Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
(Nguyên Sa)
Một tiếng động làm anh giật mình mở choàng mắt nhìn ngơ ngác. Thế ra anh đã
ngủ trên xe một giấc ngon lành. Tiếng gì đấy? Mấy con chim hải âu vừa bay vừa
há mỏ quang quác đánh thức anh dậy, hay tiếng sóng biển rì rầm đằng kia bỗng
dưng gào to thảng thốt trong giấc ngủ lơ mơ, chập chờn, hay tiếng còi xe chữa
lửa thét lên giật giọng quanh đâu đây, hay cái âm thanh khô cứng phát ra do một
nhánh cây nhỏ rơi ngay xuống trần xe? Anh điều chỉnh lại lưng ghế ngồi trở về
vị trí cũ, nhìn đồng hồ tay. Gần hai giờ chiều. Trễ giờ làm việc rồi! Đi làm
việc mà trễ cả tiếng đồng hồ coi chướng quá. Anh chắc lưỡi, OK, call in
sick vậy.
A, a, không được đâu! Nói láo cũng phải có sách chứ. Mới gặp nhau đó mà đã nổi
lên cơn bịnh cấp kỳ thế quái nào được. Thôi thì cứ nói đại là có việc đột ngột
cần phải ở nhà nửa ngày để giải quyết cho kịp thời. Cái lý do nghe cũng buồn
cười, nhưng thôi, mặc kệ.
Anh quờ tay tìm xâu chìa khóa xe. Ủa, ở đâu? Túi áo ngực, túi quần, ghế ngồi
bên cạnh. Không thấy. Chẳng lẽ … chẳng lẽ lúc mình ngủ say có kẻ đến đánh cắp
chùm chìa khóa để tính chuyện cướp xe. Anh bật cười. Nơi này tương đối vắng vẻ,
thì kẻ gian có thể đến, cho mình một phát súng hãm thanh như trong xi -nê, hoặc
lấy dao dí vào hông, hoặc không có sẵn dao cũng có thể dùng bàn tay như cái gọng
kềm siết vào chỗ nhược của mình rồi bắt mình lái xe đi đến nơi nào vắng vẻ hơn,
rồi co chân đạp mình nhào xuống đất, rồi dông tuốt. Báo chí thỉnh thoảng loan
tin như thế. Chứ ăn trộm xâu chìa khoá đem về nhà mà thờ hay sao. Mình chỉ được
tài suy luận ngớ ngẩn, anh cười thầm.
Thường lệ anh ăn trưa tại sở. Ăn vội để nhín một chút thì giờ dành cho giấc
ngủ ngắn, là vì đêm nào anh cũng thức rất khuya. Ăn giản dị dăm ba miếng. Mì
gói, mì ly ăn liền cho nước sôi vào, hoặc cái hamburger whopper giá
một đô la sáu xu kể cả thuế, hoặc một gói đậu phụng hột điều lẫn lộn cộng một
ly nước lạnh cho đầy bụng, hoặc cùng lắm thì vài quả chuối, quả táo cũng được.
Lẹ lắm, 15 phút là xong bữa. Không phải anh hà tiện không dám ăn một bữa trưa
cho tươm tất, nhưng anh cần nhanh, gọn. Rồi ngồi trên ghế dựa, ngả người, đầu
cúi xuống — anh nghĩ đến người bạn cùng sở phái nữ hay nói tài nói khôn, cũng
bắt chước anh chợp giấc trưa, nhưng anh này, đầu phải như tôi dựa vào thành
ghế cho thoải mái, rồi cô ta ngủ quên, mồm há hốc. Cho nên anh cúi đầu
xuống, hai tay vòng lại trước ngực, hai chân bắt chéo, một bàn chân gác lên cái
ngăn kéo lôi ra một nửa của bàn giấy, thế là ngủ, nhưng mắt vẫn thỉnh thoảng mở
hé nhìn chiếc đồng hồ treo tường để canh giờ. Chưa đến giờ thì ngủ tiếp. Chập chờn
như thế nhưng cũng nhờ vậy anh lấy lại sức. Năm phút trước một giờ chiều anh
nhỗm dậy, đến toa – lét rửa mặt, trở lại bàn giấy, tiếp tục làm việc cho đến
năm giờ chiều tan sở. Đều đặn như cái máy, ngày này qua ngày khác, trải qua hơn
năm năm trời. Hơn năm năm trời gần như thế, gần 2000 giấc ngủ trưa gần như thế.
