
la plus
grande des conquêtes,
celle
qu'on fait contre
le destin
qui nous est imposé:
Hạnh phúc
là cuộc chinh phục
lớn
nhất trong các cuộc chinh phục,
là điều
người ta làm nhằm
chống lại
định mệnh đã áp đặt lên chúng ta.
L'héroïsme
est peu de chose, le bonheur est plus difficile:
Làm anh
hùng chỉ là chuyện nhỏ, có hạnh phúc mới là chuyện khó nhất.
-Albert
Camus
Sáng mồng
một tết, các con đứa đến trường, đứa đi nhà trẻ, hai vợ chồng mới thực sự được
ăn tết, có thì giờ đủ dài, có không gian yên ắng để hít vào lòng cái quê hương
yêu mến xa xưa xuân về, và cười nụ cười hạnh phúc về một thủa sum vầy. Lòng ấm
dần và tuyết cũng ấm dần. Phòng khách lâu nay thanh nhã với những bức tranh trừu
tượng đơn nét tây phương nhàn nhạt, nay có bạn phương đông đỏ chói đến chơi: Xuân
phong, đắc ý, tài nguyên quảng// Hoà khí, trí tường, gia nghiệp hưng. Ngày
xuân nâng chén ta chúc nơi nơi rộn ràng của ban hợp ca Thăng Long chen với Trái
tim anh chỉ đập cho em/ Ngày mai có đáng gì khi một thế giới mới lát nữa sẽ tái
sinh/ Con đường xuân hoa thêu, sao dệt – Ella Enlich thì thầm tiếp: - Küss
mich, halt mich, lieb mich!: Hôn em, ôm em, yêu em!
- Chỉ có động từ ”küss” của tiếng Đức
là diễn tả được cái êm dịu, sung sướng tuyệt đỉnh nụ hôn. – Nhung thì thầm và
nép gần hơn vào chồng mình.
- Ừ, nghe
như muốn hút cả thể xác lẫn linh hồn người mình hôn…
Nhung cười
rúc rích:
- Anh chỉ
tài xạo.
- Thì xem
đây – Nam vừa nói vừa chúi mặt hôn lên ngực vợ.
Thơm thơm
ngực mới lại tuôn suối nguồn.
Rồi nằm
dài thoả mãn, đầu kê trên đùi chồng đang vuốt tóc mình, Nhung kêu nhỏ:
- Anh ơi!
- Gì vậy
cưng?
Nàng nói
nửa như than, nửa như thở ra luồng hạnh phúc đang ứ đầy trong người :
- Buồn biết
mấy những người con gái không được một lần được người mình yêu cởi quần trong đời.Nhất
là giữa mùa xuân.
Rồi nàng
bỗng giật mình:
- Ấy chết,
nãy giờ hai đứa cứ mê mẩn, mà đèn trên bàn thờ ba Quỳnh tắt hồi nào không hay.
Mà bậy bạ quá, quên cả ba trên bàn thờ. Ba giận chết.
- Ba vui
thêm thì có. Ba vui cho tụi mình.
- Thôi, để
em thay hương, châm đèn cho ba.
- Ừ. Và
anh cũng sẽ đọc thơ cho ba nghe. Bài thơ mà ba đã viết lại trong một bức thiệp
tết in cành mai vàng vững vàng đỉnh núi và bỏ trong một chiếc hộp mà bà y tá
trưởng trao lại cho anh sau khi ba mất trong bệnh viện.
*
Thiếu tá
Quỳnh, tôi vẫn muốn gọi anh Quỳnh như thế, với lòng kính trọng, và thương mến.
Anh cùng đi vượt biên một chuyến với tôi.
