Hình cũ trong Phở Xe Lửa. Từ trái: Người viết, Chủ nhân
Nguyễn Thế Toàn, Họa sĩ Đinh Cường.
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia, đã
góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Nhà văn Võ Phiến nhận
xét về các nhân vật trong ba tập truyện của Phạm Thành Châu đã xuất bản, phải
kêu là tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế. Ngoài truyện, tác giả còn viết
nhiều tự sự mà ông gọi là “tạp lục”. Sau đây là tự sự về bạn già Virginia của
tác giả, nhiều người nay đã không còn nữa.
1. Phở Xe Lửa, Chợ Eden...
Tiểu bang Virginia và các vùng phụ cận (Washington DC, Maryland) có độ bốn, năm
chục nghìn người Việt, có thương xá Eden (gọi là chợ Eden) với hàng trăm cửa tiệm.
Mỗi cuối tuần hoặc ngày lễ, người Việt các nơi tụ về chợ Eden để ăn uống, mua sắm
và lang thang trên các hành lang chợ...cho vui.
Trước năm 1980, người Việt chưa có bao nhiêu, chợ Eden gần như hoang phế, cỏ mọc
tùm lum, vài cửa hàng lèo tèo. Khi người Việt đến mướn chỗ để buôn bán, chợ trở
nên sầm uất. Chủ chợ là người Do Thái, bắt đầu lên giá mướn, cứ lên giá liên tục,
hiện nay hình như 50 đô la cho mỗi square foot (một năm) và có thể sẽ lên giá nữa.
Tôi không biết giá đó mắc hay rẻ, nhưng đã có nhiều bà “tưng bừng khai trương”
và ít lâu sau bán nhà để trả tiền mướn chỗ trước khi “âm thầm dẹp tiệm”. Bà nầy
rút lui thì bà kia nhào ra làm con thiêu thân. Tôi nói “bà” vì đa số các bà mở
tiệm ăn. Ở nhà, nấu dở, nhưng chồng con “phải” khen ngon, các bà tưởng thật,
bèn mở tiệm ăn. Để rồi mất ăn, mất ngủ và mất nhà.
Chợ Eden là chợ duy nhất ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ không có “người ngoại quốc”,
nghĩa là người bán, người mua và người đi chơi toàn người Việt. Hiếm hoi lắm mới
thấy một bà dẫn ông chồng Mỹ đi ăn tiệm.
Chợ Eden có nhiều tiệm ăn, trong đó có tiệm phở Xe Lửa của ông Toàn Bò là nhiều
người lui tới, vì đó thường được làm điểm hẹn của bạn bè phương xa đến
Virginia. Ông từ Florida lên, bà từ California qua, cứ hẹn gặp nhau ở tiệm phở
Xe Lửa của ông Toàn Bò là ai cũng biết, cũng đến đúng chỗ. Ông chủ tiệm phở tên
Nguyễn Thế Toàn nhưng mọi người gọi ông là Toàn Bò, mặc dù ông ta vẫn đi trên
hai chân như người bình thường.
Trong tiệm, ông dành sẵn một bàn riêng cho bạn bè. Họa sĩ, nhà báo, nhà thơ,
nhà văn...hoặc không “nhà” gì cả cũng có thể đến ngồi tán phét bao lâu cũng được.
Lại có sẵn một bàn cờ tướng cho thiên hạ chơi, giống như quán cắt tóc bên đường
ở Việt Nam vậy. Có điều lạ là ngồi vào bàn đó, không ông nhà báo nào nói về báo
chí, không ông văn, thi sĩ nào nói chuyện văn chương, thi phú mà toàn những
chuyện tào lao thiên địa, mỉa mai, chọc ghẹo nhau để cười với nhau. Riêng ông
chủ Toàn Bò, vốn là luật sư trước 75, nên khi nói chuyện, ông ta lý luận rất vững
chắc, “tam đoạn luận” đàng hoàng, cho nên dù bạn là nhà hùng biện, khi tranh luận
với ông ta, bao giờ bạn cũng đuối lý. Sau khi đã chiếm thượng phong, ông ta bồi
thêm một câu mỉa mai để quí vị ngồi quanh bàn cười khà khà. Nhiều ông không biết
đó là giỡn chơi nên tự ái, không thèm ghé tiệm nữa.