Tất nhiên cũng có lúc cơ quan có tổ chức ăn trưa thân mật với nhau tại một
nhà hàng không xa để kịp trở lại sở làm việc buổi chiều. Thì anh mất đi giấc
ngủ trưa quý báu. Thế là thật khổ cho buổi chiều đi làm về, ngồi lái xe mất gần
một tiếng, anh buồn ngủ muốn chết đi được. Cơn buồn ngủ từ từ xuất hiện rồi
chờn vờn trước mắt anh khiến cho cái đầu mơ màng, mê mẩn, hai bàn tay mềm nhão
muốn buông xuôi, bàn chân quờ quạng rà ga, rà thắng muốn bại xuội. Anh ra sức
chống cự. Anh nhéo thật mạnh, thật bất ngờ, vào háng, vào cánh tay kia phía gần
nách, vào hông, nghĩa là vào chỗ nào có lớp da mỏng, nhạy cảm. Phải bất ngờ,
anh nghĩ thế, mới làm anh tỉnh ngủ. Nhưng anh không thành công. Cái nhéo chưa
kịp phát ra thì chỗ sắp bị nhéo đã đề phòng. Nếu có ai ngồi cạnh nhéo anh đột
ngột có lẽ sẽ được việc hơn.
Anh xoay xở cách khác. Anh hạ hết cửa kính xuống cho gió lồng vào, không có
kết qủa. Anh hít hơi vào thật dài rồi nín thở, chẳng ăn thua. Anh vặn máy lạnh
tối đa, vẫn thất bại. Cuối cùng anh đành phải giở cái trò “cực chẳng đã” và khá
nguy hiểm: hạ kính xuống, thò đầu ra phía trái quác miệng mắng chửi thật to bất
cứ người nào không may đang lái xe ở dòng xe bên cạnh. Phản ứng của người đó dù
mạnh, dù yếu cũng đều có đủ sức đánh thức anh. Cũng may, anh ít khi phải giở
cái trò “cực chẳng đã”. Cứ dằng co chống con ma ngủ như thế cho đến khi xe anh
vừa trờ tới cái cổng của khu nhà anh có khóa bấm mã số thì cơn buồn ngủ cũng
chấm dứt.
Anh nhiều lần tự nguyền rũa sao mình nặng nề u ám đến thế! Sao lại có thể để
cho cơn tỉnh cơn mê bị điều kiện hóa một cách dễ dàng đến thế! Cái cổng sắt
trước nhà làm anh tỉnh ngủ! Tại sao? Cái nhìn giận dữ của người lái xe bên cạnh
làm anh tỉnh ngủ! Tại sao? Còn chính bản thân anh lại không thắng mình nổi!
Trưa nay lại phải đi ăn chung với đồng nghiệp trong sở trong khi tối hôm trước
anh thức đến hơn ba giờ sáng. Thôi thì anh đành phải ăn hối hả, lấy cớ đi bỏ
thư gấp, đến góc vườn vắng vẻ này định chợp một giấc ngắn. Rồi anh ngủ quá giấc!
Lần đầu tiên anh được ngủ một giấc trưa ngon lành đến thế.
Ô, xâu chìa khóa đây rồi. Anh ngồi lên trên xâu chìa khóa mà không biết. Anh
vội vàng cắm chìa khóa cho xe nổ máy. Lẩn thẩn chưa, không đến sở nữa thì đi
đâu mà vội! Chi bằng mình ngồi lại đây ngủ thêm một giấc cho no con mắt, lâu
lắm mới có một dịp xé rào như thế này. Anh tắt máy, cẩn thận cho xâu chìa khóa
vào túi áo, điều chỉnh lưng ghế, nằm soải người, lim dim cặp mắt.
Lạ thật, không sao ngủ được! Anh ngồi nhỗm dậy tò mò nhìn quanh. Và anh ngạc
nhiên vô cùng. Anh ngạc nhiên không hiểu tại sao đã lâu quá rồi anh có thể quên
rằng ngoài những phố xá náo nhiệt hối hả, những xa lộ dài hun hút xe cộ lao đi
như bị ma đuổi, những tòa nhà cao ngất, khô cứng, những phòng làm việc ánh đèn
lạnh lẽo, những máy điều hòa không khí, máy sưởi, những máy điện toán, những
cuốn lịch đủ loại … ngoài tất cả những thứ đó còn có trời đất mênh mông, huyền
diệu hơn nhiều.