Sau một lần
bị tù đậm vì ”tội” vượt biển và sau đó nhiều lần bị công an bắt hụt và trốn
chui trốn nhủi nhiều năm, tôi mới được gia đình bên vợ kiếm được một mối tổ chức
vượt biên, tại cuối mũi Cà Mau. Người mối này là một đại uý không chịu đi cải tạo
mà giả dạng làm nghề thiến heo, rong ruổi suốt giải đất duyên hải Miền Tây để
kiếm đường ra đi. Ông đã tổ chức nhiều chuyến. Chuyến nào cũng thành công,
nhưng tất cả những chuyến có ông đi, tàu ra đến ngoài khơi đều gặp bão, phải
quay vào bờ, mấy chuyến như thế, nên ông cho là mình không có số xuất ngoại,
ông tổ chức đưa người vượt biển để làm giàu. Mỗi đầu người, người lớn ba cây,
con nít hai cây. Mỗi chuyến khoảng 50 người, ông kiếm cả trăm cây vàng sau chi
phí. Ông thành công nhiều lần vì ông tổ chức, sắm sửa kỹ càng: Mua ghe mới
đóng, máy mới, tài công giỏi, và một hoa tiêu biết coi hải bàn, thường là một
sĩ quan QLVNCH, và một bãi xuất phát an toàn. Bãi xuất phát, thì không đâu bằng
Cà Mau với rừng đước rậm rì, chằng chịt dây leo và ngập nước quanh năm, kênh rạch
là những giải nước trống không có đước, nơi mà thời còn chiến tranh là mật khu
VC, nay biến thành nơi khai thác củi hoặc nuôi tôm cũng của các ông VC đó. Ông
đại uý thiến heo len lỏi vào được một chỗ như thế, quen được với tay trưởng
công an đã ở đó từ hồi hai bên còn đánh nhau. Những lần khề khà với hắn quanh
ly rượu sắn, thuốc rê dần dần thay thế bằng những chai rượu gạo, rượu nếp, thuốc
lá Ba Đình, Thăng Long, rồi khi đã bén mồi: rượu Jonhny Walker, thuốc lá Samít,
Con Mèo, và nhất là xà bông Zet, Palmolie thơm lừng chà trên thân thể mốc meo
lúc nào cũng bốc mùi sình lầy đã mấy chục năm của mấy chú du kích năm xưa. Và
cuối cùng những miếng vàng lá Kim Thành ứng trước, chúng đủ đánh bạt bất kỳ lá
cờ chói lọi nào. Tắt một lời: Trước hết tay trưởng công an ở đó, rồi sau đó dần
dần bọn du kích đàn em trở cũng thành những giao liên của ông đại uý. Và người
hoa tiêu lần này phải là thiếu tá Quỳnh, thiếu tá Biệt Động Quân, biết sử dụng
la bàn là lẽ đương nhiên. Chuyến này ông đại uý phải tổ chức kỹ lưỡng vì thiếu
tá Quỳnh, chồng của em ông, và con trai của thiếu tá Quỳnh cũng đi, theo sự nài
nỉ của cô em gái lúc đó chỉ mới 30 tuổi, cao ráo, đẹp mơn mởn, mà thiếu tá Quỳnh
thâm thấp, 50 già sọm, lại mới bị tù cải tạo ra.
Anh Quỳnh
là người Huế, theo đạo Phật, đạo Phật xứ Huế: thâm sâu, nghiêm cẩn như vườn
chùa cũ, điện xưa, chảy mãi một giòng thơm sâu trong lòng người, nhưng anh lại
học trường Thiên Hựu, Institut de la Providence, một trường Công giáo, dạy cả
chương trình Pháp lẫn Việt, với một ban giảng huấn gồm những giáo sư thông thái
tiếp nối truyền thống của trường từ những ngày đầu của trường gồm các giáo sĩ
thông thái nhất từ hội thừa sai truyền giáo Paris, các vị thâm nho như cha Nguyễn
Văn Thích, và cha Ngô Đình Thục, có bằng cử nhân Triết học, ngoài ra, còn một số
giáo sư không ở trong Giáo hội Công giáo như các ông Trần Điền, Tôn Thất Đàm,
Trần Văn Tuyên và đặc biệt ông Tạ Quang Bửu. Tuy là một trường Công giáo, nhưng
rất tôn trọng đức tin của các học trò thuộc các tôn giáo khác, vậy mà khi lấy
