
GÀ NUỐT DÂY THUN
Thuở còn sinh thời, cha tôi là một
người nghiêm nghị, mực thước, đúng khuôn mẫu như những người cha vào thế hệ đó,
cách đây cả nửa thế kỷ. Sáng vác ô đi, tối vác ô về, công chức gương mẫu của
nhà nước. Ông chẳng nhúng tay vào việc gì trong nhà, tất cả đã có bàn tay tần
tảo của mẹ tôi. Thú giải trí của ông là uống trà tầu, chơi cờ, chăm sóc cây
kiểng. Anh em chúng tôi sợ ông một phép, vì ông rất dữ đòn, roi mây quất vun
vút, mấy ngày sau mông đít còn sưng vù, chỉ dám ngồi gượng nhẹ. Đó là những lần
phạm lỗi nặng, còn lỗi nhẹ thì nghe giảng moral lòng thòng, nhức óc. Trong bữa
cơm, anh em tôi lỡ đánh rơi vài hột cơm, thấy ông trừng mắt nhìn là biết có
chuyện. Sau bữa cơm, bọn chúng tôi phải lên nhà trên, ngồi ngay ngắn nghiêm
chỉnh nghe cha tôi giảng thuyết, nào là hạt cơm là hạt ngọc trời cho, không
được phí phạm, nào là công lao cầy cấy khó nhọc, một sương hai nắng mới có được
hột gạo mà ăn, chuyện này miên man sang chuyện kia, đến cả thuyết nhân duyên sinh
của nhà Phật, nào là hột lúa mọc thành cây là nhờ các trợ duyên gió, nước, mặt
trời, độ ẩm, lại phải nhờ sức người chăm bón, vun trồng, gặt hái. Mỗi hạt lúa
mang đủ hình ảnh đất nước, trăng sao, tiếng hò câu hát. Trong hạt lúa đã có sẵn
cành lá hoa trái của cây tương lai. Hạt lúa không hề hủy diệt, mà chỉ biến đổi
hình thể, trạng thái.
Cứ thế ông kéo dài cả giờ,
riết rồi bọn tôi nghe tai nọ, lọt sang tai kia, chán ngấy. Ngược lại mẹ tôi là
người đàn bà nhà quê ít học, nên thực tế hơn: “Đứa nào hay làm vãi cơm, kiếp
sau phải làm con gà, nhặt từng hột ở dưới đất mà ăn đó nghe.” Một hình ảnh
bằng ngàn lời nói. Con gà ở xứ ta, suốt ngày bới đất nhặt cỏ, mổ từng hột cơm
rơi vãi trên đất, trong cống rãnh, đôi khi còn tranh giành, nuốt sống cả con
giun đất dài thoòng, thấy mà gớm. Câu dọa của mẹ tôi có hiệu quả ngay. Tôi nhớ
suốt đời, được dịp là áp dụng liền. “Linda, con ăn cho cẩn thận, đừng đánh
đổ. Coi chừng kiếp sau phải làm con gà nhặt từng hột cơm dưới đất mà ăn đó nghe
không.” Con gái tôi cười khúc khích, diễu cợt. Dĩ nhiên là lần đầu, nó ngơ
ngác, tôi phải giải thích một lúc, nó mới hiểu tôi muốn nói gì. Những lần sau
thì nó cười, vì hình ảnh tôi đem ra dọa chẳng liên quan gì đến con gà nó biết
cả. Con gà nó nhìn thấy hàng ngày là những đùi, những lườn, những cánh, nằm
trên vỉ sốp bọc giấy bóng kính trong siêu thị mát lạnh. Quả tình là uy
quyền làm cha đã suy giảm thê thảm theo thời gian. Ngày trước, cha tôi giảng
moral, bọn tôi hơi tỏ vẻ lơ đễnh một chút là ăn đòn nát đít, bây giờ con gái
tôi cười tự do.
