Đại lộ Trần Phú chạy dọc bờ biển Nha Trang ngăn đôi bãi cát
với một dẫy những khách sạn cao tầng. Chiều xuống. Nắng còn gắt lóa trên mặt biển
phía xa sau dẫy cây bàng rậm lá. Từ khách sạn Hải Yến đi ra có hai người bận đồ
tắm, một đứa bé con giắt tay một ông già đi về hướng biển. Đến chỗ giữa đường
nơi có lề đất ngăn đôi thằng bé đưa tay cản ông già đứng lại chờ đoàn xe máy chạy
qua. Xe vãn. Ông già lụm khụm ôm bọc khăn tắm theo thằng bé bước qua đường.
Dưới tàn lá dừa trên hai chiếc ghế gỗ xếp thoải trên cát hai
người đàn bà ngả lưng tay vòng sau gáy nhìn biển. Thằng bé con tiến lại chiếc
bàn nhỏ đặt trước ghế hai người đàn bà quơ tay bốc một nắm kẹo vừng bỏ miệng rồi
vùng chạy ra bãi cát mịn. Một trong hai người đàn bà nói:
– Cẩn thận sóng to đó con.
Rồi nàng nhỏm hẳn dậy ngoái nhìn phía sau
lưng ghế. Ông già dáng người mập mạp lệnh khệnh bước những bước nặng nề trên
cát. Khi ông già lại gần nàng chỉ vào cái ghế trống dưới một gốc dừa cách đó
mươi thước nói:
– Ba ngồi ghế đó. Chiều nay sóng to ba đừng xuống nước. Ba
đưa con cái bọc...
Lát sau ba người nằm ngả trên ghế nhìn biển. Người đàn bà thứ
hai quay lại hỏi:
– Ông già của Nga trông còn khỏe nhỉ? Năm nay ổng bao nhiêu
rồi.
– Chưa được tám mươi. Khỏe thì có khỏe thật nhưng ổng lẫn lắm
rồi. Ở bên Mỹ người ta gọi đó là bệnh Alzheimer.
– Giây mơ? Bệnh gì vậy?
– Bệnh mất trí nhớ. Ổng còn khỏe lắm. Bữa nào cũng ba bát
cơm đầy. Hôm nào tao xới cơm vơi một chút là ổng cự liền. Ba tao còn khỏe thế
tao mới dám đưa về Việt Nam chơi. À, mà đám bạn cũ của bọn mình ở Nha Trang có
con nào còn ở đây không?
– Còn độc mình mình thôi. Dạo đó... cũng đã mấy chục năm rồi
còn gì... bây giờ tứ tán hết mỗi đứa mỗi phương. Từ ngày có “nét” mình mới lại
liên lạc được với nhau. Nga còn nhớ con Tảo không? Nó ngồi cùng bàn với Nga đó.
Nghe nói nó chết rồi, trong chuyến vượt biển...
– Thật hả?
Hai người thủ thỉ nói chuyện. Người đàn bà tên Nga lát lát lại
ngừng nói đứng thẳng người lên giơ bàn tay ngang trán nhìn lung về phía biển.
Ngoài xa đám người tắm biển nhấp nhô trên sóng. Gần mé nước trên vùng cát ướt từng
cơn sóng soải xuống chân đám người tản bộ dọc bờ. Mấy bà già bận đồ lụa bà ba,
gió thổi mạnh ép dính những cánh áo sát vào người. Một người đàn bà bận quần
jeans, ống quần vén cao, ngồi khuỵu chân dang tay đón đứa bé con bước chập chững
chạy trốn những đợt sóng tàn ào lên liếm cát. Mé trái trên vùng cát khô một lũ
trẻ con chạy lăng xăng dành nhau một quả bóng.
Dưới tàn dừa ông già nằm thiu thiu ngủ. Ông lơ mơ tỉnh thức.
Mắt ông nhìn ra ngoài khơi trong lúc trí ông trôi đi trong tiếng sóng vỗ bềnh bồng.
Chân trời xa in mờ màu lam của hòn Pyramid. Ông già không nhìn thấy hòn đảo. Ở
đó ông chỉ thấy một cái lô-cốt in trên nền trời. Lô-cốt của mỏm Ô Quắn một thuở
nào thật xa. Rồi Cap St Jacques hiện ra cùng với hình ảnh Gabrielle ngồi đó
trên bờ thành của lô-cốt đầu dựa vào vách đá nhìn ra khơi. Lẫn với tiếng sóng dạt
dào của biển ông nghe thoảng trong gió tiếng hát thầm thì của Gabrielle trong bản
nhạc Etoile des neiges: Dans un coin per-du de mon-ta-gne... Un tout pe-tit
sa-vo-yard... Chan-tait son a-mour dans le cal-me du soir... Près de sa
ber-gère au doux re-gard...
