng gầy gò của Tôtô. Bộ lông thưa thớt
trên làn da nham nhám của Tôtô tạo nguồn hơi ấm nơi lòng bàn tay ông Dư, đồng
thời cũng đem đến cho ông Dư cảm giác nhờn nhợn, khó chịu, vì một sự việc không
thể nào Ông quên được.
Sự việc đó xảy ra vào một đêm khuya tại phòng biệt giam.
Ông Dư không nhớ Ông bị biệt giam vì tội gì mà Ông chỉ nhớ sự
đau nhức râm rang của vết thương nơi chân phải, chỗ bị cọ xác với còng sắt, và
mùi tanh tanh do máu và mủ tươm ra.
Chính mùi tanh của máu và mủ đã quyến rũ mấy chú chuột. Nhiều
đêm ông Dư giật mình thức giấc vì bị chuột khới nơi vết thương. Ông chỉ cần lay
nhẹ bàn chân là mấy chú chuột sợ, chạy mất. Nhưng đôi khi, gặp chú chuột lớn,
chú chỉ ngưng hành động trong giây lát, dương mắt nhìn ông Dư, chứ chú không sợ,
ông Dư phải ngồi dậy, đuổi đi.
Đêm đó trăng sáng, rọi qua ô cửa sổ nhỏ, tít trên cao. Ông
Dư nghi mấy chú chuột chui vào “phòng” của Ông bằng lối này, lối duy nhất để
người tù có chút dưỡng khí, khỏi chết ngộp. Ông Dư chợt thức giấc vì bị đau thốn
nơi vết thương. Ông thấy một chú chuột thật lớn đang “say sưa” khới vết thương
của Ông. Trong trí Ông chợt thoáng lên ý nghĩ táo bạo. Ông cố giữ đôi chân thật
yên để chú chuột khỏi đề phòng. Ông nhẹ nhàng và từ từ ngồi dậy, đưa hai bàn
tay mở rộng rồi đột ngột chụp xuống ngay chú chuột. Chú chuột vùng vẫy trong
tay Ông. Ông vặn cổ chú chuột. Bụng Ông cồn cào như cơn đói vừa bị đánh thức.
Ông loay hoay tìm cách để ăn thịt chú chuột nhưng không biết làm thế nào để lột
lớp lông dày đặc. Sau một lúc suy nghĩ, ông Dư đành gói chú chuột vào mớ quần
áo của Ông.
Hôm sau, ông Dư dỡ lớp quần áo ra thăm chừng xem thân chú
chuột sình lên chưa để Ông nhổ lông hoặc lột da. Nhưng thân chú chuột vẫn chưa
sình.
Hôm sau nữa, Ông Dư vui mừng khi mũi của Ông nhận biết được
mùi hôi hôi bốc lên. Ông Dư lấy xác chú chuột ra, xé lớp da nơi bụng của chú
chuột, gạt đùm ruột sang một bên, rồi Ông nhanh nhẹn lột hết da nơi phần lưng.
Ông khới từng tý từng tý để nước nhờn khỏi nhểu lên người Ông. Ông biết, thịt của
chú chuột không những chỉ ươn mà còn thối nữa, nhưng Ông vẫn ăn, vì đói. Ông ăn
hết thịt, chừa lại bộ lông, ruột, cái đầu, xương và bốn chân. Trong khi Ông Dư
chưa biết phải chôn dấu những vật phế thải này vào đâu để khỏi bị ban quản giáo
kết tội thì Ông bị nôn mửa và đại tiện liên miên ngay chỗ nằm...
...Phiêu ngưng kể, vất tàn thuốc xuống đất rồi dí chiếc dép
lên.
Huyền thở dài, nhìn mông ra khu rừng vắng. Huyền tưởng như
nàng có thể thấy được những sợi tóc bạc lất phất trên vầng trán rộng, đầy nếp
nhăn, của ông Dư. Hình ảnh này gợi nơi lòng nàng khối tình cảm vừa thiết tha vừa
tiếc nhớ mỗi khi nàng lái xe trên đường Bellaire.