Còn thằng con trai, mỗi lần phải
chào các chú, các bác, nó ngọng nghịu, ấp úng, tôi nạt “Đồ gà nuốt dây
thun.” Nó ngẩn người ra như Mán rừng, chẳng hiểu gì cả. Còn hỏi lại: “Cái
gì hả bố?” Tôi tức mình, nhưng biết là nó bị oan. Suốt 19 năm qua đây, tôi chưa
hề lượm được sợi dây thun rơi trên vỉa hè, trên đường phố. Và cũng 19 năm nay
lũ con tôi trông thấy tận mắt con gà bằng xương bằng thịt có độc một lần.
CON GÀ MẸ
ĐIỆN, THẢM THAY
Lần đó, hình như vào ngày Phục Sinh,
ngay giữa một shopping mall sang trọng, tôi trông thấy một ổ gà con đang nở. Dĩ
nhiên không phải tình cờ có con gà làm tổ trong góc kẹt đâu, mà là triển lãm
trong lồng kính, bầy trên một bục gỗ cao nơi khách hàng qua lại nườm nượp. Tôi
mừng quá, vẫy mấy đứa con đến gần, cốt cho chúng nó được chứng kiến tận mắt sự
kỳ diệu của thiên nhiên, tạo vật. Lồng kính giống như một hồ lớn dùng nuôi cá
kiểng, sàn trải rơm, ở mỗi góc có một bóng đèn thắp sáng, bọc lưới sắt. Chính
giữa là ổ trứng có khoảng 15 quả. Trứng lựa đúng ngày, nên đã có một số con vừa
nở, vỏ trứng ngổn ngang. Tôi chỉ các con tôi chú ý vào một quả trứng đang nứt,
có gì ngọ ngoạy trong đó. Ít phút sau một chú gà con lông còn ướt nhẹp yết ớt
chui ra. Nó nằm thở dốc, mắt ngó nghiêng, hấp háy nhìn ánh sáng cuộc đời. Một
lúc sau, nó duỗi dài đôi chân, cố gắng đứng dậy, bước đi dò dẫm. Trong chốc lát
lông nó khô dần, nõn như một mớ tơ vàng óng ánh. Đôi chân nhỏ xíu, hồng hồng,
cái mỏ xinh xắn.
Các con tôi reo lên, trầm trồ. Nhưng
chẳng được bao lâu, chúng nó cũng chán, con gái thì theo mẹ vào tiệm bán quần
áo, thằng con trai chui vào gian hàng trò chơi điện tử. Tôi đứng xem đến lúc
đàn gà nở hết. Chúng đi dạo quanh lồng, nhìn cái này, ngó cái kia, mổ nhè nhẹ
vào những sợi rơm, vào mảnh vỏ trứng, chen chúc nhau dứng gần ngọn đèn điện,
miệng kêu chip chip nho nhỏ, mắt ngơ ngơ ngác ngác. Tự nhiên tôi thấy thương
tâm vô hạn. Đàn gà vừa mở mắt đã bị mồ côi, chắc chúng tưởng ngọn đèn điện đang
tỏa hơi ấm là mẹ chúng. Mấy đứa con tôi có nán lại coi, cũng không bao
giờ thấy được cảnh gà mẹ, gà con ríu rít bên nhau. Mẹ bới đất kiếm được chút
thức ăn, cũng gọi con lại nhường cho ăn. Đứa nào chạy chơi một lúc, mệt và lạnh
thì chui vào cánh mẹ sưởi ấm. Có con mỏi chân nhảy tót lên lưng mẹ đòi cõng đi,
trông thật dễ thương. Gặp điều gì nguy hiểm, đàn gà con chạy vội về nấp dưới
cánh mẹ, trong khi bà mẹ bình thường, hiền lành, nay phùng lông xù cánh trông
thật dữ tợn, sẵn sàng xông tới, quyết sống chết với kẻ thù. Đàn gà con tội
nghiệp trong lồng kính, chẳng được hưởng những diễm phúc đó, túm tụm bên nhau
dưới ngọn đèn ấm áp vô tri giác. Chúng kêu líp nhíp buồn thảm, “ngơ ngác như
gà con lạc mẹ.”
