Thạnh năn nỉ:
“Mày thông cảm, tao
chỉ có hai thìa.”
Tường lắc đầu:
“Ba là ba.”
Thạnh thở dài:
“Hay mày cho tao
thiếu.”
“Thiếu? Rồi lấy gì
mày trả?”
“Thì…”
“Không.”
Thạnh thất vọng:
“Thôi thì, lấy cái
hạng nhì vậy.”
“Đưa đây.”
Thạnh móc trong túi
ra một miếng vải được buộc túm chặt bằng lạt tre, cẩn thận gỡ sợi lạt. Một dúm
muối hột đen bẩn hiện ra. Thạnh trân trọng, nâng niu múc, vừa chẵn được hai
thìa, đổ vào bát của Tường. Tường chăm chú nhìn Thạnh đong muối. Xong xuôi,
Tường chùi cái lưỡi câu thêm một lần trước khi đưa cho Thạnh. Thạnh cầm lưỡi
câu, mắt nhìn với theo bát muối trên tay Tường. Còn một ít muối vụn dính vào
miếng vải, Thạnh thè lưỡi chấm chấm. Vị ngọt lan nhanh trong miệng, nước bọt ứa
ra.
Những sợi chỉ tháo từ
cái ba lô rách trở thành dây cước, Thạnh buộc vụng về nhưng cẩn thận vào cái
lưỡi câu vừa “mua” được. Có thế chứ, cuối cùng mình cũng đã có được cái lưỡi
câu. Dù không bằng cái hạng nhất làm từ kim băng, nhưng, vẫn là một cái lưỡi
câu, hạng nhì.
*
Để chống lại cái rét
căm căm của mùa Đông núi rừng miền Bắc, hơn bốn chục người tù phải bốc thăm để
chia nhau một cái áo ấm. Ngoài sân, lửa phải đốt suốt ngày. Đêm, phải mang than
hồng lót dưới sạp nằm. Lúc nửa đêm, cái lạnh nhức xương làm Thạnh thức giấc,
than đã tàn, Thạnh ra đống lửa ngoài sân hút một điếu thuốc lào.
Vừa đặt điếu xuống,
Thạnh thấy thốn đau ở ngực, cổ họng như có cái gì muốn trào ra, mà không phải
là nôn. Chúi đầu xuống đống lửa, Thạnh há miệng, nước lẫn bọt từ trong ngực dồn
lên, rồi tự động tuôn ộc ra khỏi miệng từng đợt từng đợt.
Toàn, cũng không ngủ
được, đang ngồi hơ lửa, hốt hoảng kêu lên:
“Thạnh! Mày ói ra
máu!”
Thạnh đưa tay quệt
ngang miệng, giơ ra ánh lửa. Màu đỏ tươi dính trên tay áo. Thạnh lại gập người
xuống, há hốc miệng vào đống lửa, máu lại trào ra.
Toàn chồm tới, đưa
tay đỡ lấy ngực Thạnh:
“Để tao lên bệnh xá
xin thuốc cầm máu.”
Toàn đứng dậy, dợm
bước. Thạnh thều thào gọi giật lại:
“Thôi Toàn, để họ
ngủ.”
“Nhưng máu ra nhiều
thế kia.”
“Có thuốc đâu mà xin.
Mà… cũng không cần. Chỉ cần mày… làm chứng… cho tao… là đủ rồi.”
Làm chứng tao mửa ra
máu, may ra, tao sẽ được nghỉ lao động một ngày. Được nghỉ những nguyên một
ngày lao động… Bỗng dưng, đám máu tươi bầy nhầy không làm Thạnh sợ choáng người
như lúc vừa nôn. Ngược lại, nó đã trở thành những tia hy vọng.
Thạnh nhìn Toàn, hy
vọng…
Toàn chỉ lắc đầu, lẩm
bẩm trong miệng:
“Không có thuốc, rồi
làm sao qua được mùa Đông này…”
Thạnh đưa tay chận
ngực, hổn hển:
“Qua được hay không
qua được, nói làm gì. Mày nhớ… làm chứng… cho tao nghe.”
*
Cái phao động đậy,
Thạnh hồi hộp đợi. Cái phao vẫn động đậy. Chờ cho đến khi cái phao đứng yên,
Thạnh cẩn thận nhấc cần. Con giun mồi biến mất, chỉ còn trơ ra cái lưỡi câu.
