
Có bữa, tôi chợt nhìn thấy vài đốm tóc trắng (li
ti) chen lẫn với tóc đen trên chiếc khăn choàng, phủ quanh mình, khi
đang ngồi hớt tóc. “Cái ông thợ cúp này làm biếng dữ, không thay khăn
mới, cũng không rũ sạch cái cũ nên nên mới còn sót lại tóc tai tùm
lum của người khách trước - một khứa lão (mắc dịch) nào đó,” tôi
nghĩ vậy.
Chiều: Ảnh
Kiều Minh.
"Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già" Tố Hữu.
Vài phút sau, tôi hốt hoảng nhận ra rằng: những vụn
tóc đen, lấm tấm cùng với tóc trắng xuất hiện mỗi lúc một
nhiều. Té ra, đó là tóc bạc của chính mình chớ còn “khứa lão”
(mắc dịch) nào vô đó nữa!
Chèn ơi, vậy mà tui cứ tưởng là mình còn
trẻ. Mái tóc của tôi, cách đây chưa lâu (lắm) hình như vẫn còn đen
thui lui mà. Chớ tụi nó bạc hồi nào vậy, Trời? Sao kỳ cục vậy, mấy
cha? Khi khổng, khi không cái tất cả chúng ta đều già cái rụp, và
già (ngang) hết như vậy sao?
Mà tuổi già thì như chuối chín, càng chín nó càng
mềm. Muốn cương cũng không được nữa, đành phải yên phận chịu (già)
thôi.
- Ủa, mà già thì đã sao kìa? Làm gì mà nẫy giờ
cứ chối đây đẩy, và cứ rẫy nẩy lên – như đỉa phải vôi - vậy cha
nội?
- Ý, đừng có tưởng chuyện giỡn chơi à nha. Già thì
lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và lôi thôi (luôn) cho đến chết. Coi: tuổi
già đâu có khi nào chịu tới mình ên. Nó đi cặp kè với đủ thứ những
chuyện (rất) bà rằn và lằng nhằng khác nữa: bệnh tật, chán chường,
cô đơn, thiếu hụt...
Đã vậy, cuối năm, ông bạn Huy
Phương kể chuyện (nghe) sao mà rầu muốn chết luôn:
“Trước ngày Giáng Sinh tôi có dịp vào viếng thăm một người
bạn sắp qua đời trong một nursing home. Trên hành lang dẫn vào phòng người bạn,
và ngay trước chỗ làm việc của nhân viên ở đây, tôi thấy nhiều ông bà cụ ngồi
trên những chiếc xe lăn, nhìn những người qua lại. Các cô y tá đã sắp xếp cho
các cụ ra ngồi trên hành lang đối điện với văn phòng làm việc, một phần để
trông chừng các cụ, một phần cho các cụ đỡ buồn. Nhưng các cụ nhìn sự vật một
cách dửng dưng, đôi mắt đờ đẫn, có người đã gục đầu xuống ngủ...”
Thiệt ớn chè đậu!
Tui biết chắc là ông Huy Phương không đặt chuyện để
hù em út nhưng, cùng lúc, tôi cũng biết rõ rằng cái cảnh “tầng đầu
địa ngục” - vừa được mô tả - không phổ biến lắm ở Hoa Kỳ hay Gia Nã
Đại. Cách phân chia chia tuổi già, và những công trình nghiên cứu khoa
học, ở hai quốc gia này, cho chúng ta những con số tương đối khả tín
và khả xác hơn – về vấn đề này.
Người ta chia ra tuổi già làm ba loại:
- Chớm già (young - old) là nhóm lớn nhất, chiếm
70%.
- Già (old-old) 20 %, kém hơn năng động hơn lớp trên
thấy rõ.
- Già quá cỡ thợ mộc (oldest-old) chừng 10 %. Trong
số này chỉ có 4 % - chớ không phải là 20 %, như nhiều người vẫn nghĩ
- đang sống ở nursing home hay bệnh viện (Palmore et al. 2005 Encyclopedia
of ageism, Binghamton, NY: Haworth).
Như vậy, chính xác, chỉ có 4 % người già - thuộc
nhóm cuối cùng - sống ở viện dưỡng lão thôi. Đa phần còn lại đều
có cuộc sống bình thường trong cộng đồng. Nhưng khách quan mà nói
thì sống ở đâu chăng nữa thì khi đời đã về chiều cũng khó mà
vui.