GÀ CÙNG MỘT
MẸ CHỚ HOÀI ĐÁ NHAU
Ở trại gà, còn thảm hơn. Cả chục ngàn
con sống trong một chuồng lớn, rộng mênh mông. Cùng một lứa tuổi. Cùng mồ côi
như nhau. Nở cùng một loạt trong máy ấp. Ngờ nghệch, mất thần như những đứa trẻ
trong cô nhi viện. Quanh quẩn đi lại trong một diện tích chật hẹp, đèn sáng
suốt ngày đêm. Ăn. Đi vài bước, không biết làm gì, lại ghé máng thức ăn, mổ vài
cái… ngày này qua ngày khác thẩn thờ ngơ ngẩn như một đoàn xác ướp Jombie. Buồn
tình thì cắn đá lẫn nhau. Làm sao biết đứa nào là anh em cùng một mẹ. Mới đầu
thì mổ chơi tựa như ngứa mỏ. Sau như mê đi. Mổ như điên. Lủng lưng, chảy máu.
Làn sóng bạo động như được khuyếch đại. Lan mãi ra. Cả đoàn xúm lại cắn mổ nạn
nhân tới chết, rút ruột ra ăn.
Không phải chỉ ở Mỹ mới có cảnh đó.
Cách đây 20 năm, tôi ghé thăm nhà anh bạn quen tại Sài Gòn, lúc đó phong trào
nuôi gà Mỹ lên tới cực điểm, gia đình nào cũng nuôi tối thiểu vài chục con,
kiểu kinh tế tự túc, hoặc lớn hơn nữa thì để dành nguyên một tầng lầu làm phòng
nuôi gà sinh lợi. Anh bạn đón tôi ngoài cửa, hý hửng khoe: “’Moi’ mới tìm ra
biện pháp thần sầu để ngừa vụ gà cắn mổ nhau. Cậu biết không, ‘moi’ với bà xã
vừa lấy kìm cắt hết mỏ lũ gà.” Tôi thán phục quá. Gà bị cắt mỏ không cắn
nhau được nữa, nhưng đau quá, làm reo không ăn. Có con bị làm độc, lăn quay ra
chết. Chuyện này có thật, tác giả không bịa một lời (1). Còn ở Mỹ thì sao? Cách
đây mấy năm, có một nhà khoa học ngành chăn nuôi nghiệm ra rằng ánh sáng đỏ làm
gà ít bị stress, bớt hung tợn cắn mổ nhau. Nhưng nhân viên cần đèn sáng để quét
dọn làm vệ sinh. Nhà khoa học bèn đưa biện pháp dung hòa: cho gà đeo contact
lens mầu đỏ. Tốn kém 10 xu một cặp kể cả công lắp.
GÀ ĐI BỘ
Gà Mỹ suốt đời ở trong lồng (có
nghĩa là mấy tháng đối với loại gà nuôi để ăn thịt, hay chính xác hơn là 47
ngày) không được vận động nên thịt bở bùng bục, nhão nhẹt. Người Việt chê,
nhưng người Mỹ thích. Đây là điểm nhà chăn nuôi muốn, vì dân Mỹ ăn gà dùng dao
nĩa, tách rời thịt ra khỏi xương, chứ không chặt ra từng miếng hoặc cầm cái tỏi
gà mà gặm như dân Việt, thành thử nếu thịt dai, gân xương dính nhằng nhịt, bán
không ai mua.
Dân tị nạn hồi mới qua, bắt buộc
phải ăn gà Mỹ bán tại siêu thị, dần dần tinh khôn hơn thấy dân Tầu cùng “gu”
như mình, nuôi theo kiểu thiên nhiên, thả chạy ngoài vườn, ngoài thức ăn chính,
còn bới đất, nhặt cỏ, bắt sâu bọ mà ăn, nên thịt thơm và chắc, do đó mua gà Tầu
dù giá đắt gấp đôi. Tại tiệm gà nhốt cả lồng, chỉ con nào chủ tiệm tính tiền
bán theo ký, cắt tiết, vặt lông, mười phút sau giao cho khách hàng, thịt còn
nóng hổi, đem về pha chế, nấu nướng tùy khẩu vị. Bà xã đem về luộc lên, xé
phay, trộn gỏi, mời bạn bè tới lai rai. Cắn miếng thịt gà đi bộ, lâu lâu nhai
nhằm cái xương cứng ngắc, mừng như tha hương ngộ cố tri. Rượu ngà ngà
say, tán dóc về những giai đoạn huy hoàng trong dĩ vãng, rỉ rả gặm chiếc cẳng
gà, cánh gà, sao thấy đời đáng sống quá. Cũng có bán cả vịt, vịt ta lẫn vịt
Xiêm. Vị nào thích ăn tiết canh, mua vịt về cắt tiết, xong đem lại nhà hàng nhờ
vặt lông dùm. Gọi là vặt lông, nhưng không phải bằng tay, mà bằng một loại máy
thô sơ, vặt từng con một. Gà được nhúng nước sôi, sau đó nhúng vào một loại
nước có chất keo, xong bỏ vào thùng thiếc. Thùng này hình tròn, có tay quay.