cô Lan, người Công giáo, gia đình cô vốn đã có người trong dòng họ chịu tử vì đạo
dưới các vua triều Nguyễn, nhất định bắt anh Quỳnh phải trở lại đạo mới cho cưới,
anh Quỳnh vui vẻ trở lại đạo, lòng chẳng áy náy gì. Anh cũng chẳng đặt thành vấn
đề gì khi anh, về học thức, đã có tú tài Pháp, lại đang là thiếu tá, trong khi
cô Lan chỉ mới học xong lớp tám rồi nghỉ học ngồi sạp, bán vải, nhưng nàng lại
có cái nhan sắc của Thanh Lan, người ca sĩ có cái nhan sắc rất moderne
mà anh rất thích. Ngồi sạp, rảnh rỗi, cô hay đọc những cuốn tiểu thuyết diễm
tình hồi đó của những tác giả như Bà Tùng Long, Nghiêm Lệ Quân, Quỳnh Giao… Anh
Quỳnh gặp cô khi mấy bữa trước Tết ghé mua chiếc khăn voan làm quà tết cho mẹ
mình. Tiếng hát Thanh Lan những bài nhạc Pháp vang vang trời vào xuân, nơi người
xuân. Chàng nhìn nàng xuân, nàng nhìn chàng chiến binh không có gì độc đáo cho
lắm so với những chàng trước đây đến đây tán nàng, cho đến khi nhìn bông mai bạc
trên vai chàng, nàng bỗng trở nên liến thoắng, cái liến thoắng của một con mèo
thấy soong mỡ trong chạn, của một kẻ bỗng thấy được món đồ quý giá, muốn có
ngay kẻo mất, nhưng vẫn không dám chụp ngay, vì thần giữ của là một kẻ khôn
ngoan, cẩn trọng, nhưng khôn ngoan, cẩn trọng đến đâu, vẫn có chỗ hở, chỗ hở
nơi chàng thiếu tá chính là cuốn sách bỏ túi, livre de poche, lòi ra từ túi áo
trên của chàng:
- Cuốn
sách anh đọc trong túi anh là cuốn gì vậy?
- Le
Mythe de Sisyphe của Albert Camus.
- Ông ta
viết về gì vậy anh?
- Ông ta
viết về huyền thoại của chàng Sisyphe ý thức về thân phận của mình.
- Rồi sao
nữa anh?
- Ông ta
bị thần Zeus bắt phải cõng đá nặng lên núi, lên tới đỉnh lại thả xuống, rồi bò
xuống chân núi cõng lên mãi suốt cả đời.
- Ông này
thiệt tội nghiệp mà lại chịu khó quá!
- Không tội
nghiệp như ta tưởng vì đang khi tảng đá lăn xuống lại, ông ta lại có cơ hội để
nhìn lại đời mình và phân tích nó.
Mắt nàng
long lanh, cười nụ:
- Nhìn lại
mình đời đã xanh rêu mất rồi.
Chàng thấy
hiện ra nụ mai thành quách kinh kỳ.
Tới đây
thì chàng thiếu tá hoàn toàn bị chinh phục. Muốn trọn đời cõng thêm nàng trên
lưng đi cho hết cuộc chiến, cuộc chiến tồi tệ, nặng nề mà anh đã cõng 10 năm
nay; chàng biết quân đội phe chàng sẽ thua, vì lúc ấy là tháng 5, 1973, sau khi
có hiệp định Paris với điều khoản quân Mĩ triệt thoái, và quân Mĩ hối hả triệt
thoái, quân Bắc Việt lại được phép ở lại: đình chiến da beo. Anh đóng quân ở tiền
đồn, hằng ngày thấy xe quân CSBV lũ lượt ngày đêm kéo vào miền Nam, dọc theo đường
Trường Sơn mà không có bất cứ một sự ngăn cản nào, ngoài vài trái đạn hạn chế bắn
vu vơ. Các bạn học anh du học rồi ở luôn bên Pháp, đã bắt đầu hối thúc bà con
bên nhà bán gia sản, kiếm đường đào thoát, nếu được, vì chuyện Miền Nam thất trận
chỉ còn là vấn đề thời gian; có đứa theo VC, hối anh đào ngũ.
Thế là
đám cưới. Nàng cười xinh xinh bên chàng dày dạn, gió sương. Rồi chàng ra biền
biệt nơi tiền đồn và chỉ mấy tháng sau, vĩnh biệt ra đi khi tiền đồn chàng thất
thủ, bó tay thất thủ, một thất thủ nhỏ báo tin một thất thủ lớn không lâu sau
đó. Và nàng có thai, sinh được một con trai. Một ngày, năm năm sau ngày 30.