*
Năm Bôn mười sáu tuổi cha Bôn được bổ làm chánh án tòa thượng
thẩm Sài Gòn. Chính phủ cấp cho cha Bôn một căn nhà nằm trong một dẫy biệt thự
khang trang hai tầng dành cho viên chức cao cấp tại đầu đường Chasseloup Laubat
gần Sở Thú Sài Gòn. Thời gian đó vào khoảng năm cuối của thập niên 1940, những
con đường của thành phố Sài Gòn vẫn còn mang tên tây. Cạnh dẫy biệt thự là hai
cao ốc 6 từng dành cho gia đình những viên chức người Pháp ở. Phía sau hai cao ốc
là sân banh Citadelle khá rộng bao bọc bởi ba con đường Chasseloup, Albert 1er
và Richaud. Hàng ngày cắp sách đi học tại trường trung học Chasseloup Laubat
Bôn vẫn thường đi tắt băng qua sân banh ấy. Khu vực Bôn ở có khá nhiều cây xoài
thân cao, lá rậm, quanh năm lúc nào cũng trĩu nặng những quả; những quả xoài tượng
xanh, lớn, treo từng chùm lủng lẳng trên cao, trông rất bắt mắt. Vì cây xoài
thân lớn và cao không thể trèo lên hái được nên cách duy nhất là dùng ná bắn
cho xoài rớt xuống. Trong số những thằng tây sống trong cao ốc Bôn thân với
Robert, vì nó cũng như anh có cái thú dùng ná bắn xoài. Thỉnh thoảng Bôn cũng
theo cha con thằng Robert đi vòng vòng khu vực gần nhà để xem ba nó bắn chim.
Thấy một con chim lớn đậu trên ngọn cây, ba thằng Robert bẻ gập khẩu súng hơi rồi
nhắm bắn. Sau tiếng nổ đánh phẹt một cái con chim lạng đi, đâm chúi vào bụi
keo, Robert và Bôn chạy đi lùng chim. Có bữa ba thằng tây bắn một con chim cu
nhưng chim chỉ bị thương, nó bay là là xuống nằm yên trên mái nhà Bôn. Không có
cách chi lên mái nhà cao để lấy chim, ba thằng Robert giải quyết bằng cách nhắm
bắn con chim trên mái nhà một lần nữa. Ông ta nhắm rất lâu trước khi bóp cò, chắc
vì ông sợ nếu bắn hụt thì đạn có thể làm vỡ mái ngói nhà Bôn. Súng nổ, con chim
cu trúng đạn dẫy lên quay quay mấy vòng trên mái nhà trước khi rớt xuống.
Bắn được xoài thì Bôn thường chùi vỏ vào quần rồi cắn ăn. Thằng
Robert thì không thế, nó rút trong túi ra một con dao díp, gọt vỏ cẩn thận rồi
mới ăn. Bôn nhìn cách thằng tây gọt vỏ xoài thấy ngồ ngộ. Hắn đặt lưỡi dao trên
quả xoài rồi hớt ngược từ ngoài vào trong chứ không xỉa xỉa lưỡi dao ra ngoài
như cách Bôn vẫn làm.
Một bữa thằng Robert rủ Bôn lên trên sân thượng của cao ốc.