Thành thùng có các sợi thép tua ra như lông nhím. Gà được bỏ vào thùng, nhân
viên quay tay, vì có chất keo nên lông tuột ra dính vào thành lồng. Chỗ nào lông
còn sót, nhặt thêm bằng tay. Tác giả chưa được thấy máy vặt lông theo kiểu kỹ
nghệ (1 phút 90 con), nhưng chắc nguyên tắc cũng tương tự.
Các tiệm phở gà tại Mỹ, biết ý khách
Việt khó tính nên quảng cáo rõ là phở hoàn toàn làm bằng gà đi bộ.
NHẤT BÌ NHÌ
THỦ
Các cụ sành ăn, chê món thịt lườn
(thịt trắng –white meat). Các cụ nói thịt nạc quá, ăn bã và khô. Các cụ khoái
thịt đùi (thịt xám –dark meat). Bên Mỹ, lườn hay đùi đều có, nhưng còn đầu thi
tuyệt nhiên không thấy. Phao câu đôi khi thấy ở loại gà bán nguyên con. Da gà
cũng xuống giá. Hồi tôi mới qua tị nạn, ở nhờ nhà bảo trợ, thấy chủ nhà liệng
bỏ da, trong bụng tiếc hùi hụi, chép miệng như thạch sùng tắc lưỡi. Khi ra ở
riêng, bèn bảo bà xã đi mua mấy vỉ lưng gà về luộc ăn cho bõ thèm. Lưng gà béo
ngậy, da vàng ươm, ăn đã đời mà giá lại rẻ. Gặm một lúc năm bẩy cái, thống
khoái như được lên Niết Bàn (chả thế mà các cụ gọi là Tây phương cực lạc).
Được ít lâu thì ớn dần, bây giờ thì
sợ quá xá quà xa. Ở Việt Nam ăn phở phải gọi thêm nước béo, óng ánh những sao
mỡ, bây giờ bà xã hớt từng muỗng mỡ gà luộc đổ xuống cống. Mới đầu tiếc thót
ruột, ngoảnh mặt đi không dám nhìn. Riết rồi cũng quen.
TRỐNG CẮT
TAI, MÁI CẮT CỔ
Bên Mỹ người ta giết gà hàng loạt,
toàn bằng máy. Cái đầu được chặt phăng, rồi đưa qua máy. Nhúng nước sôi, vặt
lông, mổ bụng, làm lông với tốc độ 90 con một phút. Khủng khiếp chưa. Chẳng ai
rỗi hơi mà đọc cho chúng bài kinh cầu siêu để linh hồn chúng sớm siêu thoát đầu
thai kiếp khác. Mẹ tôi ngày xưa mỗi khi nhà có giỗ cần cắt cổ gà, là phải gọi
đến tôi, vì không hiểu sao cả nhà chỉ có tôi cắt tiết gà là chết. Mấy ông anh
tôi cũng cắt như vậy mà thả ra, gà còn chạy cà nhỏng, cái đầu lủng lẳng thấy mà
ghê. Trước khi cắt mẹ tôi lẩm nhẩm đọc bài chú: “Trống cắt tai, mái cắt cổ.
Hóa kiếp cho mày theo Phật Thích Ca. Đừng làm kiếp gà, người ta cắt cổ.” Tôi
vặt trụi lông ở cổ gà, đưa lưỡi dao sắc cắt đúng ngay mạch máu. Kể cũng lạ. Con
gà chẳng tỏ vẻ đau đớn gì cả. Nó lặng im, mắt mở nhìn ngang, nhìn dọc, bình
thản. Chả bù với con bò, tôi còn nhớ hồi nhỏ, nghe anh đồ tể ở gần nhà kể
chuyện, bò bị dắt đến lò sát sinh, linh tính biết là sắp bị giết, nó chùn lại
không chịu đi, sợ sệt, đôi mắt khóc ướt đẫm.