Xã hội, rõ ràng, chưa bao giờ chuẩn bị chu đáo cho
những công dân lão hạng để họ bước vào giai đoạn (hụt hẫng) còn lại
của kiếp người. Đến tuổi hưu chúng ta bỗng dưng trở nên một người
nào khác, không còn vai trò gì rõ rệt nữa trên cuộc đời này. Và
hoàn cảnh sống (rồi) cũng khác luôn, thời giờ thì dư mà tiền thì
thường thiếu. Đôi khi, lơ ngơ không biết làm gì cho nó hết một ngày.
Nói chi tới một tuần, một tháng, hay cả một (hay hai)... chục năm sắp
tới!
Làm sao sống an vui và có ý nghĩa, cho những năm
tháng còn lại, là một câu hỏi khó - đối với phần lớn những công dân
lão hạng - ở những quốc gia phú túc. Những định chế xã hội hiện
hữu không có câu trả lời, và cũng không có những chức năng hổ trợ,
cho sự an lạc của tuổi già.
Đây là chuyện riêng của từng cá nhân. Vị tha hay vị
kỷ? Thủ cho nó chắc ăn hay xả láng, sáng về sớm là tùy ý mỗi người.
Không có tổ chức, cũng không có cá nhân nào – kể cả vợ chồng con
cái – có thể đóng góp gì nhiều, cho bất cứ ai, vào giai đoạn cuối
cùng của kiếp nhân sinh.
Ở Việt Nam thì khác. Câu hỏi thiết thân của tuổi
già không phải là sống ra sao mà làm sao để sống? Vấn đề, xem chừng,
có vẻ giản dị hơn nhưng vẫn là một câu hỏi khó đối với rất nhiều
người dân cao tuổi!
Những định chế xã hội (cơ quan, ban ngành, đoàn thể,
hội hè... thổ tả gì đó) thì có rất nhiều và cũng rất thừa. Chúng
hoàn toàn vô can, cũng như vô trách nhiệm, với cuộc sống của những
công dân lão hạng.
Đảng, Nhà Nước và Nhân Dân là ba phạm trù luôn luôn
đi liền, và gắn bó mật thiết với nhau, khi có nhu cầu tuyên truyền
hay đóng góp. Đâu cần nhân dân có, đâu khó có nhân dân. Khó
trăm lần, dân liệu cũng xong. Nhưng chuyện sống còn và an sinh của
mỗi công dân - vào lúc cuối đời - lại là chuyện thuần túy có tính
cá nhân. Đảng và Nhà Nước tuyệt đối không dính dáng gì (ráo) vào
chuyện đời của Nhân Dân khi trăm họ đến giai đoạn sức cùng, lực
kiệt.
Cách đây chưa lâu, báo chí trong nước đồng loạt đăng
tin (Cụ ông gần
trăm tuổi đạp xích lô) của phóng viên Văn Nguyễn:
“98 tuổi, cụ Đặng Huyền vẫn được người dân quen gọi là cụ
Huần, ngày ngày vẫn đạp xích lô chở khách kiếm sống. Cụ thường bắt đầu một ngày
làm việc từ khi trời còn mù sương.Trong hội thi diễu hành xích lô ở Festival
làng nghề truyền thống Huế, cụ Huần được vinh danh là người lái xích lô có tuổi
nghề nhiều nhất tại Huế.”
“Con trai duy nhất bỏ quê vào Nam làm ăn, hơn 30 năm nay
mất liên lạc, giờ cuộc sống gia đình cụ chỉ biết nhờ vào đồng công đạp xích lô
và sự đùm bọc của làng xóm...Ngoài kiếm tiền nuôi bản thân, cụ Huần còn nuôi cụ
bà Trần Thị Lặc, 86 tuổi, thường xuyên đau ốm.”
Cụ Đặng Huyền. Nguồn: vnexpress
Kiểu “vinh danh” này, xem ra, có vẻ hơi kỳ. Phản hồi
của độc giả Lê Thu Hiền cũng lạ kỳ không kém:
“Cụ Huần thực sự là người đáng khâm phục vì sức khỏe, sự
bền bỉ và dẻo dai của mình. Cuộc sống thêm lần nữa được minh chứng rằng không cần
sự giàu sang phú quý, nghèo mà vẫn bền bỉ lao động vẫn tạo ra cuộc sống có ý
nghĩa, sức khỏe niềm tin và hạnh phúc cho riêng mình.”
