Năm 1947, tôi rời làng theo gia đình đi tản cư, những năm đi học ở “vùng tự do”
tại liên khu 5 không có dịp được đọc nhiều sách. Trong vùng kháng chiến đời sống
rất thôn dã, đi học nay đây mai đó trong những ngôi trường tạm bợ; không xuất bản,
không hiệu sách, được đi học với những quyển vở giấy nội hóa đen thui đã là may
mắn. Thỉnh thoảng cũng được một quyển sách mượn từ những gia đình giàu và học
thức, truyện Tàu, và nói chung những cuốn tiểu thuyết xuất bản trước 1945.Tôi
nhớ đã thấy, và đọc vài cuốn của Tự Lực Văn Đoàn trong thời gian này, và tôi
hay nhìn bìa sau của cuốn sách, xem thư mục của từng tác giả như là nhìn vào một
thế giới xa xôi không biết bao giờ mình mới có dịp biết hết những cuốn sách ấy.
Nhìn mãi đâm ra thuộc những tên như Thừa Tự, Thoát Ly, Trống Mái, Tiêu Sơn
Tráng Sĩ, Đoạn Tuyệt, Đôi Bạn, Bướm Trắng, Con Trâu, Bên Đường Thiên Lôi,
A-Na-Kha-Lệ-Ninh... mỗi tên sách là một bí mật đối với tôi, có khi có thể
tưởng tượng ra nội dung, có khi không hiểu ngay cả tên gọi --Cái Ve chẳng hạn,
đó là cái gì vậy? Mới ngoài mười tuổi, học hành theo lối được chăng hay chớ của
của thời kháng chiến thì kiến thức sách vở cũng trôi nổi lắm, nhưng những gì đọc
được, dù với trí óc còn non nớt, cũng gây ấn tượng mạnh. Nhưng suốt thời gian tản
cư tôi chẳng được đọc một quyển sách nào của Thạch Lam, ngoài cuốn Hạt Ngọc,
thuộc loại Sách Hồng dành cho trẻ em.
Niên khóa 1951- 1952 là năm học cuối cùng của tôi ở vùng
kháng chiến, trước khi tôi về thành. Hồi đó tôi học lớp Sáu, năm đầu tiên của bậc
trung học, trong một trường của huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Trong năm học ấy
nhà trường bắt đầu phát động chiến dịch đả phá nền văn hóa cũ, trong một đêm
sinh hoạt toàn trường theo lối đốt lửa trại, một giáo viên đảng viên đã nói rất
dài tuyên truyền cho văn hóa mới và dứt khoát với sách vở cũ, và cuối cùng để
minh chứng cho sự dứt khoát ấy, anh ta đã đốt tượng trưng một cuốn sách. Hỡi
ôi, đó lại chính là cuốn Sợi Tóc của Thạch Lam! Đứng gần đống lửa, anh
ta giơ cao cuốn sách và xoay một vòng cho mọi người nhìn thấy rõ, rồi châm lửa
đốt. Đó lần thứ nhì tôi thấy một cuốn sách của Thạch Lam trong tuổi thơ của
tôi, nhưng chỉ một phút trước khi nó biến ra tro.
Cuối niên khóa ấy với sự sắp xếp của gia đình, tôi từ Quảng
Ngãi về làng cũ bên dòng sông Thu Bồn ở Quảng Nam rồi về hẳn Hội An để tiếp tục
việc học. Hồi đó hình như ở Hội An mới chỉ có một hiệu sách là hiệu Nhất Tiếu
chỗ gần chợ, lần đầu tiên tôi đến đó vào một buổi tối, bước vào thấy rực rỡ dưới
ánh đèn néon biết bao nhiêu là sách, những cuốn trước kia tôi đã đọc thấy tên
và tin là chúng thuộc về một thế giới khác, nay hiện ra trước mắt tôi. Tôi nhớ
đã thấy cuốn Đôi Bạn bìa màu vẽ một cô gái đứng dưới hàng đậu, sau này
tôi mới biết cuốn đó được in bên Pháp, ấn tượng cuốn sách rất mỹ thuật ấy còn
trong tôi đến ngày nay. Sau bao năm đi học thiếu thốn gian khổ, bây giờ nhìn
sách, rồi nhìn vở, các loại giấy, bút mực, bút chì, còm pa, tẩy... món nào món
nấy tinh tươm đẹp đẽ, tôi nghe trong lòng trào dâng một nỗi niềm như là nức nở,
như là dạt dào gần như mê đắm trong một không khí văn hóa đối với tôi hoàn toàn
rực rỡ và mới mẻ.