Tiết được hứng vào chiếc bát nhỏ. Độ
lưng chừng bát tiết, gà dẫy nhẹ vài cái rồi chết. Bây giờ có thuê tiền các con
tôi cũng chẳng dám cắt tiết, thế mà dạo đó tôi làm tỉnh bơ.
BÓI CẲNG GÀ
Gà được nhúng vào nồi nước sôi để dễ
vặt lông. Đôi chân được rửa sạch sẽ, trần nước sôi, để trên bàn thờ cúng cùng
con gà. Khi hạ lễ tôi có phận sự đem lên để cha tôi bói. Vào những ngày giỗ
chạp như vậy, cha tôi luôn ăn mặc chỉnh tề, hoặc áo the khăn đóng, hoặc áo vét
quần tây, vì ông là trưởng tộc, cả họ về ăn giỗ. Tôi đặt chiếc đĩa có đôi cẳng
gà trước mặt ông. Ông trịnh trọng hoặc nhấp ly trà tầu, hoặc đốt một điếu
thuốc, thong thả đeo chiếc kính trắng, cầm chiếc cẳng gà lên coi, chăm chú hết
sức. Lâu lâu lại hý hoáy biên chép. Tôi đứng ngấp nghé một bên, chờ đợi. Có bữa
cao hứng cha tôi gọi tôi lại gần, giảng giải: “Sở dĩ đem trấn nước sôi, vì
nếu luộc chín quá thì nứt ra, gọi là phá quản, không xem được. Chân gà có bốn
ngón, ngón sau được gọi là ngón nhỏ. Khi luộc các ngón chân quắp lại, hễ ngón
nhỏ chỉ vào ngón nào thì ứng theo đó mà coi. Chỉ vào ngón trong, thì thuộc về
việc trong nhà, chỉ vào ngón giữa thuộc về chủ thần, chỉ về ngón ngoài thuộc
về người ngoài; nếu chỉ vào khe các ngón thì gọi là chỉ không, không ứng nghiệm
việc gì cả. Trong giữa bàn chân nó gọi là trung cung, hễ chỗ trung cung được
đầy đặn thì cửa nhà phong vận, lõm xưống thì tất bị khổ sở.
Lại phải xem huyết điểm, đỏ hồng hào
là tốt, xám là xấu. Trong ba ngón tám đốt xung quanh chia làm tám cung: kiến,
khảm, càn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài theo phương vị trong Dịch, mỗi cung chỉ
một việc, hễ huyết điểm đóng vào cung nào thì việc hay dở nghiệm về cung ấy.”
(3)
Tôi nghe như vịt nghe sấm, chỉ thèm
được gặm chân gà. Gặm một lúc cả hai chiếc cho đã đời. Thèm nhưng không dám
đụng tới. Sở dĩ vậy vì mẹ tôi cấm bọn tôi ăn chân gà, sợ run tay, viết chữ “nguyệch
ngoạc như gà bới.”
Cha tôi coi xong, tôi đem chân gà
xuống bếp, luộc cho chín hẳn. Có khi cha tôi nhắm rượu với đôi cẳng gà (chắc
cẳng xấu). Có khi treo chúng lên, bên cạnh bàn thờ (chắc cẳng tốt). Lâu dần đám
cẳng gà khô quắt queo, gân guốc, như những ngón tay cụ đồ nho.
Cha tôi còn coi tướng đầu gà, đại để
cũng xem huyết đỏ thì tốt, đen thì xấu và xem huyết đọng ở tai hoặc mắt rồi hợp
với lẽ ngũ hành sinh vượng mà đoán. Thường thì cứ mỏ há, mắt nhắm là tốt, mỏ ngậm,
mắt mở là xấu.