Từ trạm xe buýt, trên đường Bellaire, không biết bao nhiêu lần
ông Dư đã đón chuyến xe buýt số 2 để xuống phố. Khi chiếc buýt ngừng lại trên
đường Fannin, ông Dư thong thả rời xe buýt, đi vào sở làm. Dù đã ngoài 70 tuổi,
nhưng vì tinh thần tự lập cao, và cũng vì không muốn Huyền phải bận tâm, ông Dư
vẫn xin việc làm bán thời gian tại cơ quan ICC cho đến khi hội đủ điều kiện được
hưởng trợ cấp của chính phủ.
Nhớ đến đây Huyền lại thở dài, xoay sang Phiêu:
- Cuối cùng Ba có biết nguyên nhân cái chết của Trúc-Uyên và
Mai-Trâm không?
- Không.
Huyền lập lại một cách ngạc nhiên: “Không?” Phiêu đáp:
- Dạ, vì không bao giờ Ba hỏi và không ai trong gia đình muốn
nhắc lại chuyện đau lòng ấy nữa.
Huyền im lặng. Nhưng trong tâm nàng lại văng vẳng tiếng của
ông Dư, rõ ràng và mạch lạc như ngày nào Ông và bà Dư còn sống trên đường
Bellaire, mỗi khi Huyền hỏi Ông về những chuyện buồn xưa: “Thôi, con, những
chuyện đó đã qua rồi, con biết để làm gì. Con đọc kinh Bác Nhã, con hiểu. Cuộc
đời này đâu có gì là thật và cũng không có gì là vĩnh cữu. Vì vậy, nếu con lỡ biết được phần nào những thảm cảnh trong gia
đình thì con hãy cố quên đi để mà sống.” Nửa đùa nửa thật Huyền hỏi: “Mà Ba có
quên được không?” Ông Dư cười: “Quên chứ. Ba quên tuốt luốt hết rồi.”
Ông Dư nói như vậy để Huyền yên lòng chứ làm thế nào Ông có
thể quên được những tháng năm dài khổ nạn.
Trong đoạn đường khổ nạn đó, thỉnh thoảng ông Dư cũng tìm được
những niềm vui nho nhỏ. Đó là những lúc mấy chú cán bộ lén cấp trên, ra sau nhà
tiêu, nơi ông Dư cùng đội rau cải canh tác, nhờ Ông dạy nhạc, vào những hôm mấy
chú ấy được nghỉ. Ông Dư không thể hiểu, ngày xưa, tại Weimar, sư-tổ-âm-nhạc-và-piano,
Franz Liszt, cảm thấy như thế nào mỗi khi Liszt dạy nhạc không nhận học phí;
nhưng ông Dư tự biết rằng Ông rất vui và cảm thấy ấm lòng khi truyền lại cho những
cán bộ trẻ thiếu may mắn này chút tinh hoa mà Ông hấp thụ được từ xã hội văn
minh.
Những lúc Ông Dư dạy nhạc lén lút như vậy, có chú cán bộ giấu
trong người khi thì củ khoai, khi trái bắp, khi thì miếng cơm cháy, đem biếu để
ông Dư “bồi dưỡng”. Dù đói và rất thèm ăn, nhưng lúc nào ông Dư cũng cố nhịn, để
dạy cho mấy chú xong rồi mới ăn.
Khi nào ăn được những món quà của mấy chú cán bộ ông Dư cũng
bùi ngùi nghĩ đến Phiêu, nghĩ đến thời gian Ông và Phiêu cùng bị tù chung,
nhưng khác đội, tại trại tù Đồng-Găng.
Thời gian đó Phiêu thường nhịn bớt phần ăn của Phiêu để sáng
sáng, khi cùng các bạn tù đi lao động, ngang đội rau cải, Phiêu lén cán bộ, gọi
khẽ “Ba”. Ông Dư ngẫng lên. Phiêu vội vất ngay phần ăn về phía ông Dư. Mấy lần
đầu, vì mắt kém, ông Dư không thấy được cho nên mấy người tù già cùng đội với
Ông tranh nhau lượm, phủi sạch đất rồi ăn. Sau vài lần như vậy, ông Dư hiểu,
cho nên, gần đến giờ đoàn tù trẻ sắp đi ngang, ông Dư thường tìm mọi cách và mọi
lý do để đến gần hàng rào. Nhờ vậy Ông nhận quà của Phiêu đều đặn hơn.