4.75 chàng trở về, tàn tạ trở về. Chàng được mẹ vợ đưa ra chợ trời, nơi nàng
đang bán quần áo cũ. Xem ra trong cuộc hội ngộ mẹ vợ vui mừng hơn vợ. Nàng chỉ
nhìn chàng một thoáng, rồi lại nhìn đống quần áo cũ, nhìn người qua lại mời
mua. Chàng nhìn trước nhìn sau, móc trong túi ra chiếc lược làm bằng vỏ bom mà
chàng đã kỳ công cưa cắt và khắc tên nàng, và chàng cười héo hắt, ngượng ngùng:
- Quà của
em!
Nàng tay
cầm chiếc áo cũ, tay miễn cưỡng cầm chiếc lược, cằn nhằn:
- Quà cáp
làm gì không biết. Lược như vậy thì ai mà chải.
Rồi nhìn
sang mẹ vợ:
- Mẹ đưa ổng
về, tìm cái gì đó nấu cho ổng ăn, chiều con mới về được.
Lưng
chàng bại tướng bỗng sụm xuống. Cái huyền thoại Sisyphe không còn đủ sức nâng
chàng dậy dù nó đã giúp chàng đứng thẳng trong những năm lao tù CS. Nhục mạ, rừng
thiêng nước độc, ăn uống thiếu thốn, gông cùm, lao động vắt kiệt đến giọt cuối
sinh lực ngày này, tháng khác trong suốt bảy năm, cái huyền thoại ấy đã cho
chàng một nội lực ghê gớm. Kỳ diệu thay ngôn từ con người, nhưng cũng huỷ diệt
thay ngôn từ con người. Khuôn mặt anh sạm đen đến độ không thể sạm đen hơn nữa,
bỗng trở màu tái ngắt; dung nhan khắc khổ đến mức không thể khắc khổ hơn nữa,
chợt trở thành khắc khổ như khuôn mặt khắc khổ tận cùng chỉ có thể thấy của những
người chết đói năm Ất Dậu. Chân chàng đi loạng choạng như ông lão tám mươi dù
cũng đôi chân ấy đã từng đi suốt dãy Trường Sơn ra Bắc ở tù.
Từ ngày ở
tù về, anh chỉ ở nhà. Anh không đủ sức làm những công việc nặng nhọc mà dễ xoay
như đạp xích lô, ba gác. Quá bệ rạc rồi. Chị cũng không muốn anh đi làm theo sức
anh, kể cả chuyện dọn hàng cho chị bán, coi hàng cho chị khi chị bận việc. Hình
như chị sợ chuyện anh đi làm ngoài sẽ là một khẳng định lại vai trò người gia
trưởng, là điều chị không muốn; hình như chị muốn anh ở nhà làm kẻ thất bại, một
kẻ ăn bám. Không có dấu hiệu gì cho thấy chị có bồ khác trong thời gian anh đi
tù và tới nay vẫn còn đó để anh trở thành chùm kẽm gai trên đường chị. Có cái
gì như khinh khi, có cái gì đó như ghét, ghét dành riêng cho anh, như phải có đối
với anh, như một loài hoa độc chỉ nhả nhuỵ độc khi gặp một loài côn trùng thích
hợp, và cũng có khi, cùng loại côn trùng đó,hoa chỉ nhả độc giết vào một giờ nhất
định. Cũng như, ai đâu xa, chính mẹ vợ của anh, tử tế với anh hết mực, nhưng
không thể sống với mẹ già của mình, hễ gặp nhau là gây gỗ, đến nỗi bà mẹ già phải
ở với đứa cháu. Cái ác ấy, đến từ đâu? Có phải từ kiếp trước hai người đã mắc nợ
nhau? Hay cái không khí thù hận, tàn bạo, điêu ngoa của cái xã hội đề cao hận
thù đã thấm vào từng lỗ chân lông con người sống trong đó? Gần bùn lâu quá, chẳng
còn thấy hôi tanh mùi bùn. Hay nàng là loại người sinh ra đã tính bổn ác dù
nàng từ khi sinh ra ngoại diện nhìn vào là muốn thương ngay. Hồi nhỏ, ai cũng
muốn hôn, muốn nựng, hôn cả ngày không chán, mẹ chị đã từng nói với anh như thế.