Những ngày giỗ lớn, thế nào trên bàn
thờ cũng phải có một mâm xôi to, trên mâm xôi là con gà luộc nằm ngay ngắn, mỏ
ngậm một bông hồng. Con gà trống thiến mập tròn, da vàng ươm những mỡ khiến lũ
trẻ con chúng tôi trông bắt thèm nhỏ dãi.
Sau này đi lính, mỗi bữa nhậu đều có
quay đầu gà. Bữa nào số mạt, mỏ gà chỉ mình hoài, uống rượu say khướt. Anh nào
uống nhiều mà vẫn chì, tỉnh táo đến giờ phút chót, được hưởng cái đầu gà. Nhưng
lúc đó thường là đã ngất ngư, nhiều khi không đủ sức gặm nổi cái phần thưởng
vinh dự đó.
NGƯỜI MÁY ĂN
THỊT GÀ MÁY
Ở Việt Nam, vài tháng trước ngày
giỗ, tết, mẹ tôi đi chợ mua về vài con gà con, nuôi ở sân sau “cho nó nhặt
hột cơm rơi, cơm vãi, vài tháng béo tốt làm thịt là vừa. Hột cơm để rơi rụng
xuống cống rãnh, phải tội chết.” Tôi có phận sự rắc thóc cho chúng ăn mỗi
buổi chiều, trước khi gà lên chuồng. Biết hiệu, vừa thấy tôi ra vườn là cả lũ
gà vịt, ngan ngỗng chạy xúm lại chờ ăn. Thích con nào, tôi năn nỉ xin mẹ tôi
đừng giết, cho tôi nuôi để nó đẻ trứng gầy lứa khác.
Tôi nuôi nấng con gà từ ngày nó còn
nhỏ xíu, rồi lớn dần thành con gà mái tơ óng ả, bắt đầu làm tổ đẻ trứng. Thich
lắm. Mỗi lần đẻ xong nó kêu cục tác ầm ĩ là tôi chạy ra vườn, thăm ổ gà, nâng
niu quả trứng nóng hổi trong tay, rồi cất đi cho đủ số, chờ ngày gà ấp. Trứng
nở ra đàn gà con nhỏ nhắn xinh xinh lông mềm như tơ nõn, làm tôi sung sướng
hãnh diện lắm. Lâu lâu tôi xin mẹ tôi giữ lại một con gà trống, tập luyện nó
thành gà chọi, rồi cũng bắt chước người lớn ôm đi đá độ cùng lũ bạn hàng xóm.
Cũng bày đặt đếm lông, đếm cánh, xem vẩy chân, coi tướng gà. Nhiều khi đánh
nhau cũng chỉ vì đá gà thua, còn bị chọc ghẹo. “Chúng mày ơi, vẩy của gà thằng
Tèo là loại vẩy ‘hường tâm’.” (2).
Bây giờ nhớ lại những kỷ niệm thời
thơ ấu, tôi thấy tôi có nhiều dịp sống gần gũi với thiên nhiên. Đi học về, bỏ
cặp vào nhà là theo chúng bạn cầm giàn thun đi bắn chim, đào giun câu cá, bắt
dế mèn, chọi dế đá. Nhiều kỳ nghỉ hè được về quê ngoại chơi mấy tháng, hưởng
thú vui đồng quê, xem người ta tát mương bắt cá, gặt lúa tát nước. Ra đồng bắt
cào cào, châu chấu về nuôi chim sáo… Muốn biết bơi thì cho chuồn chuồn cắn rốn.
Tôi còn nhớ mãi kỷ niệm này. Thuở đó
còn ngu ngơ, nghe lời mấy thằng bạn lớn tuổi tinh quái hơn, bắt ngay con chuồn
chuồn ngô là loại lớn nhất, hàm răng như đôi bản kẹp khổng lồ. Vừa tụt áo may
ô, rón rén kê nó gần rốn, vừa sợ đau, vừa nghi ngờ không biết có linh nghiệm
không, thằng bạn bên cạnh dúi tay vào. Con chuồn chuồn nghiến hàm răng lại, đau
thấu trời xanh. Tôi la thất thanh cứ để nguyên con chuồn chuồn còn dính tòng
teng ở rốn nhảy đại xuống hồ. Ai ngờ chìm như cục đá, chân tay đập loạn xạ,
uống một bụng nước no, may nhờ bọn bạn vớt lên dùm, nếu không cũng chết đuối.