Trong những món quà của Phiêu, ông Dư nhớ mãi vắt cơm cháy
khô cứng, Ông phải ngậm một lúc cho dịch vị thấm vào cơm, làm mềm cơm rồi Ông mới
khới từ từ, vì hai hàm răng của Ông đã lung lay. Khi Ông khới đến lần thứ ba
thì lạ chưa! Ở giữa vắt cơm có vật gì thơm thơm, beo béo. Ông run run bẻ vắt
cơm ra và thấy một phần tư của một khúc lạp xưởng ngắn bằng lóng tay. Ý nghĩ
thoáng qua rất nhanh, bao nhiêu lạp xưởng mà chỉ ăn với một vắt cơm thì uổng
quá. Ông cắn một tý lạp xưởng, nhai với cơm cháy rồi cẩn thận đưa lưỡi đẩy miếng
lạp xưởng tí tẹo ấy sang một bên, ngoài hai hàm răng, để khi Ông nuốt cơm thì
chỉ có cơm trôi vào dạ dày, còn rẻo lạp xưởng “ở lại” cho miếng cơm sau và miếng
cơm sau nữa. Ăn hết phần cơm cháy, ông Dư hái lá rau lang, gói phần lạp xưởng
còn lại, cho vào túi, để trưa và chiều cũng sẽ “áp dụng” cách ăn “nghiêm túc”
như vậy.
Trải qua giai đoạn dài đói khát kinh khủng như vậy, nhưng
khi đến Mỹ theo diện O.D.P. ông Dư lại không tha thiết mấy với thức ăn mà Ông lại
trân quý những tờ giấy quảng cáo dày, láng, in một mặt. Ông nhặt tất cả những tờ
ấy, cất vào một thùng giấy. Bất ngờ Huyền “khám phá” ra thùng giấy quảng cáo,
Huyền vừa thương vừa buồn, khuân thùng giấy bỏ vào thùng rác trong chung cư.
Ông Dư nhìn theo, lòng tiếc hùi hụi nhưng chỉ giám trách nhẹ: “Giấy tốt quá, để
Ba viết nháp, con liệng làm chi uổng vậy, con!” Sau khi Huyền đem đến cho Ông mấy
bao giấy trắng mua từ Office Depot, Ông Dư ve vuốt những hàng chữ Papier de
qualité supérieure à usages multiples, lòng cảm thấy vừa thân thiết vừa gần gủi.
Huyền xé bao giấy, lấy một xấp để lên bàn: “Giấy đây, Ba tha hồ viết; viết
nháp, viết thật gì cũng được.” Ông Dư lại tần ngần, ai nỡ viết nháp trên những
tờ giấy trắng phau như vậy chứ!