Nó bảo là ở sát nhà nó có một cây xoài rất cao, từ sân thượng có thể dùng ná bắn
xuống những chùm xoài tượng ở trên ngọn. Có thằng Robert Bôn mới được phép đi
vào cao ốc. Hai tòa nhà 6 tầng này được bảo vệ kỹ bởi một nhân viên an ninh cao
lớn và đen thui người chà-và. Hắn mặc đồng phục xanh, có dùi cui trên thắt
lưng, sẵn sàng tống cổ những thằng Mít như Bôn muốn tò mò phiêu lưu vào trong
hai tòa nhà. Lần đầu Bôn biết thế nào là thang máy. Vào trong cao ốc thằng
Robert kéo một cánh cửa sắt đẩy Bôn chui vào một cái lồng đen ngòm. Nó bấm nút
thì cái lồng đi lên vùn vụt. Nhìn ra ngoài song sắt thấy các từng nhà lướt qua
mà Bôn chóng cả mặt. Thang máy ngừng Bôn theo thằng Robert bước lên một cái cầu
thang hẹp, mở một cái cửa nhỏ thông ra một cái sân thượng rất rộng. Đứng gần bờ
sân Bôn nhìn bao quát xung quanh. Một dải xanh lá cây nhấp nhô phía trước là đỉnh
của rừng cây trong sở thú và vườn bách thảo. Thấp thoáng sau đó là con sông Thị
Nghè uốn khúc. Khu Hàng Xanh hồi đó không có lấy một căn nhà gạch chỉ là cánh đồng
ruộng bát ngát, rải rác một vài căn nhà tranh. Về phía sân banh Citadelle khu
Đa Kao hiện ra với những tòa nhà thấp, mái ngói san sát. Chỉ ở xa lắm về phía
trung tâm thành phố Bôn mới thấy một vài cao ốc nhô lên ở chân trời.
Một bữa kia Bôn mạo hiểm lên trên sân thượng một mình vì lúc
đó thằng Robert đi theo ba nó lên Đà Lạt nghỉ mát từ mấy tuần lễ. Bôn chờ cho đến
lúc thằng chà-và đi tuần ở cao ốc bên kia thì lẻn vào cao ốc bên này. Vào thang
máy anh bấm nút lung tung. Loay hoay một hồi rồi Bôn cũng lên được sân thượng.
May quá hôm đó Bôn không đụng phải một ông tây bà đầm nào xử dụng thang máy, nếu
không chắc chắn anh sẽ bị đuổi xuống. Sau nửa giờ dùng ná bắn xoài Bôn trở xuống.
Vừa đến cửa sân thượng Bôn giật mình nghe tiếng chân người bước lên cầu thang.
Lập tức anh thối lui tìm chỗ trốn. Tim anh đập loạn xạ vì anh cứ đinh ninh đó
là bước chân của thằng chà-và. Cả cái sân rộng có khoảng mười cái ống – không
biết ống khói hay ống thông hơi – khá rộng có mái xi-măng thấp che, trông
tựa như những cái nấm khổng lồ nhô lên khỏi sân. Chọn một cái thông hơi ở gần
Bôn bò xuống chui vào trong đó ngồi thu lu. Vì vướng cái mái che nên tầm nhìn
ra ngoài sân thượng của anh chỉ giới hạn khoảng một hai thước xung quanh chỗ ngồi.
Có tiếng bước chân nhẹ lại gần. Rồi hai ống chân trần của một bà đầm hiện ra.
Bà ta trải xuống sân một cái khăn tắm thật rộng rồi nằm xuống đó phơi nắng. Từ
chỗ nấp nhìn xuống Bôn thấy nửa phần dưới thân thể của bà đầm trong bộ đồ tắm
bikini hai mảnh hiện ra rất gần chỉ cách khoảng vài gang tay. Mặc dù Bôn ở ngay
sát cạnh có thể nghe được cả tiếng thở của bà, bà ta không biết có Bôn núp ở
đó, nếu anh chịu khó ngồi yên không để phát ra một tiếng động nào. Nhưng sau gần
nửa tiếng đồng hồ ngồi yên trong một tư thế nhất định người Bôn mỏi rừ, mồ hôi
vã ra như tắm vì nắng buổi trưa hấp trên sàn xi-măng sân thượng nóng không chịu
nổi, anh xoay người và đụng lưng vào một tấm thiếc. Tiếng động khiến bà đầm đứng
hẳn dậy cúi gập người nhìn vào trong ống thông hơi. Trước mặt Bôn hiện ra khuôn
mặt lộn ngược đầy kinh ngạc của bà Simône.