Ông Toàn Bò không bao giờ bước ra khỏi tiệm phở. Sáng đến mở cửa tiệm, tối đóng
cửa tiệm, về nhà. Quan, hôn, tang, tế... không có ông ta. Bạn là bạn thân của
ông ta, lăn ra chết, chưa chắc ông ta đến vĩnh biệt bạn. Lời chia buồn trên báo
thì có. Nhưng đừng tưởng ông ta không ra khỏi tiệm mà kiến thức của ông ta
không được cập nhật hóa. Cứ thấy ông ta ngồi lim dim mắt mà tưởng ông ta tham
thiền nhập định, chuyện thế gian gác bỏ ngoài tai. Không phải vậy. “Thiên lý
nhĩ” đấy! Ngồi trong “tiệm phở” mà biết chuyện ngàn dặm. Bạn thử đến và khơi
mào “Hôm qua, ông X. bị sao đó, nghe nói đã đưa vô bịnh viện rồi. Tôi định rủ
vài ông nữa cùng đến thăm...” Tức khắc bạn sẽ được điều chỉnh “Trễ rồi ông ơi!
Vừa tắt thở lúc một giờ sáng, đã đưa sang nhà quàng rồi. Ông có muốn chia buồn
thì ghi tên vào tờ giấy đằng kia, để đưa lên báo”... Nhiều lúc thấy một ông, bà
nào đó thì thầm với ông Toàn Bò. Rất có thể (có thể thôi), tình báo nước ngoài
đến mua tin tối mật của nước Mỹ đấy.
Phở Xe Lửa của ông Toàn Bò là tiệm duy nhất trên nước Mỹ có một tủ sách đồ sộ
và trên tường treo đầy tranh. Không phải tranh trang trí như vẽ tô phở, con cá
chiên, chùm nho, chai rượu hoặc tranh tào lao, rẻ tiền... mà là tranh nghệ thuật
của các họa sĩ danh tiếng. Tranh chính gốc chứ không phải bản sao. Người ta hỏi
mua, ông không bán.
Hầu như họa sĩ nào đến tiệm phở của ông Toàn Bò đều phác họa cho ông ta một tấm
chân dung. Bức nào cũng vẽ ông ta cười toét miệng đến mang tai. Vì dung nhan
mùa hạ ông ta không khá lắm, nên gặp họa sĩ trườu tượng, ấn tượng, biểu tượng,
siêu thực hoặc hậu hiện đại... thì dung nhan đó được vẽ thành của người khác.
Không giống ai!
“Ủy Ban Thường Trực” (ngồi nhiều nhất) ở phở Xe Lửa cũng khá đông. Ông Cò Ly,
nhà (bán) báo, có sạp báo trước cửa phở Xe Lửa, chỉ “mở cửa tiệm” sáng thứ bảy
và chủ nhật, ngày thường ông bận nhổ lông mày, đấm lưng cho người đẹp. Họa sĩ Tấn
Đức có tiệm khung hình giảm giá 75%. Ông Bình Gió Mới đã đóng cửa tờ Gió Mới.
Ông Bạch Thái Hồ, gặp ai cũng mở máy ảnh ra, đòi chụp hình “Ngồi yên... Xong rồi!
Hình sẽ đẹp lắm đấy!” Ông Ngô Đình Châu, “vũ sư điệu cha cha cha” vì bị strock,
đi lạng quạng như nhảy cha cha cha. Ông nầy vừa ngồi xuống lại lò mò ra ngoài
tiệm “ba mươi giây khói lửa” (hút thuốc). Ông “cựu” dược sĩ Thịnh, vô tiệm, ngồi
xuống là mở máy nói. Thấy tôi thì kêu lên “Vua phịu!” (phịa?) Coi bộ ông ta giỏi
như bác sĩ, bịnh gì cũng biết, thuốc gì cũng biết. Bịnh hoạn, cứ hỏi ông ta, miễn
phí.
Ngày xưa, ở Việt Nam, đau đầu, nhức răng, trẻ khóc đêm...bất cứ bịnh gì, cứ ra
tiệm thuốc tây khai bịnh với dược sĩ, mua thuốc về uống, công hiệu như thần.