Rồi tôi đi học, làm quen với không khí thị thành, và đọc
sách rất nhiều, đủ loại, kể cả những loại mà sau này mới biết là rất “rẻ tiền.”
Sự ngốn ngấu của kẻ thiếu ăn lâu ngày khiến không nhận rõ mùi vị và sự tiêu hóa
cũng rất là hời hợt.
Cuộc đình chiến năm 1954 là một may mắn cho lứa tuổi của tôi
để được quay về lại với thôn quê. Sau mấy năm gò bó trong thành phố cổ và nhỏ Hội
An với áp lực phía bên kia ngày càng nặng, hiệp định Genève như một tiếng thở
phào tung hê hết mọi biên giới, chúng tôi đi tắm biển Cửa Đại, chúng tôi về quê
nghỉ hè thỏa thích. Đúng lúc vừa chớm tuổi thiếu niên... Và quê bây giờ mới thật
là quê. Quê trong những năm kháng chiến khổ cực quá, và nhất là cái văn hóa vô
sản bắt đầu gặm nhấm làm mất đi cái thi vị và vẻ thuần lương của quê hương. Những
năm đầu kháng chiến tuy khổ, quê vẫn đẹp, vì tình cảm con người đẹp. Về sau,
khi những đợt phát động nọ kia bắt đầu – ví dụ đấu tố, hoặc đốt sách, như đã
nói trên kia – thì thôn quê thành rùng rợn, hoen ố. May mắn trong thời gian
này, một thời gian không dài trước khi chiến tranh bùng nổ trở lại, chúng tôi
có được một ít năm sung sướng với làng quê của mình. Sau 1954 tụi học sinh gốc
thôn quê chúng tôi hay về làng của nhau để thăm nhau trong các kỳ nghỉ, và đó
là một khám phá tuyệt vời. Làng xóm đang hồi lực sau chiến tranh, tình cảm con
người cũng đang phục hồi sau chín năm giặc giã, đã đón nhận những gã thiếu niên
trong một vòng tay ôm ấm áp. Chúng tôi đã thức qua đêm trong những trại ép mía
nấu đường ở giữa đồng, đã quan sát quá trình lớn lên và trưởng thành giăng tơ
làm kén của những lứa tằm, đã ăn những tô mì quảng đơn sơ nhưng ngon tuyệt vời ở
các quán mì nơi làng xa hẻo lánh, hoặc trải qua những buổi chiều chèo ghe trên
sông Cái... Bạn học gặp gỡ nhau hàng ngày suốt niên học, thế mà trong mùa hè thấy
mấy đứa bạn xuất hiện ở làng mình thì anh nào cũng rất cảm động, và mừng như thấy
lại được cố nhân tưởng không bao giờ được gặp nữa. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn
thiếu niên của lứa tụi tôi cùng lúc vừa khám phá ra chính mình vừa khám phá ra
quê hương quanh mình.
Điều ấy đúng với tất cả chúng tôi hồi đó. Nhưng riêng
tôi, có thể mượn câu ấy sửa đổi đi chút ít để diễn tả về một chuyện khác: Tâm hồn
thiếu niên của tôi vừa khám phá ra Thạch Lam và khám phá chính mình cùng một
lúc. Tôi khám phá ra ông hay là ông khám phá ra tôi, đúng hơn, khai mở
cho tôi, vì nhờ nhận ra ông mà tôi ý thức rõ hơn về tôi. Đó là một điều rất
lớn lao cho riêng tôi, nhưng tôi chỉ biết một mình, từ thuở nhỏ cho đến bây giờ.
Chính trong những ngày nghỉ hè của năm 1955 tại làng, tôi đã đọc Hà Nội Băm
Sáu Phố Phường và cả tinh thần tôi bừng nở. Cần phải đúng thời điểm ấy của
đời một người, khung cảnh ấy của lịch sử, và có cái duyên gặp những gì phải gặp.
Trước đó tôi đã đọc ông, tôi đã chọn truyện Tiếng Chim Kêu để làm thuyết trình
trước lớp, tôi đã “cảm” Tình Xưa và cái cảnh đìu hiu của khu phố huyện trong
truyện Hai Đứa Trẻ, nhưng chính tôi chưa được kêu gọi vào một cuộc thám hiểm.