Khi hoàn hồn, nhìn xuống rốn, con chuồn chuồn ngô còn dính tòn teng, hai hàm
răng vẫn nghiến chặt. Hóa ra cu cậu cũng chết đuối. Thế mà đòi làm thầy
dậy bơi, không biết xấu hổ.
Nhìn lũ con tôi, tôi thấy đời sống
chúng thật nghèo nàn. Không có một thú vui thiên nhiên nào cả. Hết movie, TV,
lại chơi game, ngày cuối tuần thì đi shopping mall, chơi trò chơi điện tử, thấy
con sâu, cái kiến là dẫy nẩy, chu môi, nhóng mỏ kêu yuck yuck tùm lum,
vừa sợ, vừa gớm, tôi gọi đùa chúng là người máy, cũng như những con gà Mỹ ngây
ngô nuôi trong trại, suốt đời chân không chấm đất là những con gà máy. Người
máy ăn thịt gà máy, không hiểu thế hệ loài người được nuôi dưỡng trong thành
phố vài chục năm nữa sẽ đi về đâu?
BẢN LAI DIỆN
MỤC
Trên đường đi săn về, một người da
đỏ tình cờ lượm được quả trứng trên bãi cỏ. Đến nhà, đi ngang ổ gà đang ấp,
tiện tay anh ta bỏ quả trứng vào, rồi quên bẵng đi. Ít lâu sau, gà nở. Cái
trứng kia nở ra một loài chim xấu xí, chân cẳng co quắp, vụng về. Đàn gà con
chế diễu, tẩy chay nó. Hàng ngày nó lủi thủi theo đàn gà kiếm ăn, rất buồn cho
thân phận xấu xa. Một hôm đàn gà ra ngoài đồng trống. Trên trời xanh có đàn
chim ưng bay lượn. Con chim xấu xí ước ao nó có thể bay lượn như loài chim kia.
Đột nhiên một con trong đàn tách ra, xà xuống đậu dưới đất, dáng điệu oai vệ
dũng mãnh. Đàn gà chạy tán loạn sợ hãi vô cùng. Riêng con chim xấu xí không một
chút sợ hãi, và đột nhiên nó biết nó thuộc về giòng giống chim ưng. Kể từ đó,
nó không buồn cho số phận nữa. Lúc vắng vẻ nó tập bay. Và một ngày kia nương
theo trận gió lớn, nó bay bổng lên trời cao, vùng vẫy trong khoảng gian cao
rộng.
Chắc quí vị Phật tử từng đọc nhiều
kinh điển, thấy chuyện này cũng tương tự chuyện con sư tử mồ côi được đoàn cừu
nuôi dưỡng. Nó cứ tưởng nó là cừu, cho đến một hôm nó ra bờ suối, nhìn bóng
mình dưới nước, mới biết mình là sư tử, chúa tể sơn lâm. Chuyện này ẩn dụ rằng
ai cũng có Phật tánh, chỉ cần tìm biết về bản lai diện mục của mình, tu hành
tinh tấn là một ngày kia sẽ đạt thành đạo quả.
Phượng Hoàng đậu chốn cheo leo
Sa chân lỡ bước phải theo đàn gà
Tan rồi sóng gió can qua
Thay lông đổi cánh lại ra Phượng
Hoàng
Viết đến đây tưởng cũng tạm đủ mua
vui cho quí độc giả nhân ngày Xuân năm Dậu, tác giả xin ngừng bút, kính chúc
bạn đọc một năm an lành thịnh vượng và xin hẹn năm sau.
Trần
Quán Niệm
Chú thích:
(1)
Gà Mỹ cũng bị cắt mỏ, nhưng ngay khi
vừa nở. Lưỡi dao nóng, tác dụng như mỏ hàn, đốt cháy chất sừng nơi mỏ gà. Vì
còn non, thêm nữa 48 giờ sau khi mổ, con gà không cần ăn uống, nên dù mỏ bị đốt
cũng không ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe của gà như khi gà đã lớn.
(2)
Hầm tương
(3)
Phong tục
Việt Nam (Phan Kế
Bính)