Nhìn những tờ giấy trắng, Bà Dư chíp miệng: “Xứ này sao mà
giàu sang quá mứt; còn xứ mình sao nghèo ‘mạc rệp’, cơm không có mà ăn!” Ông Dư
nhìn bà Dư: “Trước 75 bên mình đâu có tệ như vậy, bà. Bởi vậy, khi đợi máy bay
tại Tân-Sơn-Nhất tôi đã dặn lòng là sẽ không bao giờ trở lại nơi đã đày đọa con
người ngang với thú vật.” Giọng bà Dư buồn buồn: “Ông thì vậy, còn tôi, sống
thì không về chứ chết tôi phải về.” Huyền không hiểu: “Má nói như vậy nghĩa là
sao?” Bà Dư cười cười: “Nghĩa là sau khi chết Má muốn được chôn tại Việt-Nam chứ
Má không muốn chôn ở đây.” Ông Dư xen vào: “Bà... sao! Không dưng lại đem chuyện
chết chóc ra nói, làm con nó lo. Bà cứ an tâm sống cái đã, khi nào đến đó rồi
tính.” Bà Dư nguýt ông Dư: “Ông nói hay dữ! Tới đó mình nằm ‘ngay đơ’ rồi, làm
sao mà tính?” Huyền nhìn bà Dư: “Như vậy nghĩa là Má không nói đùa?” Bà Dư
nghiêm giọng: “Đùa sao được mà đùa, con. Tiện đây, Má yêu cầu con như vậy, con
nghĩ sao?” Huyền lúng túng: “Con nghĩ Má nên nghe lời Ba. Trời cho ngày nào, Ba
Má cứ an vui ngày đó. Còn chuyện kia tính sau.” Bà Dư cương quyết: “Má muốn
tính ngay bây giờ cho Má yên lòng.” Ông Dư nhìn Huyền với vẻ lo ngại, vì Ông hiểu,
chuyên chở quan tài từ Hoa-Kỳ về Việt-Nam không phải là điều dễ giải quyết. Huyền
cúi xuống, tránh ánh mắt của ông Dư. Một lúc sau Huyền hỏi: “Má xác định lại
cho con một lần nữa là: sau khi Má mãn phần, Má muốn được chôn cất tại Mỹ hay
Việt-Nam?” Giọng bà Dư rất bình thản: “Má muốn được chôn cất tại Việt-Nam.” Huyền
lại hỏi: “Má muốn như vậy thì con và các cháu sẽ lo cho Má.” Bà Dư vui, nắm tay
Huyền lắc mạnh: “Con hứa với Má, nghen, con.” Huyền gật đầu, đáp, giọng buồn buồn:
“Dạ, con hứa.” Nói xong tự dưng Huyền cảm
thấy buồn quá, vì nàng chợt ý thức được rằng ông bà Dư quả thật không còn trẻ nữa.
Sau khi nén tiếng thở dài, Huyền tiếp: “Mà Má muốn quan tài của Má đưa về tỉnh
nào?” Bà Dư ngạc nhiên: “Thì về kinh tế mới Xuân-Hưng chứ về đâu, con?” Huyền
kinh ngạc: “Kinh tế mới Xuân-Hưng? Tại sao Huế, quê Ngoại và cũng là nơi Má được
sinh ra, Má không về? Dalat, nơi Má lớn lên, Má không về? Nhatrang, quê Nội, Má
không về mà lại đòi về Xuân-Hưng, nơi nghèo khổ cùng cực, nơi Má và các em phải
sống những tháng ngày khốn khó, nơi chôn dấu nhiều kỷ niệm buồn thảm nhất của
gia đình mình?” Bà Dư cười xuề xòa: “Má biết, xã Xuân-Hưng nghèo, những ngày cơ
cực và buồn khổ tại Xuân-Hưng không bao giờ Má quên. Nhưng người dân ở
Xuân-Hưng có tình lắm, con. Những người đầu tiên đến Xuân-Hưng là những người
cùng giai tầng xã hội với mình ngày xưa, rồi cũng bị đày ải như mình cho nên họ
cảm thương và giúp đỡ, đùm bọc nhau. Con thử tưởng tượng, vào một buổi chiều chạng
vạng của năm 1976, Má và mấy em gái rời chiếc xe đò cuối cùng, từ Nhatrang vào,
đang đứng tần ngần trước khung cảnh u tịch,
lạ huơ lạ hoắc, chưa biết phải ngủ nhờ nơi đâu thì nhiều người xuất hiện, đon đả
‘Mới hả? Vô đây, vô đây. Vô kiếm chút gì ăn tạm rồi tìm chỗ ngủ, mai tính.’ Sau
đó, họ thấy nhà không có con trai, không có đàn ông nên họ phụ nhau giúp Má che
được cái...chòi. Đó, con thấy, ở đời, quý nhau là quý cái tình, quý tấm lòng.
Má chỉ có hai điều ước nguyện. Thứ nhất, nếu Má có tiền, Má sẽ giúp tất cả những
người ở Xuân-Hưng; thứ hai, khi Má chết, Má được chôn cạnh những người cùng cảnh
ngộ, cùng có những tấm lòng mà tiền của mua không được.”