Trong văn học, khám phá khác với cảm thụ. Đúng ra đó cũng là cảm thụ nhưng ở một
trình độ và trạng thái khác, có một bùng nổ trong cảm nhận, có phần chủ động của
mình tham dự trong đó. Chính mình phải vỡ ra để tiến từ một trạng thái này sang
một trạng thái khác hơn. Hà Nội Băm Sáu Phố Phường đã đóng vai trò tác động
ấy để nâng tôi lên một trình độ trưởng thành hơn. Một biến cố như thế, không
bao giờ quên được trong đời một người.
Có thể có người sẽ hỏi: có cái gì ghê gớm trong đó đâu, chỉ
là một cuốn tùy bút chủ yếu tả các món ăn, và một ít phong cách của đời sống, tế
nhị, nhẹ nhàng. Có cái gì mãnh liệt để đánh động ồn ào đến thế?
Quả vậy, hình như tôi ồn ào quá chăng? Nhưng đây là lần đầu
tiên tôi nói về điều này, nó chỉ là một trạng thái trong tôi, thuộc một thời điểm
đã xa, nếu có phần ồn ào thì chỉ là do một náo động bên trong. Thế thì cuốn
sách hiền lành ấy đã có cái gì để gây ra sự náo động đó? Một câu hỏi đúng, tôi
phải trả lời cho được câu hỏi đó thì mới biện minh được sự ồn ào của tôi.
Ngẫm lại, câu trả lời chỉ đơn giản thôi: chính là do sự tinh
tế ghê gớm mà Thạch Lam đã đạt được trong Hà Nội Băm Sáu Phố Phường, giống
như sự sâu sắc mà sau này lớn lên tôi bị choáng váng khi đọc Dostoievsky và một
phần nào đó, trong Bướm Trắng của Nhất Linh. Nhưng chính Thạch Lam là người
khai mở cho tôi cái mạch ngầm trong mọi sự việc vào đúng lúc tâm hồn tôi vừa độ
chín để mở ra đón nhận đời. Tôi chỉ xin đơn cử một ví dụ thôi, mời các bạn đọc
đoạn sau đây:
“Đối với các bà ăn dở và thích của lạ miệng – và độc nữa
– đã có bà hàng tiết canh và lòng lợn. Một mâm đầy những bát tiết canh đỏ ối,
ngòng ngoèo sợi dừa trắng, điểm xanh mấy lá húng tươi. Thế mà họ ăn ngon lành,
một lúc hai, ba bát. Rồi đánh thêm một đĩa lòng vừa dồi, cổ hũ với tràng dòn.
Ăn xong quét miệng đứng dậy, bước đi thành chậm chạp.”
Cả người tôi rung chuyển với năm chữ cuối cùng: bước đi
thành chậm chạp. Một đoạn văn ngắn tả thật khéo những thức ăn “độc” – những tiết
sống, những lòng, dồi...- nhưng quyến rũ, để người ta ăn thật nhiều, nhưng phải
quan sát tinh và hiểu một cách sâu xa tác động của những thức ăn không lành đối
với cơ thể của chúng ta mới có thể hạ năm chữ cuối cùng ấy. Năm chữ mà nói lên
quá nhiều, cả một quá trình tạo ra những thứ thức ăn độc hại, khó tiêu cho đến
kết quả sinh lý nhãn tiền của nó, sự tài tình ấy khiến tôi sững sờ: tại sao ông
có thể biết hết như thế, tại sao ông có thể diễn ra được những cái chuyển biến
sâu xa trong cơ thể người ta như thế, làm sao ông chỉ chọn mấy chữ “bước đi
thành chậm chạp” mà có thể cho biết toàn thể hình trạng một cơ thể lún vào cơn
mệt mề khi bộ tiêu hóa phải làm việc quá tải với những thức ăn “độc”? Đào sâu
những trạng thái lạ lùng trong tâm hồn con người như Dostoievsky thì đúng là
“phù thủy,” nhưng Thạch Lam thì nhẹ nhàng như không, chữ nghĩa ít ỏi, mà vẫn cứ
sâu sắc một cách phù thủy như thường.
Chuyện ấy ngoài tài nhận xét và diễn đạt, còn phải có sự
tham dự của thái độ sống của nhà văn nữa. Sau này lớn lên, già đi, ngẫm nghĩ về
sự khai ngộ mà Thạch Lam đem đến cho mình trong tuổi thiếu niên, tôi thấy yếu tố
“tâm” của ông đóng vai trò lớn hơn là “tài.” Khi viết về những gì quanh ông,
ông để cả tấm lòng thiết tha của ông vào, ông thương yêu cuộc sống này quá sức.