Cụ Phạm Đờn, một công dân Việt Nam lão hạng khác,
lại ở vào một hoàn cảnh sống khác, kém “ý nghĩa” hơn. Bà cụ, xem
chừng, đã không có khả năng tạo được “niềm tin và hạnh phúc cho riêng
mình” – theo như tường thuật của ký giả Hải Luận, trên Tuổi
Trẻ Online:
“Đêm mùa đông rét như cắt da cắt thịt, cụ Phạm Thị Đờn,
76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ thể
chỉ như da bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới biển
mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày... Từ 1 giờ sáng đến gần 11 giờ trưa trong bụng
không có hột cơm, ngâm mình trong giá rét... nhưng chỉ bán được 17.000 đồng.
Giá trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp lúc sóng to gió lớn
chỉ được 5.000-7.000 đồng.”
Cụ Phạm Đờn cũng không được đoàn thể, hay tổ chức
nào, “vinh danh” hết trơn hết trọi. Lý do, có lẽ, vì “mò cua bắt ốc”
không phải là loại hình lao động được coi là vinh quang - theo tiêu
chuẩn văn hoá của dân làng Ba Đình, Hà Nội.
Cụ Phạm Đờn. Nguồn: Tuổi
Trẻ Online
Ông Nguyễn Văn Thành, còn có tên gọi là Lão Thành -
một người mù, đang bán vé số để làm kế sinh nhai - cũng rơi vào
trường hợp (không nằm trong tiêu chuẩn được vinh danh) tương tự. Phóng
viên Giang Uyên - báo Bưu
Điện Việt Nam – đã không quá lời khi dùng từ ngữ “quăng quật” để
mô tả cuộc sống vất vả (ngoài sức tưởng tượng) của người đàn ông
khuyết tật, xấu số này:
“...đến giờ tên tuổi của cụ cũng chỉ còn là ký ức... mỗi
ngày ông vẫn phải tự đi kiếm ăn qua tấm vé số và cuộc sống ‘tự lập’ nơi đầu đường
xó chợ... Dù đã già yếu lắm rồi nhưng ngày ngày lão Thành vẫn phải lê bước đi
khắp nơi để bán vé số tự nuôi thân. Có những hôm lão ốm nằm một chỗ nhiều ngày
liền. Bụng đói không chịu đựng nổi, lão lại lọ mọ dậy bước liêu xiêu ra đường
tìm đến đại lý vé số lấy vé đem bán."
Ông Nguyễn Văn Thành. Nguồn: ictnews.
Tương tự như hai bài phóng sự viết về cuộc đời của
cụ Phạm Đờn và cụ Đặng Huần, bên dưới bài viết về ông Thành cũng
có những dòng chữ cuối - chỉ dẫn cách giúp đỡ đương sự - như sau:
“Mọi sự hỗ trợ của cộng đồng, độc giả đối với trường hợp
ông Nguyễn Văn Thành có thể chuyển đến tận tay ông trước cửa Trung tâm tư vấn
pháp luật công đoàn, thuộc Liên đoàn lao động tỉnh Đồng Nai, địa chỉ số 14, Bùi
Văn Hòa, phường Hòa Bình - TP Biên Hòa.”
Không thấy ông nhà báo gì đến sự hổ trợ của Đảng,
Nhà Nước, hay những ban ngành hội hè vớ vẩn gì đó - của Mặt Trận
Tổ Quốc. Trong cả ba bài phóng sự thượng dẫn cũng đều có không một
chữ nào đề cập đến nguyên nhân, và trách nhiệm - của bất cứ ai - về
những mảnh đời te tua và bầm dập của những công dân lão hạng kể
trên. Cứ như thể họ là những người thuộc một quốc gia hay hành tinh
nào khác, chứ không phải là những công dân của nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam.
Tôi chợt nghĩ: lỡ sáng mai bà Phạm Đờn hay ông
Nguyễn Văn Thành khi mở mắt ra và (bỗng) thấy mình đang sống trong
một cái nursing home ở California - giường êm nệm ấm, cơm bưng nước rót,
cam tươi sữa hộp cạnh bên, cả đống y tá bác sĩ lăng xăng kế cận - mà
không dưng muốn... rơi nước mắt! Hai vị dám tưởng là mình đã lên tới
thiên đường dù thực sự là họ vừa lạc vào tầng đầu địa ngục,
theo như cách nhìn của nhiều người đang sống ở những quốc gia không
có Độc Lập -Tự Do - Hạnh Phúc - như ở nước ta.
Tưởng Năng Tiến