Ước nguyện của bà Dư là như vậy. Nhưng khi quan tài của Bà
đưa về đến Xuân-Hưng thì sự việc xảy ra ngoài dự tưởng của cả ông Dư và Phiêu.
Ngoài những người ngày xưa quen biết đến viếng linh cữu của
bà Dư, Phiêu còn thấy vô số người đứng quanh nhà, hết nhóm này đến nhóm khác,
ai cũng trầm trồ về chiếc quan tài đẹp đẽ mà họ chưa bao giờ thấy. Vài người
thân với Phiêu, đưa Phiêu ra ngoài, khuyên Phiêu phải cẩn thận vì rất nhiều đám
tang Việt-Kiều, sau khi chôn, mộ bị đào lên, xác vất cạnh mộ còn quan tài và quần
áo tẩm liệm...biến mất.
Sau khi hội ý với gia đình, đến ngày an táng bà Dư, Phiêu
quyết định thuê người đổ một lớp xi-măng thật dày ngay trên nắp và chung quanh
quan tài của bà Dư!
Tuy đã đồng ý với giải pháp này lúc gia đình bàn tính, nhưng
khi thấy quan tài của bà Dư bị khuất dần dưới lớp xi-măng, ông Dư chịu không được,
bật khóc, nói với Phiêu: “Má con là một con cá Hồi khốn khổ!” Ngưng một chốc,
Ông tiếp: “Con đừng nên cho chị con biết gì về sự việc này, chị con buồn, tội
nghiệp”.
Trong khi ông Dư và Phiêu còn bị xúc động mạnh về phần việc
an táng cho bà Dư thì một người đàn ông gầy gò từ đâu bước nhanh đến, quỳ ngay
trước mặt ông Dư rồi sụp xuống...lạy! Phiêu giật mình khi nhận ra người đàn ông
đó là Sơn, một cựu chiến binh của sư đoàn Sao Vàng.
Lúc mới cùng thằng cu Toản từ Bắc vào Xuân-Hưng tìm kế sinh
nhai, Sơn nhận ra ngay sự thiếu hiện cảm của mọi người, nhất là những gia đình
có chồng, cha, hoặc con bị tù đày. Có thể nói, không ai muốn kết bạn với Sơn,
nhưng những chi tiết về đời tư của Sơn lại được nhiều người truyền miệng. Do đó
Phiêu biết Sơn chứ không quen.
Phiêu ngăn, không cho Sơn lạy, rồi nhẹ nhàng kéo Sơn đi: “Đi
ra đây.” Sơn không hề kháng cự. Vừa bước
theo Phiêu Sơn vừa xoay lại phía ông Dư, lập đi lập lại: “Ông ơi! Xin Ông thứ lỗi
cho con. Xin Ông giúp con...” Phiêu kéo
Sơn ra khỏi những người dự đám tang và xa nhóm người tò mò: “Tại sao anh làm
như vậy?Anh có biết hôm nay là ngày trọng đại nhất trong gia đình tôi hay
không?” Sơn chắp tay như muốn lạy: “Bẩm quan, con biết. Xin quan tha tội cho
con.” Phiêu đưa tay ngăn Sơn: “Khổ quá! Giờ này mà quan với quyền! Thôi, anh đi
về đi.” Sơn lại sụp lạy: “Xin quan giúp cho thằng con của con, quan ơi!” Phiêu
ngạc nhiên: “Con của anh cần gì?” Sơn gục xuống đất, gào lên: “Con của con nó
chết rồi, quan ơi!” Phiêu giật mình: “Tại sao vậy?Hồi nào?” Sơn kêu khóc thảm
thiết: “Nó chết mấy hôm nay rồi, quan ơi! Lúc nó ốm, con tìm quan để xin thuốc,
vì nhiều người bảo quan có thân nhân ở nước ngoài gửi quà về thường xuyên.
Nhưng không may cho con, mấy hôm đó quan phải vào Saigon đón quan tài của cụ
Bà. Mấy hôm nay nhà quan lại có đám tang nên con không dám đến. Nhưng hôm nay,
con đánh liều, vì con không có tiền chôn cất nó mà cũng không có tiền cho Mẹ và
các em nó từ Bắc vào nhìn mặt nó lần cuối...” Phiêu đỡ Sơn đứng lên: “Anh bình
tĩnh. Mình là đàn ông. Anh ở đây chờ tôi. Tôi sẽ trở lại”.