Ông không mấy khi nói về đạo Phật, nhưng thái độ của ông không khác của một thiền
sư, luôn luôn tỉnh thức trong từng sát na sống. Không tỉnh thức – và thương yêu
nữa - thì làm sao nhìn thấu suốt sự vật một cách tế vi như vậy được. Nếm một
món ăn một cách lơ đễnh theo kiểu “thực bất tri kỳ vị,” hoặc nhìn cách người ta
làm và ăn một món ăn mà không để hết tâm hồn của mình vào, thì làm sao nhận ra
cái ngon cái dở cái tác động của nó nơi người thụ hưởng. Tác giả “sợ các bác ốc
lắm,” nhưng có ai viết nổi mấy dòng sau đây về sự ăn bún ốc như Thạch Lam
không:
“Có ai buổi trưa hay buổi đêm khuya, đi qua các nhà cô
đào, và các chị em thanh lâu, thấy họ ăn cái quà ấy một cách chăm chú và tha
thiết đến đâu không? Nước ốc chua làm nhăn các nét mặt tàn phấn và mệt lả, miếng
ớt cay làm xoa xuýt những cặp môi héo hắt, và khiến đôi khi rỏ những giọt lệ thật
thà hơn cả những giọt lệ tình.”
Thưởng thức món ăn là một việc hoàn toàn cá nhân, “ai ăn người
ấy biết,” nhưng đến Thạch Lam thì thành một hiện tượng của nhân sinh, dầu món
đó là món mình sợ, nhưng vẫn “cảm” được cái ngon, qua quan sát người khác. Việc
đó chỉ có được khi nhìn với sự quan tâm, hiểu biết, cảm thông, và nhất là
thương yêu.
Nếu nói về tả các món ăn thì Vũ Bằng hay Nguyễn Tuân viết
cũng hay lắm, nhiều chỗ tôi rất lấy làm thán phục, nhưng “đọc xong rồi thôi,”
trong khi Thạch Lam ảnh hưởng tôi một cách căn bản và lâu dài. Hình như bên cạnh
– hoặc lẫn trong - tài năng của một nhà văn, còn có một cái gì khác nữa tiềm ẩn
trong mỗi dòng viết, và chính cái đó chinh phục người đọc một cách khác, mà sau
này tôi tạm nhận ra là tấm lòng đằm thắm đối với cuộc đời.
Tôi không ngờ đã có lúc chính Thạch Lam đã lý giải những
chỗ sâu xa ấy, chỉ đến gần đây thôi tôi mới được đọc cuốn Theo Giòng, và
một lần nữa, khoảng năm chục năm sau lần thứ nhất, lại khám phá ra ông. Bài
“Câu chuyện bên gốc liễu” là một bài lý luận văn học, nhưng đã phải đi vào siêu
hình để “hiểu” cái tâm hồn chân chính của người nghệ sĩ, cái mà tôi mơ hồ gọi
là tấm lòng của nhà văn. Thạch Lam nhận ra rằng chỉ lấy con mắt quan sát và mô
tả đúng những gì đã thấy – như những nhà văn “phái tả chân” làm - thì không đủ,
vì “người ta có thể tập nghe cho tinh tường, tập trông cho chu đáo, nhưng
không có con mắt của linh hồn thì không bao giờ soi thấu được cái bí mật của
tâm lý.” Làm sao mà có được “con mắt của linh hồn” ấy? Có lẽ ông tin vào
duyên nghiệp luân hồi của kiếp người, lưu giữ được ý nghĩa, hình ảnh, cảm xúc của
hằng hà sa số kiếp trước, và nhờ cái kho đó mà người nghệ sĩ mới thực hiện được
những tác phẩm muôn đời. Trong một chuyến đi chơi xuân ở vùng Lim, trước chùa
Bách Môn tác giả được thấy một cây đào nở hoa mà ông cho là một cảnh tượng phi
phàm: “... trước cổng chùa, một cây đào lớn trổ hết các bông hoa, làm hồng
tươi cả một phương trời. Ở cái nở tung của những cánh hoa mơn mởn ấy, có một
triều nhựa lên mạnh mẽ, một nguồn sống ngấm ngầm, tôi tưởng nghe thấy được. Đấy
là hơn sự đầy đủ của một thân cây, đấy hình như là sự nảy nở của cả vũ trụ, cả
mạch đất trong tiết xuân, một bài ca hát xốn xang và tươi thắm của những cái rực
rỡ tự mấy kiếp đời nào dồn lại. Nét huyền bí, mung lung của Phật Quan Âm, của
bà Vương Mẫu, vẻ thân mật và suồng sã trong giáng áo cô giai nhân của Bồ Tùng
Linh và màu da hồng của các tiên nữ trên thượng giới, tất cả những cái ảo ảnh ấy
đều linh động trước mắt tôi khi đứng ngắm cây hoa đào nở trước cửa chùa. Không
bao giờ tôi quên được cảm giác tôi lúc đó. Ở đâu mà có nguồn cảm giác ấy? (...)