Buổi trưa này thuộc vào mùa gì nhỉ, anh lẩm nhẩm tính toán. Vâng đầu mùa
xuân. Thời tiết … khoảng 65 độ F chắc? Ô mà cần gì những con số đó, anh ngẫm
nghĩ, chỉ biết rằng trời se se lạnh, có nắng, có mây, có gió, là đủ rồi. Nắng
vàng trải lên trên mui xe, lên trên con đường nhựa đen dẫn vào công viên, lên
trên thảm cỏ xanh hai bên lối đi có lớp đá cuội trắng. Anh nhìn xa hơn. Sau
những khóm hoa hồng, hoa ngũ sắc, hoa chuông, hoa kèn, hoa anh thảo, hoa cúc
dại, và nhiều thứ hoa khác mà anh không biết tên, là những ngôi nhà mái màu
xám, không phải mái ngói mà là mái lợp bằng những mảnh gỗ cũ kỹ, cong queo, và
sau những mái nhà là những ngọn thông, ngọn bá, ngọn tùng, và cao hơn hết vẫn
là những vòm lá gồi lá cọ trông như những mái tóc lởm chởm khổng lồ treo lơ
lửng giữa không trung. Mấy con chim cánh trắng, một loại chim cò chăng, bay
ngang qua lặng lẽ, một cặp chim vành khuyên, có lẽ thế, quấn quýt lấy nhau vờn
vờn như luồn khói. Nhiều cụm mây trông như tơ nỏn trôi êm êm trên nền trời
trong veo.
Một cơn gió tạt mạnh, một chiếc lá bay vèo và lọt vào trong xe. Anh quay
nhìn chiếc lá vừa sà xuống nằm lên trên chiếc ghế bên cạnh. Chiếc lá phong đỏ
rực!
Anh ngạc nhiên. Quái lạ, đầu xuân mà vẫn còn lá phong rụng. Anh nhìn quanh
quẩn tìm xem chiếc lá từ đâu bay đến. Bên những hàng thông, hàng tùng xanh um,
nhìn kỹ, anh thấy một cây phong đứng đơn độc, trơ trụi, không còn một ngọn lá
trên cành. Chiếc lá phong cuối cùng của mùa thu năm ngoái vừa đến với anh đó
chăng? Anh vốn thích tất cả các loài thực vật. Anh đã yêu ngay cây phong khi
anh vừa đến Mỹ, và khi xa quê hương anh nhớ da diết, không phải là những lũy
tre quen thuộc bao quanh những thôn xóm miền quê, mà là những cây bàng đứng ven
những con đường phố hoặc đứng trước những ngôi đình, ngôi chùa. Và anh nhớ nhất
cây bàng “mồ côi” cuối đường Hàng Me gần Chợ Cống. Và người anh yêu. Thật là
tuyệt diệu khi kỷ niệm dồn dập về, như có tiếng ai réo gọi trong hồn, trong tim
của anh, như có men rượu dâng lên mắt, lên môi, như có những nụ hôn màu đỏ cánh
phượng mùa hè, bồi hồi, rạo rực.
“Lá phong đẹp lắm hả anh? Mùa thu đến đã lâu rồi, những cây phong của anh
chắc là đầy cả lá vàng, lá đỏ. Gởi cho em một chiếc đi. Mà phải chờ khi nó
chín, nó rụng xuống thật nhiều rồi lựa cho em chiếc lá nào đẹp nhất nhé! Cho
vào bao thư lớn để chiếc lá khỏi bị gấp lại, rồi gởi cho em. Anh thấy đẹp thì
chắc chắn em cũng thích nó lắm. Có lẽ đẹp hơn những chiếc lá bàng của em rồi.”
Anh nhớ Mai đã viết cho anh như thế trong một bức thư cách đây khá lâu. Cách
đây hai ba năm? Có lẽ bốn năm hoặc năm năm chứ. Hồi đó mình mới đến nơi này mà.
Tháng nào cũng nhận được thư của Mai. Không biết cô nàng kiếm đâu ra tiền để
mua tem gởi thư lắm thế! Mỗi thư đi Mỹ phải dán con tem trị giá hơn 10 ngàn
đồng Việt Nam. Hơn một ngày lương dạy học của Mai. Chỉ để xin một chiếc lá!
Vâng, trong bức thư đặc biệt đó Mai chỉ viết vài ba câu xin gởi chiếc lá phong
thôi. Thế mà hồi đó mình không làm. Không chịu làm thì mới đúng. Trả lời thư
cũng đã lười, đã không có thì giờ, nói gì đến chuyện đi tìm một ngọn lá phong
thật đẹp đem đi gởi cho cô nàng.