Còn anh thì khỏi nói: Thương và nhớ triền miên những ngày tiền đồn, những ngày
sương tràn thung lũng, cũng như những ngày khói súng mờ trời, những ngày ở tù
những khi thảnh thơi đôi chút bên suối, cho đến những bữa bị cùm kiên giam;
nàng là hơi thở, là lẽ sống bấy nay. Bây giờ anh chỉ còn một chút gì để vui, đó
là thằng cu con trai anh, thằng Nam, 6 tuổi. Lan có bầu nó, ngày anh thương Lan
lần cuối, trước khi ra tiền đồn. Đêm đó sau khi ân ái, Lan khóc và bảo anh đừng
đi, khi nghe tin tức những tiền đồn cái này đến cái khác bị tràn ngập. Anh lại
bị mát chữ, lại đưa tư tưởng ông này bà kia ra biện chính cho chuyện dấn thân,
chuyện trách nhiệm, chuyện đem thân làm lính thú của mình, nàng hét to: ”Xiphe,
xipheo, Ca mút, Cameo cái gì! Anh phải lo lấy cái mạng của anh, còn em, còn cái
đứa trong bụng nữa chi!” Rồi nàng ôm mặt khóc. Chẳng những thế, sáng hôm sau,
khi chia tay, nàng lại đấm vào ngực anh, đấm vào ngực anh, khóc lớn: ”Anh ơi,
anh đừng đi! Anh ơi, anh đừng đi!” Nhưng anh vẫn ra đi theo tiếng gọi non sông,
theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Đau khổ
hay không thì xuân vẫn sang. Anh lại lén lôi mấy trang giấy anh lượm được trong
giỏ gấy gói đồ của vợ, như những trang từ cuốn thơ Cao Bá Quát của Trung Tâm Học
Liệu xuất bản mà lúc trước, trước ngày mất Nước, anh mua được, ra chép lại cho
đỡ nhớ chữ người xưa, nhớ đời mình mới đây mà đã lùi vào thiên cổ. Ông TT Nixon
nói thế mà đúng: ”Bỏ bom cho bọn chúng trở về thời đồ đá.” Anh không dám tin đó
là sách của anh dù khi về nhà, tủ sách của anh không còn cuốn nào cả. Chính phủ
cách mạng CS bắt nộp? Hay chính nàng đã vứt, đã bán cho bọn mua ve chai giấy vụn,
hay chính nàng đã dùng làm giấy gói? Anh không dám hỏi. Anh sợ nghe một sự thật
quá đau lòng, nếu… Anh cũng sợ nàng phẫn nộ vì đã có lúc khi anh muốn nói niềm
tin về tương lai của con trai, anh lỡ đưa bài thơ Tài Mai của Cao Bá Quát ra
bình. Vừa mở miệng: ”Em xem thằng cu Nam mình! Nó như hạt giống hoa mai một
sáng xuân giao trên đỉnh núi. Cao Bá Quát có bài thơ Trồng Mai rất hay…”, Lan
đã hét lên: ”Quát với Tháo cái qwần qwè! Tui thù ông còn hơn thù Mĩ.” Câu đầu đặc
sệt giọng nẫu của bọn nẫu quê quệch. Câu sau đã biến thành thành ngữ mà anh đã
từng nghe bọn quản giáo, bọn bảo vệ nói với nhau khi muốn diễn tả một sự căm
thù nào đó. Tại sao vợ anh lại ghét với sách vở, thù anh đến như thế, thù như
CS nòi, anh tự hỏi.
Trời đánh
tránh giữa bữa ăn. Chửi nhau né mồng một tết. Đoán thế, anh Quỳnh lại đưa ra đọc
bài thơ Tài Mai anh viết bằng mực xạ thật đẹp trong cuốn sổ bọc da dê nâu, mép
giấy mạ vàng, chuyên dùng để chép thơ mà bạn anh bên Pháp gởi về tặng anh.
(Chuyện này lại là một chuyện làm vợ anh bực mình. Nói lải nhải suốt buổi chuyện
văn chương không bằng cái xương cá lạo!)
Vừa ngắm
con, vừa đọc thầm bài thơ
Tài
mai 栽梅 Trồng mai
Thí
tương mai tử trịch sơn gian,
Nhất ác
thanh tư ký bích loan.