Bà Simône ngoắc ngoắc ngón tay và kêu suỵt suỵt ra hiệu cho
Bôn chui ra như kiểu bà ta gọi một con chó. Lúc Bôn ra ngoài đứng thẳng dậy, bà
ta nhìn vào mặt anh rồi bỗng rũ ra cười. Không hiểu bà đầm cười cái gì anh lí
nhí nói mấy câu tiếng tây giải thích lý do lên sân thượng, nhưng bà ta tỏ vẻ
không quan tâm tới lời giải thích của Bôn, bà nhặt khăn tắm vắt lên vai rồi nói
anh đi theo bà ta xuống cầu thang. Hai người đi trong một hành lang. Bà Simône
mở cửa vào nhà bà ta, một căn trên lầu 5 của cao ốc. Vào nhà bà đẩy Bôn đi qua
phòng khách, nhà bếp rồi vào phòng tắm. Khi đèn phòng tắm bật lên Bôn thấy trên
một tấm gương lớn hình anh và bà Simône và đến lúc ấy anh mới hiểu thái độ lúc
nãy của bà Simône: tóc tai mặt mũi Bôn dính đầy nhọ nồi, trông còn đen hơn cả
thằng chà-và gác cửa. Bôn bật lên cười. Bà Simône cũng cười theo anh trong
gương. Bà cao hơn Bôn một cái đầu, tóc bà màu vàng hung hung, hai mắt bà xanh
biêng biếc, chiếc mũi của bà cao và hơi vểnh lên, da mặt rám hồng vì phơi nắng,
nom bà còn trẻ vì nước da còn căng tuy nhiên khi cười, cái cười của bà có kèm
vài nếp nhăn nơi đuôi con mắt, cho thấy cái tuổi toan về già của bà Simône. Bà
dúi vào tay Bôn một cái khăn, mở vòi nước hoa sen và bảo anh tắm rồi bà đi ra
đóng cửa phòng tắm lại.
Tắm xong Bôn đi ra. Bà Simône ngồi hút thuốc lá trên ghế
xa-lông ở phòng khách. Bà vẫn bận đồ tắm hai mảnh nhưng khoác ngoài một chiếc
áo choàng bằng lụa. Bôn xin kiếu để về, nhưng bà Simône khoác tay bảo anh ngồi
chơi một lát. Ngồi xuống ghế anh đưa mắt nhìn quanh. Căn nhà của bà Simône tuy
nhỏ nhưng mọi thứ bầy biện gọn ghẽ và lịch sự. Phòng khách mở ra một cái
ban-công hướng về phía sân banh Citadelle. Tường treo các bức tranh của Renoir
và Cézanne. Trên một giá sách có đặt hai bức ảnh, một bức ảnh gia đình ba người,
bà Simône ngồi giữa chồng và con gái, bức ảnh thứ hai chụp chồng bà, ông Henry
bận quân phục. Bà Simône hỏi tên tuổi Bôn và khi biết anh theo học ở trường
Chasseloup Laubat, bà nói:
“Gabrielle học kém Paul một lớp. Nó học ở Marie Curie.”
Nói chuyện với bà Simône anh được biết là hai mẹ con ở cao ốc
này từ năm ngoái, ông Henry thỉnh thoảng lắm mới về. Ông ta là sĩ quan của quân
đội viễn chinh Pháp và đơn vị của ông ta trú đóng ở xa tận miền bắc. Lúc Bôn về
bà Simône nói là lần sau muốn lên sân thượng thì cứ lên nhà bà. Bôn gật đầu
nhưng từ đó anh không lên sân thượng bắn xoài nữa. Vài tháng sau, một bữa đi
trên đường Catinat Bôn gặp mẹ con bà Simône trước một cửa tiệm bán đồ thêu. Bà
giới thiệu anh với Gabrielle. Anh thấy con bé đầm dễ thương nên khi bà Simône mời
anh hôm sau lại nhà bà ta để xem trận đấu bóng bầu dục Rugby giữa hội tuyển
quân đội Pháp và hội tuyển Algérie trên sân Citadelle anh nhận lời ngay.
Hôm sau đến nơi anh mới biết là hai mẹ con xem đấu bóng từ
trên ban-công của tòa cao ốc nơi bà Simône đặt một cái bàn nhỏ và mấy cái ghế
mây. Trên bàn để chai bia Larue, bao thuốc lá Cotab và cái gạt tàn thuốc. Bà
Simône thỉnh thoảng đưa ly bia lên miệng uống, mắt bà không rời theo dõi
trận đấu đang diễn ra sôi nổi ở dưới kia. Cô con gái bà ta thì thờ ơ cúi đọc một
quyển truyện hình Tin Tin cầm trên tay, lâu lắm nó mới giật mình rời mắt nhìn
xuống sân banh mỗi khi mẹ nó đứng hẳn người lên vì kích động, tay vỗ liên hồi
miệng hô lớn: Bravo!