Tôi chỉ biết rằng chúng ta mang ở trong tâm hồn nhiều mầm giống, và nhiều tình
cảm tự buổi nào.”
Các trạng thái đau khổ, vui sướng của con người, ông cũng thấy
là kinh nghiệm của biết bao là đời kiếp đã qua, và người nghệ sĩ là kẻ mang chứa
chúng nhiều nhất. “Nghệ sĩ vừa có tâm hồn của người lành, người ác, tâm hồn
của người quân tử và kẻ tiểu nhân, tâm hồn ông Thánh cho đến tâm hồn của kẻ trộm
cắp, giết người... không có cái nào mạnh đến thắng đoạt cả cái khác, nhưng tất
cả các tâm hồn khác nhau ấy hòa hợp, sôi séo lấy nhau để tạo nên lòng say sưa
cái Tuyệt Mỹ, Tuyệt Thiện, lòng ham mê sự sáng tác khiến nghệ sĩ ngang hàng cả
với trời.”
Cuốn Theo Giòng giải thích thêm cho những tác phẩm
ông đã viết trong đời. Huỳnh Phan Anh đã nhận xét rất đúng: “Những điều Thạch
Lam nói trong Theo Giòng, người ta có thể kiểm điểm lại ngay trong tác
phẩm của ông.” Dưới dạng lý luận, những gì ông viết trong Theo Giòng thể
hiện đúng những gì ông viết khi sáng tác. Dù đọc Theo Giòng muộn
hơn Hà Nội Băm Sáu Phố Phường năm mươi năm, tôi đã tìm thấy trong đó những
điều củng cố, soi sáng cho những bắt gặp của tôi trước kia. Trong năm mươi năm ấy,
tôi đã có lần tìm thấy những điều tuyệt mỹ tuyệt thiện trong các tác phẩm văn
chương, đã thấm thía cái ý nghĩ nhà văn nhiều khi chính là ông trời con khi họ
mang đến cho mình cái nhìn suốt thiên cổ, nhưng Hà Nội Băm Sáu Phố Phường
vẫn giữ nguyên vị trí ban đầu trong tôi không suy suyển. Sách vở của Việt Nam gần
một thế kỷ qua, đọc lại gặp nhiều sự thất vọng không giống như cảm giác hay ho
của mình khi đọc lần đầu, nhưng với Thạch Lam thì không. Mọi sự vẫn thế. Tôi
cho đó là một may mắn lớn cho tôi, không phải sửa đi sửa lại nhiều lần trong đời
những gì đã khai mở tâm hồn cho mình. Tự trong thâm tâm vẫn giữ được một sự
trung thành nào đấy của “thủa ban đầu” khiến tôi vui và an tâm với chính
mình.
“Thủa ban đầu” ấy là những năm tháng tươi đẹp của tôi, sau
đình chiến 1954, về với làng quê của mình, và với Thạch Lam. Tôi biết lứa tuổi
của tôi nhiều người đã khám phá ra những chân lý khác, trong đó một số đã đến với
chủ nghĩa Mác-xít và dâng trọn tuổi xanh của mình cho nó. Tùy môi trường, hoàn
cảnh, căn cơ của mỗi người thôi, khó nói chuyện đúng sai. Riêng tôi, có
ông khai mở tâm hồn tôi, những điều nhỏ nhẹ, nhưng vĩnh cữu: Hà Nội
Băm Sáu Phố Phường là một thứ kinh khai ngộ của tôi, sự vật quanh ta chứa
biết bao là ý nghĩa và vẻ đẹp, vào đúng một thời điểm nào đó trong đời cần có
người nói cho ta biết. Tôi đã nhận được lời nói ấy, vào một ngày hè đã xa,
trong ngôi nhà cổ của ông bà để lại, tại làng quê của tôi.
6-2004
Phạm
Phú Minh