Ông bác sĩ Dương Quan Hớn, chuyên về mắt, nhưng bịnh nhân đến chữa trị phải chuẩn
bị đôi tai để nghe ông ta nói liên tục những chuyện ít liên quan đến mắt. Trước
đây còn có ông Giang Hữu Tuyên, chủ báo Hoa Thịnh Đốn Việt Báo, nổi tiếng với
bài thơ “Trời Mưa Đi Phát Báo”, chưa vào tiệm đã nghe oang oang giọng ông ta.
Năm kia, ông ta bị đứt gân máu và biến mất trên thế gian (quá cố).
Riêng họa sĩ Đinh Cường, tôi xin dài dòng một chút. Ông Đinh Cường rất nổi tiếng,
được nhiều người viết và đọc về ông ta trên “net”, trên báo vì những chuyện
không ăn nhậu gì đến hội họa cả. Ông nầy ít nói nhưng vẽ thì đẹp. Ở Sài Gòn, đã
có tranh giả của Đinh Cường. Người nào ra sách, thơ mà có cái tranh bìa của
Đinh Cường thì tác phẩm trở nên sang trọng và giá trị ngay. Ông ta rất thiện
chí, ai xin tranh bìa cũng cho, có khi đưa ra nhiều bức để người xin lựa chọn.
Tôi hỏi “Phải chụp hình, sang hình tranh mình rồi đưa cho người ta. Có cà phê
cà pháo gì không?” “Chỉ có tờ Đặc San Cựu Sinh Viên Hành Chánh Miền Đông có tặng
chút chút để uống cà phê thôi. Nhưng tờ đó mỗi năm chỉ ra một lần!” Có thể xếp
quí vị xin tranh bìa kiểu “chùa” nầy (trong đó có tôi) thuộc giai cấp bóc lột
và trơ trẽn. Trơ trẽn mà tưởng như mình ban ơn cho ông ta, chỉ thiếu điều chưa
nói “Ông hân hạnh lắm mới được tôi dùng tranh ông làm bìa “đại tác phẩm” của
tôi đấy nhé!”.
Nói thế nhưng không phải ai cũng vô ơn cả. Có nhà thơ Thái Thụy Vi, khi xin
tranh bìa đều có cà phê, cũng chút chút, để tỏ lòng trân trọng và biết ơn. Ông
nhà thơ nầy yêu màu tím vô cùng. Thi phẩm nào cũng tràn trề màu tím. Cái tranh
bìa cũng màu tím. Một lần, đã xin được tranh bìa màu tím cho tác phẩm của mình,
mấy hôm sau, nhà thơ lại xin được gặp họa sĩ ở tiệm cà phê. Trò chuyện một lúc,
ông Thái Thụy Vi dúi vào tay ông Đinh Cường một tờ bạc “Cái tranh bìa đẹp lắm,
nhưng nhờ anh cho thêm màu tím vào cho tím hơn nữa”. Màu sắc, đậm nhạt được
đánh giá bằng tiền?
Trở lại tiệm phở Xe Lửa của ông Toàn Bò. Chủ nhật nào tôi cũng rủ họa sĩ Đinh
Cường ra đó uống cà phê. Tôi có viết linh tinh chút đỉnh, được quí vị ngồi ở
bàn thường trực đó vinh danh là “nhà văn”. Tôi khoái lắm. Sau lại được thăng cấp
thành “nhà tiểu thuyết”, tôi càng khoái, mặt vênh lên. Không ngờ cái mỹ danh
“nhà tiểu thuyết” bị rút gọn thành “nhà tiểu”. Họa sĩ Đinh Cường cũng được vinh
danh là “đại họa sĩ”. Cũng xứng thôi. Nhưng rồi được rút lại thành “đại họa”.
Thế là mỗi khi chúng tôi bước vào tiệm phở Xe Lửa, quí vị đó nhao nhao lên
“Chào nhà tiểu. Chào đại họa gia!”
2. Tuổi Già
Lần trước, tôi có kể chuyện bọn già chúng tôi, mỗi sáng chủ nhật, tụ tập trong
tiệm phở Xe Lửa của ông Toàn Bò, chợ Eden, Virginia, cà phê cà pháo, nói chuyện
tào lao với nhau. Cứ thế, đã gần chục năm nay rồi.