Lần đầu tiên xem môn bóng bầu dục Bôn không hiểu luật chơi
ra sao nhưng xem một hồi anh cũng bị lôi cuốn trong không khí căng thẳng của trận
đấu và tiếng reo hò của khán giả. Ở hai đầu sân banh thay vì hai khung lưới như
bóng tròn, họ thế bằng hai cây cọc thật cao. Dưới sân hai đội đấu thủ Pháp, một
đội quần xanh áo vàng, một đội quần trắng áo đỏ, cúi xuống khoác vai nhau làm
thành một vòng tròn ủi vào nhau, quả banh bầu dục được thẩy vào chân giữa hai đội,
rồi một người trong đội áo vàng bắt được ôm banh chạy vụt phía trước, tức thời
đội áo vàng dàn hàng ngang chạy theo, banh được chuyền tay thẩy từ người nọ
sang người kia, trong khi đội áo đỏ cũng dàn hàng ngang chạy lên truy cản.
Trong lúc theo dõi trận đấu bà Simône giải thích cho Bôn về luật lệ và cách
tính điểm của môn bóng Rugby, nhưng anh chỉ nhớ được hai điều là mỗi đội banh
bàu dục có 15 cầu thủ chứ không phải 11 như trong môn bóng tròn và khi chuyển
banh cho đồng đội không được thẩy cho người phía trước mà phải thẩy cho người ở
ngang hoặc ở phía sau mình. Lúc ấy anh mới hiểu vì sao mà khi dàn hàng ngang để
tiến lên bao giờ người ôm banh cũng dẫn đầu.
Mùa hè năm ấy vào ngày lễ 14 Juillet bà Simône rủ Bôn đi ra
Cap St Jacques tắm biển với mẹ con bà vào mấy ngày cuối tuần. Đến Cap ba người ở
khách sạn nơi bãi trước. Hôm sau bà Simône thuê xe ngựa chở ba người đi bãi sau
tắm. Chiếc xe ngựa lộp cộp trên con đường ven biển quanh co. Nửa giờ sau đó trước
khi đến bãi sau bà Simône bảo xe ngừng lại trước một bãi biển hoang vắng. Người
xà ích giật mạnh giây cương. Con ngựa nghẹo đầu sang một bên thở phì phò, chân
trước quẹt lộp cộp trên mặt nhựa. Từ trên lộ cao ba người nhìn xuống dưới bãi.
Lõm sâu phía dưới thành một hình vòng cung bãi tắm bao bọc bởi
những khối đá tảng xanh đen. Ba người xuống xe. Bà Simône chỉ vào chỗ có bóng
mát một tàn cây phía bên kia đường nói tiếng Việt với người phu xe: “Đợi, Đợi!”.
Rồi bà xách một cái giỏ lớn đựng thức ăn và đồ tắm tiến về phía những bực đá dẫn
xuống bãi. Gabrielle quay lại hỏi mẹ bằng tiếng Pháp:
“Bãi biển gì thế?”
“Bãi Point Au Vent”. Bà Simône trả lời.
Bôn nói:
“Bãi Ô Quắn. Người ta nói thế”.
Gabrielle nói tiếng Việt với Bôn:
“Ô Văng chứ sao lại Ô Quắn?”
Không đợi anh trả lời con bé kéo tay Bôn chạy xuống bực đá nằm
giữa hai bờ dứa dại.
“Đi, đi mau, Paul!”
Bà Simône lững thững bước xuống bực đá. Trước mặt bà ở dưới
sâu kia là bãi cát trắng và cong của Ô Quắn như một mảnh trăng lưỡi liềm ăn sâu
vào đá. Bên phải của bãi là một bờ đá dài nhô ra biển, một con đường đất nhỏ
ngoằn ngoèo dẫn tới một lô-cốt nằm chênh vênh trên một mỏm đá. Gió thổi mạnh
khiến bà Simône phải chụp mạnh tay giữ chặt chiếc mũ trên đầu. Lát sau khi bà
xuống đến lưng chừng giốc thì ở dưới kia Bôn nắm tay Gabrielle chạy ùa xuống biển
rỡn sóng.
Một đợt sóng cao đánh bật hai đứa trẻ dang xa nhau. Mồm mũi
Bôn sặc sụa trong nước biển mặn tanh. Nhoài người nhìn Gabrielle Bôn thấy nó
cũng như anh đang ngụp lặn trong những đợt sóng to chồm tới. Lát sau con bé đứng
thẳng người dậy day lưng phía biển đi vào bờ. Trong vũng chỉ còn mình Bôn. Anh
hơi sợ. Gió to quá, sóng lớn, bãi vắng không ai tắm. Gió to thế thảo nào mà chỗ
này người ta gọi là bãi Nghinh Phong. Bôn nhào lộn với sóng thêm vài chập rồi bỏ
cuộc. Lên bãi anh men bờ biển theo hướng Gabrielle đi về phía xa nơi có bờ đá.