Cái phao lại động
đậy, Thạnh hồi hộp. Cái phao đứng yên, Thạnh lại cẩn thận nhấc cần. Con mồi
biến mất, lại chỉ còn trơ ra cái lưỡi câu.
Cái phao động đậy.
Lần này, Thạnh không đợi nữa mà, vút… Thạnh giựt mạnh cần.
Nặng tay. Sợi dây
cước căng hết cỡ làm cong đầu cần.
Thạnh giựt giựt cần,
vẫn nặng tay.
Chắc là một con cá
to, phải là cá to chứ. Cái hố bom B-52 kín đáo, nằm khuất sâu trong rừng già,
mới chỉ có một mình Thạnh tìm ra. Cái hố bom mà Thạnh phải thật gian nan mới
vào đến được, chưa kể phải đánh dấu để khỏi lạc đường về trước khi trời tối.
“Một con cá to,” Thạnh nhớ ngay đến Toàn, chắc cũng phải tìm cách chia cho nó
một phần. Nghĩ đến đây, Thạnh hứng chí, mẹ, thằng vua “cờ tây” suốt ngày ngâm
nga “sống trên đời…”, con vật “ăn đủ thứ” ấy mà bạn tao còn khen ngon, thì
huống gì mày, cá ơi là cá! Bất kể mày ăn cái gì ở dưới hố bom này, chúng ông
cũng ăn mày, chúng ông cũng ăn mày cho đã đời. Thạnh liếm môi, hít hít mùi thơm
tưởng tượng, nuốt ực miếng nước bọt vừa ứa ra.
Nhưng, nhìn lại, cái
phao không còn động đậy, Thạnh đâm nghĩ ngợi. Nếu là cá to, thì cái lưỡi câu
hạng nhì và cái gọi là dây cước, nó chỉ cần táp nhẹ một cái là đã đi đời nhà ma
rồi, chứ sao lại nặng. Hay là… rắn? Hay… một con quái vật rừng già nào khác?
Hay là, lưỡi câu đã lọt thỏm vào giữa hàm răng của… một cái đầu lâu đã thành
tinh dưới đáy hố bom cũng là đáy huyệt? Thạnh chùn tay, đảo mắt nhìn quanh,
bỗng nhận ra, trong cái không gian âm u đầy đe dọa của núi rừng hoang rợ vào
lúc buổi chiều đang dẫy chết này, Thạnh chỉ có mỗi một mình, với cái hố bom ma
quái.
Gió bắt đầu thổi
mạnh, luồn qua khe núi, thốc qua những lùm cây, những bụi gai rừng, rít lên
từng chập. Tiếng côn trùng rền rĩ càng làm khung cảnh thêm thê lương. Thạnh gai
người, nhớ lại những đêm hành quân lởn vởn những xác người và chờn vờn những
bóng ma.
Nghĩ đến ma, Thạnh
nhớ lại câu chuyện một người lính kể vào một đêm trời cũng chập choạng tối như
đêm nay:
Đơn vị em vừa tái
chiếm một ngọn đồi, sau một trận đánh khốc liệt. Mùi máu tanh như vẫn còn vướng
vất trên những lùm cây. Em ngồi gác, trong bóng tối nhá nhem của buổi chiều,
khu rừng già trước mặt như vẫn còn đầy bất trắc. Trong không gian im vắng, đột
nhiên em thấy như có gì di động trong rừng cây. Phản xạ của một thằng lính gác
là mở chốt an toàn của khẩu súng trên tay. Nhưng trong khoảnh khắc, em chợt
nghe rõ “cách”, tiếng mở khóa an toàn một khẩu M-16 khác ngay bên cạnh. Em giật
mình quay lại, một thằng lính lạ mặt, không cùng đơn vị đã đứng cạnh em từ lúc
nào. Quái lạ và vô lý, em đang gác ca đơn, ca gác đơn không thể có hai người.
Thằng này ở đâu ra?
Nó nhìn em:
“Vô sự. Gió đấy
thôi!”
Kinh ngạc và hoang
mang, em hỏi nó:
“Mày là ai? Sao lại ở
đây?”