Cái bàn mà ông chủ tiệm dành riêng cho bạn bè tụ tập, đặt ở góc tiệm. Ông ta ngồi
đầu bàn, coi như chủ tọa. Hai bên là hai dãy những ông nhà báo, nhà văn, nhà
thơ, “nhà họa”, và chẳng “nhà” gì cả, ít nhất cũng trên mười người. Đôi khi
đông quá, phải ngồi bàn bên cạnh, nghếch mặt qua “đối thoại”. Nói nhiều nhất là
mấy ông nhà báo. Các ông “nhà” khác ít nói chỉ ngồi nghe và cười. Đó là nói thời
“hoàng kim”, cách nay đã lâu chứ bây giờ thì chỉ còn loe hoe mấy mạng. Những
chiếc ghế cứ trống dần.
Những người vắng mặt đi đâu? Thì đi đâu ngoài con đường ra nghĩa trang!
Quí ông kéo nhau ra họp mặt ngoài đó. Thực ra, cũng còn rất nhiều ông còn sống,
nhưng nằm nhà, đi không nỗi. Đôi lúc nhớ bạn, nhớ tiếng cười, nhớ những câu nói
móc nghéo, chọc ghẹo nhau, quí ông nầy lại mò ra, nhe răng cười tuy dung nhan
đã “xuống cấp” thê thảm rồi. Điển hình như ông N. V. T. mỗi khi đi chữa trị gì
đó ở bịnh viện, thường ghé tiệm phở Xe Lửa, nhưng khổ nỗi, ông ta đi ngày thường
(không phải ngày chủ nhật) nên cái bàn đó trống trơn, chỉ mình ông ta chóc ngóc
với ông chủ tiệm, chẳng biết nói gì, nói với ai! Ông chủ tiệm vốn nói nhiều,
cũng yểu xìu vì “lân thiếu pháo”! Ông T. không được khỏe, có nhếch mép cười
cũng đã là một cố gắng quá sức rồi. Thế nên cả hai ông, chẳng phải nhìn nhau mà
cùng nhìn ra cửa tiệm, hi vọng có ông bạn nào bước vô chăng?
Mỗi sáng chủ nhật tôi gọi ông Đinh Cường “Châu đây. Tính sao?” Bên kia đầu dây,
giọng lè nhè “Làm sớm nghỉ sớm. Tôi vừa ở Starbucks về đây” “Lên đường chưa? Độ
chín rưỡi có mặt nghe!” “Rồi!” Tôi cũng gọi ông Bình Gió Mới “Mươi phút nữa có
mặt ở Phở Xe Lửa nghe!” “O.K!” Thế là trên cái bàn rộng đó chỉ có ba ông già.
Lâu lâu, tấp vào, có ông Cò Ly, dược sĩ Thịnh, bác sĩ Dương Quang Hớn, giáo sư
Như Hạnh, ông Bạch Thái Hồ... Vừa ăn vừa chuyện trò cười nói, độ một giờ sau,
trả tiền, đứng lên. Có ông móc trong túi ra tờ giấy nhỏ, có ghi mấy món vợ sai
đi chợ, vài ông khác bày bàn cờ tướng “lên xe xuống ngựa”. Có ông còn nán lại
làm thầy dùi. Rồi thì tiếng la hét, cổ võ tưng bừng, có những câu không được
thanh nhã như “Coi chừng bị nước thượng mã...phong” Ông khác trấn an “Không
sao. Tướng xuất...tinh”. Chiến đấu gay cấn nhưng không ai nổi xùng, tự ái mà chỉ
cười. Đến trưa thì tan hàng, ai về nhà nấy, vợ chờ cơm ở nhà, còn lại ông chủ Toàn
Bò tiếp tục nhiệm vụ, mời khách ngồi, ghi thực đơn, thu tiền.
Về ông chủ tiệm phở Xe Lửa. Trước 1975, ở Sài Gòn, không ai dám gọi xách mé là
“Ông Toàn Bò” mà phải gọi là “Ngài luật sư Nguyễn Thế Toàn”. Luật sư lợi hại vô
cùng. Tôi đọc đâu đó câu “Luật sư, chỉ với cái cặp mà lấy của thiên hạ bằng một
trăm tên cướp có võ khí”. Bây giờ, nơi xứ người, không thể hành nghề hùng biện,
nhưng “cựu” luật sư Toàn mà mở miệng là có người tức chết được. Đấu súng có thể
thắng ông ta nhưng đấu võ mồm thì thua là cái chắc.