Gabrielle đứng đợi dưới chân bờ đá cao. Nó chỉ về phía biển
bảo Bôn:
“Chúng mình ra chỗ lô-cốt kia đi, nếu leo lên đây được thì
khỏi phải đi lên đường cái xa lắm”.
Bôn nhìn những hòn đá tảng lớn chồng lên nhau cao ngất rồi
anh tiến lên trước, mỗi lần leo lên một tảng đá anh lại thò tay xuống nắm tay
Gabrielle kéo lên. Hai người leo tới đỉnh thì mệt nhoài. Gabrielle quay nhìn
bãi Ô Quắn giơ tay vẫy gọi mẹ lúc đó đang nằm dài trên bãi cát phía dưới tít
xa. Không thấy bà Simône vẫy tay lại, Bôn đoán là bà ta đang mải đọc sách hay
bà ta đang ngủ cũng không chừng.
Theo con đường mòn nhỏ ngoằn nghoèo, hai người đi vào vùng đất
nhô sâu ra biển mà lô-cốt nằm ở trên mũi nhọn. Đến gần thì lô-cốt là một cái
nhà vòm làm bằng đá dầy cộm, phía sau trống hổng, phía trước chắn bởi một bờ tường
đá dầy chỉ cao ngang bụng, mở ra một khoảng xanh ngắt của biển khơi Thái Bình
Dương dưới tít sâu. Trước kia ở nơi này lính Pháp đặt một cỗ đại bác lớn chĩa
ra biển để bảo vệ vùng duyên hải nhưng nay khẩu súng bị gỡ đi chỉ còn lại cái
chân giá bằng sắt nằm chính giữa nhà vòm.
Hai người nhẩy lên ngồi trên bờ tường đá phía trước.
Gabrielle ngồi đong đưa hai chân, ngửa mặt hứng gió thổi lồng lộng, hai bàn tay
nó vòng ra sau buộc lại lọn tóc màu hung vàng. Bôn nói:
“Hôm nay sóng to quá, không có ai tắm hết”
“Moa không sợ sóng to”. Gabrielle trả lời. “Moa sợ nhất là
những con sứa biển. Sao mà ở đây lắm thế. Toa không nhìn thấy hả? Chúng nó
trong vắt hình ngôi sao lượn lờ trong nước thấy mà ghê! Đụng vào chúng là ngứa
lắm nhớ. Lại còn có san hô ở dưới đáy, dẫm lên đau cả chân... Bãi Au Vent này
trông thì đẹp nhưng không tắm được.
“Moa thích tắm ở đây hơn, bãi trước đông nghẹt những người”.
Gabrielle không trả lời, nó ngồi dịch người vào trong, dựa
lưng vào vách, nhắm mắt lại. Lát sau Bôn nghe nó hát một bản nhạc anh vẫn thường
nghe qua một đĩa hát ở nhà bà Simône. Tiếng hát nhỏ nhẹ và mỏng bay tạt theo
gió: E-toi-les des nei-ges! Mon coeur a-mou-reux... C’est pris au pi-ège...
de tes beaux yeux... Je te don-ne en-gage, cet-te croix d’ar-gent... Et de
t’ai-mer tou-te ma vie, je fais ser-ment....
Nửa giờ sau hai đứa theo con đường cái xuống bãi. Người
xà-ích ngồi tựa vào gốc cây ngủ. Con ngựa bị buộc lâu một chỗ nó ngứa ngáy cái
đầu hục hặc. Xuống đến bãi Bôn thấy bà Simône trải trên cát một tấm vải lớn
trên bầy bánh mì cho buổi ăn trưa. Bà sửa soạn bánh mì jambon và pho-mát cho hai
người ăn, còn bà không ăn chỉ uống. Bà rút trong túi xách một chai rượu vang đã
khui sẵn rót đầy một cốc đưa lên miệng uống nhấm nháp. Lâu lâu bà Simône quay đầu
lại khum tay che gió bật lửa châm điếu thuốc lá, bà thở ra những làn khói nhẹ
nhàng ở khóe môi. Ăn bánh mì xong, Gabrielle thò tay cầm cốc rượu vang của mẹ
đưa lên miệng, bà Simône lườm con giơ tay toan cản nhưng lại thôi, con bé uống
một hớp lớn, nhăn mặt, đặt mạnh cốc xuống đất làm rượu đổ loang trên vải một vệt
tím thẫm. Lát sau con bé lại mò mẫm cầm bao thuốc lá của mẹ, tính rút ra một điếu
nhưng bà Simône giằng lại bao thuốc.