Ký thử lai thì xuân sắc hảo,
Dữ nhân cộng
tác hoạ đồ khan
Thử ném hạt mai lên đỉnh núi
Mai xanh gởi lại chốn non xanh
Vẻ xuân
mong điểm cho trời thắm
Cùng
chung sức lực, cùng xem tranh
thì ông
anh vợ tới. Ông ta sau một chuyến thiến heo, lại trở về đem tiền thiến heo cho
vợ ăn Tết, toàn vàng lá Kim Thành. Sau khi cho thằng Nam mặc thử mấy bộ đồ mới
mua, mấy mét lụa Thượng Hải cho Lan, khăn voan lụa cho mẹ, châm điếu thuốc
Samit mà ông rút từ một gói của cây thuốc anh mua tặng anh Quỳnh, ông ta nói:
- Mình thấy
Quỳnh ở lại Việt Nam thì không ổn rồi. Việt Nam không ổn, mà con Lan cũng không
ổn cho Quỳnh. Mình nghe mẹ kể lại tất cả. Cứ tình trạng này kéo dài, Quỳnh
không chết cũng điên.
Anh Quỳnh
ra chiều suy nghĩ, không nói năng chi.
- Chuyến
tới tôi đưa Quỳnh với thằng Nam đi.
- Còn vợ
tui chi.
- Mình
cũng nói với nó vụ này rồi. Nó không chịu đi đâu. Con nhỏ điên thiệt rồi.
- Ừ, có một
cái gì đó thực khó hiểu.
- Mà mình
hỏi thiệt nghe! Vậy từ hồi ở tù về tới giờ, nó có cho Quỳnh ăn nằm với nó
không?
- Không.
- Tết nhất
cũng không?
- Không.
- Tôi,
thì mình cứ xử từng bước như vậy. Rồi đâu vô đó cả. Quỳnh còn biết hơn mình về
vụ này.
Rồi anh
Quỳnh đi vượt biên như ông anh vợ hoạch định. Thành công sau năm ngày, năm đêm
trên biển. Đêm thứ ba, đêm rằm, một máy bị hư, mưa to gió lớn. Chiếc thuyền
11m50 với 58 người chao như vỏ dưa trên sóng cao, sóng lớn, mưa như trút nước.
Lẽ thường thuyền sẽ phải chìm, nhưng nhờ ông đại uý đã làm một mái vòm bằng tre
đan có trét dầu rái bao trùm gần hết xuồng ngoại trừ một chút đầu mũi thuyền và
phía sau lái, nên nước không tạt được nhiều vào thuyền, có điều trời đang bão,
e thuyền sẽ lật, khó thoát. Có người bàn chạy trở lui lại Việt Nam. Anh Quỳnh với
tư cách là thuyền trưởng và hoa tiêu nhất quyết không trở lại: ”Chết thì chết với
nhau, trở lại sao mà trở lại được!” Tuy nói cứng thế, anh lại hỏi tôi, vì tôi
khi còn ẩn náu trong rừng đước Cà Mau, có nói chuyện sách vở với nhau, toàn những
chuyện hai người cũng đã học và ưa thích. Anh hỏi: ”Giờ mình phải làm sao anh
Thà?” Tôi cũng thuộc vào phe quyết một lòng ra đi như anh, bàn với anh: ”Hồi em
còn ở quê em, em có đi biển 10 năm. Bọ em, đi biển từ hồi còn nhỏ, có nói với
em: Những ngày trăng tròn, nếu trời bị cấn, thì cũng chỉ cấn đầu hôm cho tới
canh hai, thì biển sẽ lặng lại thôi.” Và quả thật quãng một giờ sáng trời ngừng
gió và biển lặng như tờ, thuyền đi như trôi trên hồ trăng. Sáng ra biển lặng
bóng như biển mỡ, lại còn cá heo lội theo đùa giỡn. Quãng trưa thì thấy rác
trôi ra, rồi chẳng mấy chốc núi nhô lên, rồi đất liền. Cứ thế mà đâm vào và tới
tối thì gặp tàu cảnh sát tuần duyên đưa vào hải cảng Terengganu. Sau đó, khi
chúng tôi được chuyển ra đảo Bidong, chúng tôi vẫn hay gặp nhau nói chuyện sách
vở ngày xưa. Tiếc là trên đảo cũng có một thư viện, nhưng toàn những sách không
giá trị nhiều với chúng tôi. Vậy mà có một hôm, khoảng một tháng chuyển qua trại
Sungai Besi anh lại kiếm đâu được cuốn Con Đường Cứu Khổ của một vị thượng toạ
Tích Lan với cái tên dài ngoằng, tới nay tôi không còn nhớ. Anh hay nói về chuyện
vô thường và cười buồn. Một ngày trước khi rời đảo, anh mời tôi đi uống cà phê,
và đưa cho tôi đọc lá thư của một bà bạn của Lan, cùng đi một chuyến với chúng
tôi, và có vẻ thân mật với anh Quỳnh vì thấy hai người hay đi chung, đi uống cà
phê với nhau trong mấy cái quán dọc mép đảo. Bà ta qua Mĩ một cách nhanh chóng
vì có ông chú giàu có bảo lãnh, và hay gởi thư kèm theo tiền đô la cho anh Quỳnh.