Xin trở lại chuyện mấy ông vắng mặt ở tiệm phở Xe Lửa. Tôi xin kể vài ông tiêu
biểu, vắng mặt nằm nhà vì bịnh. Chưa chết. Mấy ông già bịnh gì? Mỗi ông ngoài bịnh
cao mỡ (cholesteron), cao áp huyết còn “thủ đắc” cho riêng mình vài loại bịnh.
Kể từ trên đầu xuống chân thì có, trước hết “bịnh” đứt gân máu trên đầu, tiếng
Mỹ là Stroke. Bịnh nầy chết nhanh lắm. Không chết thì liệt nửa người, như ông
Ngô Đình Châu, (gọi là Châu Già). Lần trước tôi có kể rằng ông ta chống gậy đi
cà nhắc (theo điệu cha cha cha), vô tiệm phở, vừa ngồi xuống là đã đứng lên, lò
dò ra cửa “ba mươi giây khói lửa” (hút thuốc). Trước đây, ông còn sống, nay đã
“quá cố” rồi.
Xuống chút nữa, ngang ngực thì có bịnh nghẽn tim (heart attack) và ung thư phổi.
Nếu phát hiện kịp thì vẫn không sao, như ông B. G. M., cũng ung thư phổi nhưng
chỉ “chiếu đèn, chiếu điện” gì đó mấy lần, chẳng mổ xẻ gì, bây giờ vẫn phây
phây, sáng chủ nhật nào cũng có mặt ở tiệm phở. Ông nầy chịu nghe tán phét lắm.
Ai nói gì cũng cười một cách hạnh phúc. Xuống chút nữa có bịnh ung thư bao tử,
ung thư ruột, nếu cắt bỏ kịp thời cũng không sao, như ông “cựu” nhà báo U. Th.
Mấy năm nay vẫn sống hùng, sống mạnh.
Một bịnh khác nằm cạnh bao tử là bịnh ung thư gan. Tôi chưa nghe ai bị ung thư
gan mà sống nên không (có ai) được nêu tên ra đây. Viêm gan siêu vi thì chữa được.
Còn một bịnh nữa, nó mà xuất hiện thì tất cả “các cơ quan đoàn thể” của người bịnh
bị vạ lây. Đó là bịnh ung thư máu. Bịnh nầy, ở Mỹ chữa được, nhưng phải thường
xuyên thay máu. Ông “cựu” nhà báo N. V. T. bị bịnh nầy, thỉnh thoảng có ghé tiệm
phở Xe Lửa góp vài nụ cười.
Xuống chút nữa, ở điểm chiến lược, có bịnh tuyến tiền liệt. Mười ông hết năm
ông bị bịnh nầy nhưng giữ bí mật, vì bịnh đó làm mất khả năng của đệ tam khoái,
nói ra thì mặc cảm mình thua thiên hạ. Có một bịnh cũng chẳng làm ăn gì được,
đó là bịnh tiểu đường nhưng cũng chẳng chết chóc gì. Xuống nữa, ngang đầu gối
có bịnh sưng khớp, nghe nói ăn thịt bò hay ăn chao thì nó hành cho rên rỉ suốt
ngày đêm, uống thuốc thì bớt.
Tôi không phải bác sĩ, phét lác mấy giòng về bịnh hoạn của mấy ông già, đọc cho
vui, xin quí vị bỏ qua. Bây giờ xin kể đến vài ông vắng mặt vĩnh viễn. Người chết
không nói được nên tôi nêu tên rõ ràng mà không sợ bị phản đối. Trước hết là
nhà thơ Hoàng Trùng Dương. Làm thơ không có tiền nên ông ta làm thêm nghề xây dựng
nhà cửa. Ông ta có mấy tác phẩm thi ca, khi sắp cho ra đời đứa con tinh thần
(thi phẩm) thứ ba thì thình lình vướng bịnh ung thư gan cấp tính. Tôi theo ông
Dũng nhà in chở mấy thùng thơ đến giao vừa để thăm ông ta, thì thấy mặt mũi
vàng khè, nằm bẹp trên giường nhưng vẫn cười và thều thào “Tôi xuống trước, xây
nhà chờ mấy ông...”. Quả nhiên, “mấy hôm sau là đi”.