Bôn nằm xấp trên cát cạnh bà Simône. Gabrielle nằm ở phía
bên kia. Cảm thấy buồn ngủ anh thiếp đi một lát. Tỉnh dậy nhưng mắt vẫn nhắm
anh nghe có tiếng hai mẹ con nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp:
“Maman, sao lâu quá không thấy papa trở về? Mẹ có tin tức gì
của papa không?”
“Mẹ vẫn nhận được thư của papa đều. Dạo này chiến trường ở
miền bắc không yên, mẹ cũng thấy không an tâm lắm. Nhưng papa có hứa là tháng tới
thế nào cũng về... Còn con ra sao? Dạo này không thấy Robert lại chơi với
con...”
“Con ghét nó! Con không muốn gặp nó... Nếu nó có đến mẹ nói
là con không có nhà nhớ!”
“Chuyện gì thế con?”
Không thấy tiếng Gabrielle trả lời mẹ. Im lặng một hồi lâu.
Chắc Gabrielle đã ngủ. Bôn quay đầu hé mở mắt. Bà Simône trong bộ đồ tắm đang nằm
co một chân đọc sách, bà đội chiếc mũ rộng vành, mắt đeo đôi kính râm, chiếc
mũi cao của bà in trên nền trời xanh. Bôn nhìn xuống cặp đùi của bà Simône, cặp
đùi chắc nịch, rám nắng, nước da hồng lấm tấm những hạt cát bám giữa những sợi
lông tơ vàng óng ánh. Lóe trong trí anh cái cảnh ở trên sân thượng buổi trưa
hôm nào anh cúi xuống nhìn thật sát cặp đùi ấy. Hình ảnh một con ruồi bay ngoằng
một cái rồi đậu lên bẹn bà Simône in trong trí Bôn. Con ruồi đậu yên một lát.
Nó lấy hai càng sau địu đôi cánh mỏng xuống vuốt vuốt rồi nó bắt đầu thám hiểm
đi len lỏi giữa những sợi lông măng. Trong lúc con ruồi di chuyển anh thấy da
đùi của bà Simône rùng rùng. Rồi một bàn tay của bà Simône vu vơ khuơ phía dưới.
Con ruồi bay đi nhưng lại đậu ngay trên mu cao của chiếc quần bikini. Một lát
nó bò xuống đường riềm của chiếc quần tắm nơi có những sợi lông màu vàng quăn
thò ra. Bà Simône chuồi bàn tay qua rốn thọc vào trong quần tắm gãi. Con ruồi
bay đi.
Bôn nhắm mắt lại lòng hực lên một sự thèm muốn. Trưa hôm ấy
trên bãi Ô Quắn, nằm úp mặt trên cát mềm, lưng bỏng lên vì nắng,
Bôn lịm đi trong một cảm giác bềnh bồng thấy mình ôm cứng một vật gì mềm mại giống
như cặp đùi của bà Simône. Rồi anh trôi đi mê man trong cơn khoái cảm mà anh
chưa từng biết đến trước đó; cảm giác thống khoái tăng lên từng chặp, từng chặp,
như những đợt sóng biển dạt dào ngoài kia trồi lên hạ xuống càng lúc càng nhanh
và cao, cuối cùng đẩy anh lên đỉnh chất ngất anh rùng mình ngạc nhiên thấy lành
lạnh ở quần tắm.
Mùa hè đã hết. Sau chuyến đi Cap St Jacques ấy vào đầu niên
học mới Bôn đổi lên trường Yersin trên Đà Lạt học và kể từ đó anh không gặp lại
mẹ con bà Simône nữa. Mấy năm sau tình cờ gặp lại thằng bạn cũ, Robert cho anh
hay là Gabrielle và mẹ nó đã trở về Pháp sống. Còn ông Henry, chồng của bà
Simône đã tử trận trong chiến trường Điện Biên Phủ.
*
Dưới biển số người bơi đã vãn nhiều, nhưng trên bãi người đi
dạo mặc thường phục đông hơn. Hòn Pyramid ở ngoài khơi thẫm lại trong bóng chiều.
