Tháng giêng, đầu năm Tây cuối năm Ta, tôi đi về tất bật trong mưa dầm gió
giật, trong cái buồn lạnh của đất trời. Mưa ròng rã lê thê, có những việc
cần mà phải hoãn vì không thể hoàn tất, chôn chân ở nhà mà lòng vẫn vui vẫn
mừng vì thấy được mưa. Mưa, những năm đầu đến ở đất này trời cũng có
những ngày mưa dai dẳng cả tuần lễ như năm nay. Những cơn mưa năm ấy đã
là sự cứu rỗi cho kẻ lưu lạc bơ vơ trên xứ người, bởi đó là những lúc tôi tìm
được quê nhà như Trần Trung Quân nói: “ở đâu cũng đất cũng trời thế
gian.” Tôi đã qua bao cơn mưa nơi xứ người? Mối hận lòng bị bứt rời
khỏi quê hương có bao giờ phai lạt? Gẫm lại, năm tháng tôi sống nơi đất
này đã gần gấp đôi tuổi trẻ với quê hương. Tôi đã thôi buồn trước những
cơn mưa dẫu quê nhà vẫn là hình ảnh ray rứt hoài trong buồng tim khối óc.
Tôi có còn là một người dân Việt?
Câu hỏi nảy sinh khi đọc những dòng chữ của Trương Vấn:
Mỗi khi nghĩ và nhớ về buổi chiều Sài gòn với những cơn mưa bất chợt, tôi
lại bùi ngùi tội nghiệp cho những người trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại. Họ
không có một thành phố của riêng mình, với những quán xá hò hẹn, những con
đường bụi bậm đứng chờ nhau mong cho trời đừng đổ mưa để không ướt áo, hay buổi
trưa hè chở nhau trên những chiếc xe đạp cũ kỹ, dừng lại bên đường cùng nhau
uống chung ly nước mía. (Trương Vấn, Quê Nhà Quê Người, trang 23).
Câu nói tóm gọn cả một thời niên thiếu của tôi, cả một quê nhà của tôi
khi bước chân đi.
Tôi rời nhà xa quê năm hai mươi tuổi. Đủ để biết mùi chiến tranh phân
cách khổ đau, đủ để có tí tình còm mà thương mà nhớ, có nụ hôn dưới mưa và
những lãng mạn ngu xuẩn ngọt ngào làm kỷ niệm cho tuổi vào thu. Nhưng quê
nhà của tôi chỉ có vậy, không đầy ắp những hệ lụy và hạnh phúc như của bậc đàn anh,
và nỗi đau bị bứt lìa quê hương cũng không đắng chát như những dòng hoài niệm
của Trương Vấn.
Quê nhà của tôi ngoài những dòng đã trích cũng chỉ là những kỷ niệm học trò,
những trang sách vàng ố, những buổi lang thang tìm mua sách vỉa hè khi những
cuốn báo còn được kẹp bằng những cái kẹp gỗ trên dây thép như thể người ta phơi
áo quần, những bi kịch mà tôi may mắn chỉ chứng kiến bên lề chứ không là nạn
nhân khổ lụy. May mắn hay đáng tội nghiệp như Trương Vấn băn khoăn?
Trương Vấn khơi cho tôi nhìn lại mình những năm tháng trẻ nơi xứ
người. Ở đâu cũng đất cũng trời thế gian, dẫu không có thành phố
con đường quán xá của riêng mình, tuổi trẻ xứ người của tôi vẫn đầy ắp những
gian nan và hạnh phúc, rất riêng, bởi lãng mạn không là của riêng một xã hội
một vùng đất một sắc dân, và lãng mạn là điều bất chợt khởi lên tự mảnh đất
mình đang sống tự hoàn cảnh mình đang đeo mang, không có gì cụ thể để phân định
ngoài cái lòng bồng bột. Những mối tình của tôi là những mối tình mưa với
những người trai cùng huyết thống cùng mang một nỗi đau buồn, không có vỉa hè
quán nước đường bụi thì có những đêm biển lạnh căm bên vòng lửa nhảy múa lắt
lay, không có tà áo quấn quít bên vòng bánh xe đạp cũ thì có những tấm áo khoác
dầy cộm ấp ủ hai tấm thân gầy dưới bóng mưa đêm, không có quê nhà ba mươi năm
trở lại thì cũng vẫn đau lòng bắt gặp người xưa nơi góc phố, quán hàng…
Cùng với những mảnh hồn phiêu bạt, chúng tôi, những đứa trẻ bị đẩy ra khỏi quê
hương không có cái lãng mạn dại dột xuống đường của Trương Vấn, nhưng có những
đêm dài lăn tìm con chữ, níu những tiếng những lời của quê mẹ mong trường tồn
một dòng giống lưu truyền một quê hương dù chỉ còn trong tâm tưởng, không lãng
mạn lắm sao.