Tiếp theo là nhà thơ kiêm nhà báo Giang Hữu Tuyên. Thời sinh tiền, ông thuộc
hàng “ăn to, nói lớn”. Chân chưa bước vô tiệm phở đã nghe giọng ông Giang Hữu
Tuyên ồn ào, náo nhiệt khiến không khí trong tiệm vui vẻ, sôi động hẳn lên.
Chuyện ông Giang Hữu Tuyên qua đời như sau: Một buổi sáng, ông võ sư Vương Đình
Thanh cùng với nhà thơ Giang Hữu Tuyên lái xe lên phi trường Dulles nhận báo từ
Cali. gửi qua theo đường hàng không. Chờ một lúc thì ông Giang Hữu Tuyên bỗng
kêu lên “Đau đầu quá!” rồi gục xuống. Ông Vương Đình Thanh cũng kêu lên “Help!
Help!” Xe cứu thương đưa vô bịnh viện, không tỉnh dậy nữa. Cả tiệm phở Xe Lửa
xôn xao, kinh ngạc “Giang Hữu Tuyên chỉ trên năm mươi, còn quá trẻ, sao đi sớm
quá vậy?” Có ông phán “Tu mấy kiếp mới được chết như vậy. Chỉ đau đầu mấy phút
là xong ngay, khỏi phiền đến ai. Bịnh hoạn nằm một đống, thà chết sướng hơn”.
Giang Hữu Tuyên có một bài thơ nổi tiếng “Trời Mưa Đi Phát Báo”. Nguyên nhân
như sau. Sau 1975, ông Giang Hữu Tuyên nhanh chân chạy thoát. Qua Mỹ, ông cùng
với bạn bè ra một tờ báo. Thời đó, những người Việt qua Mỹ thèm hai thứ: nước mắm
và chữ Việt. Mấy ông cùng nhau bỏ tiền, bỏ công ra làm một tờ báo rồi đi phát
không cho đồng bào đọc. Bấy giờ làm gì có computer, máy chữ thì không có dấu,
phải thêm dấu vào, tiêu đề, chữ lớn thì cắt trong báo Mỹ, dán lên rồi đem in.
Hoàn thành tờ báo xong còn đi đến những nơi có người Việt tị nạn phát không.
Không phải chỉ những ngày đầu đến Mỹ mà cả chục năm sau, ông ta vẫn làm báo và
đi phát không cho thiên hạ đọc (sau nầy, chi phí nhờ quảng cáo bù vào). Sau đây
là bài thơ “Trời Mưa Đi Phát Báo” của Giang Hữu Tuyên mà tôi tin là có vị đã đọc
rồi
“Chiều ngã năm đường năm bảy ngã. Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi. Bao mùa mưa đã
im giông bão. Sao nước trường giang vẫn khứ hồi.
Mười mấy năm làm tên phát báo. Lòng buồn theo thành quách xa xưa. Những trang
tin dội từ quá khứ. Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa.
Mưa lót ngót đời loi ngoi mãi. Sáng chưa đi chiều lại mưa về. Mưa ngã năm từ
năm bảy ngã. Ngã nào cũng mưa và mưa thôi.
Xấp báo trên tay vừa ướt hết. Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay. Hình như những mùa
mưa thuở trước. Đang về làm ướt trái tim ai.”
Phần cuối bài nầy xin kể về cố thi sĩ Vương Đức Lệ. Trước 1975, tôi tưởng là
“cô”, sau mới biết là “ông” Lê Đức Vượng. Ông nầy bị ung thư phổi “Từ lúc trẻ,
tôi đã hút thuốc rồi” Ý nói là “Tôi làm tôi chịu”. Quí vị bị nhức đầu, đau bụng
hoặc đang bực mình điều gì xin thử viết một bài văn ngắn hoặc làm một bài thơ,
có được không? Có thể được nhưng không hay. Ông Vương Đức Lệ bị ung thư phổi,
bác sĩ lắc đầu, cho đưa về nhà “săn sóc” và “chờ”, vậy mà vẫn làm thơ. Thơ ông
rất hay. Tôi thường cùng ông Đinh Cường đến thăm, thấy đeo cái ống dưỡng khí
trên lỗ mũi “Không có nó, thiếu ôc xi, mệt lắm” nhà thơ giải thích.
Điều kỳ lạ là Vương Đức Lệ đang ở thời kỳ cuối của bịnh mà vẫn làm thơ được. Bịnh
trở nặng, ngất xỉu, tỉnh dậy, làm thơ. “Mong con, cha mẹ đợi? Nhớ em, ba chị chờ?”