Dưới tàn dừa hai người đàn bà vẫn tiếp tục nói chuyện. Nga bảo bạn, giọng đè thật
nhỏ như sợ ông già nghe thấy:
– Khi nào già tao nhất
định về Việt Nam sống. Thấy cái cảnh ông già tao sống ở bển mà ớn quá. Ổng lú lẫn
quá rồi tao không coi sóc nổi phải để ổng ở nhà già. Mà như thế có yên đâu. Ổng
quậy quá người ta dọa đuổi đi mấy lần. Báo hại tao phải năn nỉ hết cỡ bây giờ mới
tạm yên.
– Nga nói ổng quậy là thế nào?
Liếc nhanh về phía ông già lúc đó vẫn còn như đang ngủ, Nga
trả lời bạn:
– Nói ra thật xấu hổ. Ông già tao đúng là già dịch. Cứ thấy
mấy bà y tá Mỹ nào lại gần là ổng làm bậy, bóp vú người ta tùm lum. Có bữa họ gọi
cảnh sát bắt ổng. Sau phải có giấy bác sĩ chứng minh ổng bị bệnh Alzheimer
không ý thức việc mình làm mới yên. Mà ổng cũng kỳ lắm hè! Không phải bạ ai ông
cũng sờ soạng đâu nhé. Bóp vú mà cũng có chuyện kỳ thị đấy! Ổng chỉ lựa mấy bà
Mỹ trắng tóc vàng thôi, còn mấy bà y tá đầu đen người Phi hay người mình ổng
chê. Khi bị người ta cự thì ổng lại chống chế sổ ra một tràng tiếng tây chả ai
hiểu ổng nói gì.
– Thế ba của Nga có biết việc mình làm không?
– Tao cũng chẳng biết. Có bữa tao hỏi ông cụ: “Ba có biết
mình sờ người ta như thế là xấu không?”. Ổng trả lời: “Biết chứ sao không biết!
Đụng vào người ta thì nó tát cho mấy tát ấy chứ lỵ!”
Lát sau Nga ngồi nhỏm dậy, xỏ đôi dép rồi đứng lên bảo bạn:
– Mình về thôi. Cũng muộn rồi.
Khi người bạn đứng lên, Nga khoác tay lên vai bạn, nói nhỏ:
– Hồi chiều tao hoảng quá! Lúc xuống thang máy ở khách sạn Hải
Yến, trong lồng thang máy có một bà du khách ngoại quốc ông cụ cứ nhìn trừng trừng
vào ngực bà ta làm tao vội vàng phải xen vô đứng chắn giữa hai người. Nếu chuyện
ấy xẩy ra ở đây bà ta hô hoán lên thì cứ là ế mặt hết. Thật khổ!
Bốn người đi trên cát, lưng quay phía biển. Thằng bé con
lăng xăng đi trước, vừa đi vừa đá một cái vỏ dừa. Hai người đàn bà đi giữa. Bà
bạn của Nga dáng nghiêng nghiêng vừa đi vừa nói chuyện trên cell phone. Ông già
bước những bước chậm chạp trên cát. Đến vỉa hè xi-măng của đại lộ Trần Phú hai
người đàn bà dừng lại đợi ông già lững thững phía sau. Ông già dừng lại thở,
quay nhìn phía cây bàng, nơi có những quán rượu với những chiếc bàn tròn phủ
khăn trắng và du khách ngoại quốc ngồi đầy kín trong những nhà chòi bằng lá dưới
những chiếc đèn lồng màu sặc sỡ đã bắt đầu thắp sáng. Có tiếng hát từ trong
quán vẳng ra. Một bản nhạc xưa. Ông già lắng nghe và nhận ra giọng cao vút của
nữ ca sĩ Edith Piaf. Ông mấp máy đôi môi theo với tiếng hát: Mou-lin des
a-mours... Tu tour-nes tes ai-les... Au ciel des beaux jours... Mou-lin des
a-mours... Mon coeux a dan-cé.... Sur tes ri-tour-nel-les... Sans mê-me y
pen-ser... Mon coeux a dan-cé... Ah, mon Di-eu, qu’ils é-taient jo-lie... Và
ông lịm đi trong giây lát nhớ lại tiếng hát của bà Simône. Phải, cũng bản nhạc ấy.
Moulin Rouge. Tiếng hát hòa lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp khi cỗ xe rời bãi Ô Quắn
trên đường trở về.
Nguyễn Tường Thiết