Sau khi nghe Phiêu trình bày ngắn gọn sự việc, ông Dư kín đáo trao cho Phiêu một số tiền kha khá để
biếu Sơn.
Phiêu kể đến đây, Huyền lại thở dài và thoáng thấy hình dáng
gầy guộc của ông Dư hiện về trên con đường mòn giữa hai rẫy bắp:
- Ông Già tạo được nghiệp tốt.
Phiêu mỉm nụ cười đầy cay đắng:
- Ông Già tạo nghiệp tốt mà Ông Già nhận được quả ung không
hà.
- Phiêu nói gì vậy?
- Chị nhớ, sau đám tang Má, sức khỏe của Ba sa sút, Ba không
thể ngồi lâu trên máy bay cho nên Ba không trở qua Mỹ được. Đúng không?
Huyền gật đầu. Phiêu tiếp:
- Vậy là Ông Già bị công an “xúc” về tội cư trú bất hợp
pháp. Ông Già phải “xì” ra mấy “ông Jackson” thì mới yên.
Huyền tròn mắt nhìn Phiêu. Phiêu cười khẩy, tiếp:
- Nhưng đến khi Ông Già mất, cũng chính bọn công an đó đến
thắp nhang, khấn lạy để được một chầu ăn nhậu.
Huyền giật mình:
- Tôi đã điện thoại về, dặn cậu là chỉ cúng chay thôi mà.
Phiêu cười ngất:
- Bên ngoài ai biết được điều đó. Cứ thấy đám tang Việt-Kiều
là nghĩ có thức ăn sang cho nên “cha con nó” mới tới. Đến khi thấy thức ăn chỉ
toàn cơm chay và trái cây thì “cha con nó” chửi thề, bỏ đi.
Huyền chán nản lắc đầu, tay vân vê phiến đá mài trên thành mộ
của ông Dư, mắt nhìn về phía quê Nội xa xăm.
Trong bóng hoàng hôn u tịch Huyền lại thấy hình ảnh đứa bé
gái chờn vờn. Cùng lúc ấy, từ tâm thức của Huyền, tiếng hát xưa vọng về:
“... Chiều đến đìu hiu mang cả niềm thương nhớ,
Sương mờ thoáng rơi trên đồi Thu trầm mơ.
Ly hương, kiếp tha phương nhuộm vết tang bồng.
Chiều nay tôi thấy thoáng bóng mờ mờ trắng, đi ngoài xa xa,
Lòng bâng khuâng tôi nhớ đến người Mẹ già miền Nam, ôi xót
xa!
Tủi thân người lữ thứ ôm mối sầu ly hương.
Đến đây một chiều Thu sương Thu buồn ôm khói trắng.
Mòn mỏi dừng chân sau những ngày mưa gió.
Phong trần xóa tan chuỗi ngày xanh đời tôi
Nghe chăng, tiếng thiết tha buồn nhớ quê nhà!...”
Một lúc lâu lắm Huyền mới nhận ra, đó là bản Bến-Thu mà ông
Dư, biệt hiệu Điệp-Linh, đã sáng tác trong thời gian tản cư!
Thời đó, Ông Dư bị Việt-Minh tẩy não từng đêm vì tinh thần ủy
mị và tư tưởng lãng mạn; vậy mà ông Dư cũng không sợ, vẫn gửi về Mẹ và quê
hương tất cả tình thương yêu nồng nàn và tha thiết nhất của Ông.
Còn Huyền, chỉ vì chút định kiến nhỏ nhoi về chính trị mà
Huyền đã đành đoạn không tiễn đưa di hài của Mẹ về và cũng không về quê nhìn mặt
Cha lần cuối! Ý nghĩ này khiến Huyền ân hận ngập lòng, rồi nước mắt lặng lẽ
rơi. Huyền cúi mặt, từng giọt nước mắt ăn năn thấm xuống mộ phần người Cha khổ
hạnh!
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/