Và chú em út cũng còn trông anh sao? Mong manh chỉ một đường sinh tử. Hai ngả
âm dương một lối vào...” “Bàn tay nào đây. Ai lay tôi tỉnh dậy?”
Một lần khác, ông lại ngất xỉu, tưởng đi luôn, gia đình gọi xe cứu thương đưa
vô bịnh viện cấp cứu. Ông tỉnh dậy, thấy mình còn sống, reo lên “Tử thần bắt hụt
ta lần nữa. Bạn mới mừng chung khóa nỗi vui. Bạn cũ buồn riêng ly rượu phạt. Ôm
vai bá cổ ngẩn ngơ cười! Đã mấy lần rồi tai giả điếc. Tử thần lay gọi mãi,
không nghe! Bởi còn lưu luyến duyên phàm tục. Mãi đợi người xưa lạc lối về...”
Ông còn viết những bài văn ngắn, ghi lại những đau đớn của thể xác, những cảm
nghĩ, những lưu luyến với thân quyến, bạn bè trong những giây phút cuối của cuộc
đời. Và rồi, ông bình tĩnh chờ đợi con tàu vô hình đưa ông vào cõi mịt mù “Bàn
tay nào vuốt mắt tôi. Ngón nào bấm nút châm mồi hỏa thiêu? Trăm năm mộng ước
còn nhiều. Trần gian nào dễ đủ điều nỉ non. Tử sinh nẻo thuộc đường mòn. Âm
dương đôi ngả vuông tròn đó thôi!” Vương Đức Lệ “lên đường” đầu năm 2008.
Sau đây là vài cảm nghĩ của tôi trước cái chết. Ai cũng chết. Mặt trời sẽ nguội
dần, quả đất sẽ biến mất. Sẽ không còn thời gian. Có một ông bạn, bị ung thư phổi.
Mổ xong, có vẻ khá hơn trước, gọi điện thoại nói chuyện với tôi. Tôi hỏi ông bạn
nghĩ gì về cái chết? Ông ta bảo, chỉ sợ giờ phán xét, sợ vào hỏa ngục. Ông ta
theo đạo Chúa nên mới tin có linh hồn, có thiên đường, hỏa ngục. Tôi chẳng theo
đạo nào, không tin có linh hồn nên chẳng hề bận tâm. Khoa học thực nghiệm không
chứng minh có linh hồn. Tôi chỉ mong ngủ một giấc rồi không thức dậy nữa, Đời
chẳng có gì để mà lưu luyến. Giá như có ông thần nào cho tôi sống lùi lại bất cứ
giai đoạn nào của đời tôi. Mười năm. Hai mươi năm. Ba, bốn mươi năm? Tùy ý.
“No. Thank you!”
Trên sân khấu cuộc đời, tôi là tên hề giễu dở. Bị lừa gạt liên tục. Thất bại
liên tục. Chỉ mong rằng, chết bình yên, đừng đau đớn, vật vã ngày này qua tháng
khác. Ông triết gia, giáo chủ nào cũng giải thích theo tưởng tượng của mình về
những gì xảy ra sau khi chết. Mỗi vị một cách! Rồi vị nào cũng chết! Cũng chẳng
biết đi đâu?
Bọn già chúng tôi đôi khi phân vân, không biết chết rồi linh hồn (nếu có) đi
đâu? Rồi “nhất trí” là nên tìm tôn giáo nào cho mình đi đến chỗ sướng nhất mà
theo. Nơi dành sẵn cho mấy nàng trinh nữ? Xin cám ơn. Già quá. Hom hem quá rồi.
Hay là thiên đường, nát bàn? Hoan hô! Nhưng trên đó có đàn bà không? Chắc là
không. Đã là thiên đường, nát bàn thì làm gì có đàn bà! Mấy ông già tào lao với
nhau, xin các tôn giáo (và các bà) bỏ qua cho.
Có lẽ, chết là hết, như ngủ mà không thức dậy. “Lai như lưu thủy hề, thệ như
phong. Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung” (Kim Dung trong Cô Gái Đồ Long: Đến
như nước chảy, đi như gió thoảng. Không biết đến từ đâu, về đâu?)
Phạm Thành Châu
23/08/2016