Bởi chính nơi con chữ lưu vong xứ người tôi biết rõ một quê hương, biết
thương biết hận cho những gì đã mất. Tôi biết cảm kích những người chiến
sĩ vô danh đã bỏ mình cho tôi, trong âm thầm quên lãng, tôi biết kính trọng và
thương, thương những người “đã cởi bộ quân phục mặc trên người, đủ bình tĩnh
để xếp chúng lại thật ngay ngắn phẳng phiu, cẩn thận cột giây đôi giầy trận
theo đúng quy cách quân trường, rồi đặt chúng nằm cạnh bộ quân phục,”...
“còn nhớ cái bóng của mình đã đứng thật nghiêm, bàn tay trái nắm chặt để ngón
cái chạy xuôi theo đùi chân trái, tay phải đưa lên ngang tầm mắt, thật dõng dạc
chào một lần cuối những thứ vừa cởi bỏ trên người ở chân cầu Bến Lức khi giọt
nắng cuối cùng vừa biến mất…” (Trang 63). Họ là Hoàng Diệu, là Nguyễn
Thái Học, là lịch sử, mà chính nơi tuổi trẻ xứ người tôi mới có cơ hội để
biết. Tôi đã nên người, bằng văn hóa nhân bản xứ tạm dung, thứ văn hóa
hội nhập và dung chứa, để dẫu không còn là con dân đất Việt tôi vẫn là người
Việt nhờ những dòng lịch sử của đất nước mà tôi học được nơi đất này. Có
để làm gì đâu, có được gì đâu hơn là một nỗi ngậm ngùi. Nhưng ở nơi mất
gốc mà tuổi trẻ xứ người tôi đã tìm được bản sắc của mình, để như cây tre dẫu
tách muôn ngàn gốc phân bủa khắp nơi trên mặt đất đều cùng lúc nở hoa khi tới
kỳ và cùng với những lưu dân Việt khi nhắm mắt tôi vẫn nhớ về đất mẹ.
Tuổi trẻ xứ người đã biến tôi thành một sắc dân pha giống, cung cách suy nghĩ
của người Mỹ mà lòng tràn đầy một quê hương đã mất, rất buồn, nhưng cũng như
Trương Vấn, tôi không quên cội nguồn – mà giờ đây biết đâu nguồn cội?
Bởi quê nhà khi tôi về lại không còn là một quê nhà chậm rãi bạc phai.
Sắc màu và sự xa hoa quay tít chung quanh xóa nhòa quê cũ, tôi chỉ tìm thấy quê
nhà nơi những buổi trưa chậm rầu của những bóng hình đơn lẻ, ăn chén cơm buồn
trong thinh lặng giữa bốn bức tường xi măng cốt sắt của nhà cửa thời thoát
xác. Tôi lạc trên quê hương mình như Từ Thức lạc trần. Dẫu canh
cánh bên lòng mảnh đất quê hương, tôi không dám hay đúng hơn là không muốn, như
Trương Vấn, gửi nắm xương tàn nơi đất mẹ, nơi quê nhà, dẫu nơi tôi sống vẫn chỉ
là đất quê người.
Đất quê người, chính mảnh đất ấy đã khiến tôi chăm chú giữ gìn chút truyền
thống. Những năm tháng ấy tôi phải nửa đêm tấn vào người năm ba lớp áo,
bó con trai như bó giò, vặn vẹo với từng cơn gió thốc mà đến chùa đêm ba mươi
để thắp một nén nhang bứt một trái quít mang về để trên bàn thờ cho ngày
mới. Có khác gì đâu với cảnh anh dẫn vợ con vượt năm trăm dặm đường mang
về một đóa quỳnh, mang về một hình ảnh một kỷ niệm của quê hương. Khi các
con gái anh đặt chân lên mảnh đất quê mẹ, con trai tôi đã quanh lại hỏi tôi cái
kỷ niệm đi chùa đêm ba mươi của năm xưa _ để nó dẫn bạn gái làm một cuộc hành
hương. Tôi có thể gọi mảnh đất đã cho tôi sống cuộc sống cũ là đất quê
người?
Chúng ta, dẫu đã phân trăm nhánh trăm dòng, vẫn mỗi người mang một mảnh hồn
quê mà gieo mà trồng trên xứ lạ, và dẫu vẫn cùng mang một niềm khắc khoải về
quê nhà, lại không cùng một cảm nghĩ về quê người. Ai đó đã nói, “ngoảnh
lại không còn biết đâu là quê nhà…,” đọc Quê Nhà Quê Người của Trương
Vấn chợt thấm thía cái điều “trong cõi riêng buồn thấy lại ta.” (Mai
Thảo).
Lưu Na
02012017