Lại có những lá thư Mai kể lể tràng giang đại hải hàng trăm chuyện cũ anh
không tài nào nhớ hết, hoặc có khi anh muốn quên đi. Rồi thư từ thưa dần. Mà
lỗi là ở anh, anh biết điều đó. Anh không trả lời hoặc anh chờ nhận được ba,
bốn cái thư mới trả lời một lần cho tiện, cho nên Mai đâm nản. Tuy thế mới đây
anh cũng vừa nhận được một lá thư của Mai nhân ngày sinh nhật của anh.
***
Năm năm trời đã trôi qua kể từ ngày anh rời bỏ quê hương. Thời gian đi vùn
vụt tưởng như không muốn để lại dấu vết gì. Quên, quên hết. Vâng, anh tưởng
rằng anh đã quên hết, bỗng dưng hôm nay, một mình trong công viên lạ hoắc này,
anh nhớ lại mọi chuyện cũ. Anh nhớ rõ từng chi tiết hôm anh đến giã từ Mai:
“Anh đi em vui vẻ ở lại nhé! Khi nào lấy chồng nhớ báo cho anh biết.”
“…”
“Em còn trẻ lắm, nhưng đời người con gái …”
Mai ngắt lời:
“Đó là chuyện riêng của em. Anh khỏi lo.”
“Nhưng em có người yêu chưa?”
“Anh dám hỏi em như thế hả?”
“Xin lỗi em, anh không định nói thế. Anh muốn nói rằng một người như em sẽ
có khối người đi theo để em tuyển chọn, thì … thì em tha hồ …”
“Nghĩa là?”
“Nghĩa là … em quên anh đi. Em hãy đi kiếm … kiếm một người …”
“Thôi! Anh đừng nói nữa! Đủ rồi!”
Sau thời gian dài bị tập trung trong những trại tù cải tạo, sau những năm
tháng sống lây lất trong nhục nhằn khiến cho con người anh đanh lại, và chai
sạn — vâng, anh biết lắm, tất cả thanh niên miền Nam như anh đều bị hạ nhục một
cách “có hệ thống”– và sau nhiều lần vượt biên thất bại, cuối cùng anh được đi
Mỹ theo diện tỵ nạn. Những khó khăn ban đầu trên đất nước bao la này, nhằm nhò
gì, anh vượt qua một cách dễ dàng. Làm lại cuộc đời đã muộn màng, anh phải đuổi
theo thời gian, phải vượt thời gian, phải đi nhanh, phải vươn lên, vươn lên
mãi. Thức khuya. Học. Làm việc. Cứ thế. Ngày nào cũng như ngày nào, kể cả những
ngày cuối tuần và ngày lễ. Như cái máy. Anh không biết trời trăng mây nước ở
đâu cả. Anh muốn nói đến nghĩa đen của những chữ đó. Thật vậy, anh ít khi nhìn
mây, nhìn nước, mà dù có nhìn đi nữa, anh cũng không thấy nó, không biết đến
nó. Hơn năm năm qua anh đi trong mơ. Giấc mơ mù lòa. Anh hóa thạch. Thế mà trưa
hôm nay…
“Gặp nhau lần này là lần chót đó anh. Ngày mai em không ra phi trường tiễn
anh đâu, anh đừng giận.”
“Sao vậy em?”
“Em sợ.”
“Sợ gì? Sợ ai? Bà con, bạn bè hả? Kệ họ.”
“Không phải!”
“Thế thì em sợ ai?”
Mai ngập ngừng:
“Em sợ em.”
“Anh không hiểu em nói gì cả.”
“Vậy hả. Thế thì tốt. Thôi, mình nói chuyện khác đi.”
Anh nhìn kỹ Mai. Mai không vui nhưng bình thản. Không có một giọt nước mắt,
không một tiếng thở dài. Mai khác mọi ngày quá.
Cứ thế, mọi chuyện như đang diễn ra trước mắt anh. Hôm đó Mai vừa mới cắt
tóc gọn, mái tóc phía trước che một nửa vầng trán xinh đẹp, mái đằng sau không
phủ hết cái cổ trắng ngần. Chốc chốc Mai cắn chặt răng vào môi hằn lên những
vết tái đi trong khoảnh khắc rồi trở lại màu hồng nhạt. Những ngón tay thon và
dài mân mê chuỗi hạt trai đeo rũ xuống ngực.