Nó co ro:
“Lạnh quá, cho tao
ngồi chung với. Giờ này là ca gác của tao.”
Rồi nó tự động lót mũ
sắt ngồi xuống. Em nhìn phù hiệu trên tay áo nó:
“Mày có lộn không?
Đây là đơn vị tao, mày về đơn vị mày mà gác.”
Nó cãi:
“Đơn vị tao ở đây”.
Nó vừa nói vừa chỉ
tay xuống đất, ngay dưới chỗ hai đứa đang ngồi.
Lúc em nhìn lên, nó
biến mất, em vụt nhớ lại khuôn mặt nó, khuôn mặt xanh lè của một xác chết, với
bệt máu còn đọng trên mép chưa khô, phù hiệu đeo trên tay là của một đơn vị bạn
từng đóng trên ngọn đồi này, đã chết không còn ai, trong một trận tấn công của
địch mấy tháng trước, xác không kịp mang đi, được lấp vội vàng tại đây, ngay
dưới chân vọng gác này.
*
Gió rít mạnh hơn,
tiếng rít của núi rừng hay tiếng rít ai oán của những thây ma đang nằm rên rỉ
dưới đáy hố bom? Thạnh rùng mình kéo cao cổ áo. Người anh em phía bên kia muốn
về báo hận ta chăng? Thôi, hận nhau làm gì nữa, các anh nằm dưới đáy hố bom thì
cũng đâu khác gì tôi đang ngồi dưới đáy vực của cuộc sống này. Nói cho cùng,
chúng ta không phải là đồng đội, nhưng là đồng nghiệp với nhau đấy chứ. Các anh
không thấy sao? Chúng ta đều là những người trẻ, đi lùng giết nhau để tranh
giành những thung lũng, những ngọn đồi đầy xác chết.
Thạnh dợm người, với
tay kéo mạnh chiếc cần câu. Chiếc cần vẫn cứng ngắc như có ai ghì lại dưới đáy.
Mặt nước bây giờ đã đầy bóng tối. Thạnh căng mắt nhìn.
Không còn thấy cái
phao.
Bõm…
Có ai vừa nhảy xuống
nước, hay tiếng của một vật gì rơi.
Thạnh giật mình hốt
hoảng, định bỏ chạy, nhưng cái cần câu trên tay kéo giữ Thạnh lại.
Và, Thạnh thoắt nghĩ
đến cái lưỡi câu.
Ừ, cái lưỡi câu.
Thạnh không thể để mất cái lưỡi câu. Hai thìa muối, cả một gia tài đã mất, một
quyết định lớn đã làm sau bao đêm suy nghĩ đắn đo. Cái lưỡi câu và những con cá
mơ ước, có lẽ nào Thạnh lại chịu thua.
Thạnh toát mồ hôi.
Phải quyết định. Giật mạnh cần thì sẽ mất cái lưỡi câu. Lội xuống nước mò theo
sợi dây cước tìm cái lưỡi câu thì… Thạnh rợn người không muốn nghĩ tiếp.
Bóng tối bây giờ dày
đặc. Thạnh co dúm người, gục đầu xuống hai tay đang ghì chặt chiếc cần câu.
Lạnh, và sợ. Nỗi sợ
hãi ập xuống cùng bóng đêm, cái lạnh cào xé cùng gió buốt. Thạnh run rẩy, tuyệt
vọng. Và muốn bật khóc. Nhưng cùng lúc ấy, hình ảnh cái lưỡi câu và những con
cá béo nhẫy hiện ra. Can đảm lên Thạnh ơi, chỉ cần mò theo sợi dây cước, lặn
xuống nước thì sẽ “cứu” được cái lưỡi câu, sẽ có cá ăn. Sẽ có cá ăn...
Bỗng dưng, Thạnh nhận
ra mình đang đói.
Cái đói cồn cào ruột
gan, cái đói quắt quay trí não, cái đói thúc giục chân tay, nó kéo đôi chân cong
queo của Thạnh đứng lên, nó đẩy thân hình xác xơ xiêu vẹo của Thạnh chập choạng
bước tới.
Thạnh nhắm mắt. Hai
tay ôm ngực chận cơn nôn. Méo miệng cười, nhào xuống nước…
Cao
Xuân Huy