Lá thư có
đoạn như sau:
Anh Quỳnh
ơi,
… Lan, em
biết, chị ấy tệ bạc, thậm chí hỗn hào với anh, em nghĩ là vì những nhục nhã
trong thời kỳ đi buôn chuyến. Chị ấy đã thất thân nhiều lần với mấy thằng thuế
vụ ở các trạm, có khi chỉ vì mấy gói mực khô. Rồi sau đó, chuyển qua buôn bán
quần áo cũ, lại bị tụi quản lý thị trường. Hồng nhan đa truân, thời nào cũng thế.
Em nghĩ chị ấy bị rối loạn tâm lý mà ra cả…
Đọc tới
đó, tôi ngước lên thấy anh đang thả những khói thuốc, nhìn mông lung ra biển,
không nói gì. Một lúc sau anh mới nói:
- Mình
thiệt có lỗi với mẹ thằng Nam, lỗi từ ngày lấy nhau…
- Không
ai có lỗi cả. Mỗi người sinh ra đời đều mang theo mình một định mệnh như anh đã
có lúc nói với tôi, và chúng ta, ai cũng phải đương đầu với định mệnh của chính
mình, mỗi người một kiểu.
- Ừ, và
thường cũng chẳng làm được gì. Có thế con người mãi đau khổ.
Rồi anh
chuyển vào trại Sungai Bêsi trên đất liền. Chỉ mấy tháng sau nghe tin anh mất bị
bệnh lao. Tôi không tin như vậy vì những lần đi sau nầy đi làm thông dịch cho
các bệnh nhân tị nạn ở các bệnh viện ở Kuala Lumpur gần trại, tôi thấy các bác
sĩ rất giỏi và tận tâm, và họ kê các loại thuốc trừ lao rất tốt, tốt như ở Na
Uy, nơi tôi định cư sau này. Tôi nhớ có lần anh nói: Chết vì những ngang trái
trong cuộc sống, thì dễ hơn là phải sống với những ngang trái đó. Tôi lúc đó
không hỏi đó là ý của anh hay là của thằng cha nào đó mà anh đã đọc.
P.S. Sau
khi viết lại truyện mang tính tự sự này xong, tôi có e-mail bản nháp truyện cho
các bạn cùng tàu với tôi và anh Quỳnh, và được chuyển trại qua trại Sungai-Besi
cùng anh Quỳnh cùng một lúc, thì có một anh cho biết là anh Quỳnh đánh bài phé
rất giỏi, và đánh bài bịp cũng rất tài. Trong một đêm đánh bài ngày tết, anh Quỳnh
bị một tên anh chị, trước vốn là một tay du kích, đâm lủng ruột bằng một chiếc
đũa tre già vót nhọn, đâm rồi còn ngoáy cho nát ruột, nên khi đưa vào bệnh viện
thì cứu không được nữa. Vì anh ta là thông dịch, nên được phân đi theo xe chở
anh Quỳnh vào bệnh viện, nên biết rất rõ sự vụ, chứ cái chết không man tính
camus, cameo gì đâu như anh Thà muôn ám chỉ ở đoạn kết. Một cái chết lãng nhách
kết thúc một cuộc đời phi lý.
Nguyễn
Văn Thà
Oslo,
Tết Con Gà, 2017.
*Thơ Phạm
Thiên Thư