Cảnh vật chung quanh anh cũng nhớ từng chi tiết một. Cũng một buổi trưa có
nắng vàng như nắng Cali hôm nay. Nhưng cuối mùa thu. Con đường Hàng Me, ngôi
nhà Mai ở gần cuối đường. Khu vườn xinh xắn có dăm ba cây chuối vào mùa nhiều
gió lá chuối rách xác xơ, dăm ba cây cau cao nghều nghệu và thẳng tắp, tàu lá
đu đưa trên bầu trời xanh lồng lộng, này anh, mẹ em bảo cứ để lại mấy cây cau
đó, đừng đốn hết, phòng khi cúng quảy, cưới xin có trái mà dùng, vài cây nhãn,
cây bưởi, cây khế chua, khế ngọt bông tím nhạt nhỏ li ti như những hạt cườm nạm
trên hài nhung, lá vàng lá xanh lẫn lộn, một cây đào cổ thụ vượt lên cao hơn
mọi cây cối trong vùng, hai hàng chè tàu xanh um và rất dài làm hàng rào cho
lối đi dẫn từ đường cái đến cái sân lát gạch trước nhà, tất cả bao bọc lấy ngôi
nhà xinh xắn mái ngói rêu phong.
Cái khung cảnh của ngày chia tay hôm đó đã để lại ấn tượng mạnh nơi anh, mà
trổi bật nhất là mấy cây cau đứng kề bên bể cạn. Những cây cau đứng nghiêm
thẳng người như toán lính trong buổi duyệt binh chào anh vĩnh biệt. Trời sinh
cây cau cũng lạ, cứ mọc lên cao mãi, thêm từng khoanh, từng khoanh, từng đốt,
từng đốt, liền lạc với nhau và thẳng đứng. Cây dừa đâu được như thế. Ngay cả
cây gồi, cây cọ trông gần giống như cây cau nhưng sần sùi và có những khúc cong
queo. Chỉ có cây cau là thon thả, thẳng tắp. Hàng cau đứng thẳng mình song song
với nhau hướng lên bầu trời lồng lộng, mắt nhìn xuống muốn nhắn nhủ với anh
điều gì!
Còn nữa, bên ngoài ngõ ở đằng xa trên một mô đất trống cỏ hoang mọc đầy là
một cây bàng lẻ loi mà em bảo là cây bàng mồ côi của em, và ngay trước cổng
nhà, hàng me chạy dài theo con đường cái. Cứ mỗi cơn gió, lá me ngoài đường cái
bay lăng tăng ríu rít vào sân nhà, dăm ngọn lá nhỏ đậu trên mái tóc ngắn của
Mai, trên hai vai nữa. Anh đưa tay gỡ lá me trên mái tóc ấy và buột miệng:
“Hôm nay mình gặp nhau lần cuối. Anh đi có lẽ không bao giờ trở về, và như
thế là mình … có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại nhau … mà sao em cứ tỉnh bơ như
vậy. Cho anh xin một chút nước mắt đi. Em coi hàng me ngoài đường kìa. Lá me
rơi như nước mắt rơi. Em, chia tay thì người con gái phải biết khóc chứ!”
Anh vừa nói vừa cười. Anh muốn pha trò nhưng Mai không hưởng ứng. Bỗng Mai
quay nhìn thẳng vào mắt anh và nói với anh bằng một giọng nghẹn ngào:
“Anh vô duyên lắm, lúc nào cũng đùa được. Không đúng chỗ, không đúng lúc. Để
em nói thiệt cho anh nghe, tối hôm qua em khóc một mình hết cả nước mắt rồi.
Bây giờ đâu khóc được nữa. Chỉ xin anh đừng đùa. Với lại mình đã đồng ý ai đi
đường nấy thì khóc lóc làm gì cho bận tâm.”
Nhưng anh vẫn tiếp tục đùa dai:
“Em tệ lắm. Cây me, một loài thực vật, mà còn có tình hơn loài người.”
Mai giọng rầu rầu:
“Anh nói trật lất mà cứ nói hoài. Lá me bay trông vui mắt. Không giống như
nước mắt rơi đâu. Hãy nhìn cây bàng. Nó đang thay em khóc đó anh. Anh, anh, anh
cứ nhìn những chiếc lá bàng đang rụng ngoài kia kìa.”
“Ồ, Mai đang làm thơ? Cây bàng khóc!”
Anh nhìn mông ra ngoài ngõ. Trên mô đất trống trải gió thổi mạnh từng hồi,
cây bàng lặng lẽ trút lá. Năm bảy chiếc rẽ lối bay thật xa, theo chiều gió.
Những chiếc còn lại rơi rơi, rơi rơi, lã chã rơi. Như những cánh chim bị đạn.
Như những dòng nước mắt đứt quãng. Anh cầm lấy đôi bàn tay của Mai, kéo Mai vào
lòng. Những giọt nước mắt nong nóng từ khuôn mặt bình thản đó thấm vào ngực anh
qua lần áo. Anh nhủ thầm những ngọn lá bàng của cây bàng mồ côi đó anh sẽ yêu
mãi mãi.
***
Thành phố nơi anh cư ngụ nằm không xa biển là bao. Thế mà trước kia anh
không hề nghe thấy tiếng sóng biển. Ngay cả đại dương mênh mông đó anh cũng
không biết đến nói gì tiếng sóng. Nhưng chiều nay tiếng sóng biển thỉnh thoảng
dậy lên trong anh. Tại sao thế nhỉ, tại sao thỉnh thoảng sóng gào to? Có lẽ
sóng biển bao giờ cũng vẫn thế, vẫn liên miên một điệu buồn từ ngàn đời. Nhờ có
những cơn gió thuận chiều mang đến cho anh lời biển gọi. Anh thầm hỏi có cơn
gió nào khác nữa không, một cơn gió thật ngoan và thật dài mang lại cho anh
ngọn lá bàng băng qua đại dương? Anh thở dài vói tay cầm ngọn lá phong lên ngắm
nghía.
Hơn năm năm trời anh cặm cụi học lại, gần xong đại học, và làm việc miên
man. Anh có xe hơi mới, anh có tiền trong ngân hàng. Để làm gì? Để mua một căn
nhà? Nhà cửa thì thủng thẳng, cần gì vội. Để đi du lịch vài nơi trên thế giới?
Anh chưa cảm thấy cái thú đi đây đi đó như những đồng nghiệp của anh, nhất là
người da trắng. Thì để dành tiền cho tuổi già sau này vậy, anh lẩm bẩm. Ồ,
chuyện đó còn lâu, từ từ hẵng hay. Thế mà mình cũng cứ mê mải làm cho lắm tiền,
không chút ngừng nghỉ. Mê mải như con thiêu thân thấy lửa là đâm vào. Cuộc sống
máy móc và đều đặn làm thay đổi tính tình của anh. Anh trở nên dửng dưng trước
mọi chuyện. Trong khi cây phong cứ mỗi mùa đông trút hết lá vàng để mùa xuân
năm sau lại đâm chồi nẩy lộc, lá lại xanh tươi trên cành, trên ngọn, thì anh
suốt năm năm trời quên sống. Thế mà chiều nay!
Nắng nghiêng nghiêng chiếu chói chang qua cửa kính xe. Những khóm hoa trông
mơn mởn thêm, hàng thông xanh trông xanh hơn. Bầu trời vẫn thế, vẫn những cụm
mây nõn êm trôi trên cái nền xanh biếc như đã trôi như thế cả ngàn năm. Anh
nhìn lại cây phong đứng cô đơn. Không còn một ngọn lá, nhưng chắc chắn trong
từng thớ gỗ của nó nhựa sống đang dâng lên rạo rực. Mấy con chim đâu rồi nhỉ,
có bay trở lại không? Có lẽ cặp vành khuyên ríu rít chưa bay xa, sẽ quay về.
Anh nhìn lại anh. Hơn năm năm trời anh thu mình trong cái mai cứng, sống ù
lì, không than van, không hối tiếc, không thắc mắc, không nhớ nhung. Năm năm mù
lòa đó đã qua rồi, vừa mới qua tức thì. Những ngày cũ đang rủ nhau kéo về khuấy
động. Vâng, anh không thể bỏ quên quá khứ được như anh đã bỏ quên trong suốt một
thời gian dài. Cho nên Mai ơi, cho anh chuộc tội nhé, cho anh gởi em chiếc lá
phong này trong một bao thư thật to, dù đã muộn màng, dù em có còn chờ đợi anh
hay không, dù em có còn yêu anh hay không, dù anh còn có thể nào gặp lại em hay
không. Để đánh đổi với em chiếc lá bàng rơi/.
Ngự Thuyết